Tiền chuộc trái tim - Chương 11 - Phần 1
Chương
Mười một
Đã mười năm kề từ lần cuối Hugo nhìn thấy ngôi nhà
mình, nếu ai đó có thể gọi thái ấp Stephensgate là nhà. Còn Hugo thì không thể.
Kí ức về sự phản bội của người anh trai vẫn còn sắc nét như thể nó chỉ mới xảy
ra ngày hôm qua. Và dù anh trai của chàng đã qua đời từ lâu, và bố mẹ chàng
cũng vậy, nhưng Hugo không thể tránh khỏi rùng mình khi chàng tiến vào cổng của
thái ấp.
Dù chuông nhà thờ trong làng đã điểm tám tiếng nhưng
trời vẫn còn khá sáng[13]. Và trong ánh sáng màu tím đó, Hugo có thể nhận rõ những
bức tường bằng đá bao quanh thái ấp Stephensgate. Nó không hẳn là một lâu đài,
bởi vì thiếu hào nước và cầu rút và các đồ vũ trang thường có ở một pháo đài được
phòng thủ tốt, thế nhưng nó vẫn là một tòa nhà đường bệ, phủ bóng xuống làng
Stephensgate như là một con chim săn mồi.
[13]
Tại Châu Âu, vào mùa xuân, hè mặt trời lặn khá muộn.
Được xây dựng hoàn toàn bằng đá, kể cả phần mái,
cùng với bức tường cao gần hai thước bao quanh chuồng ngựa, lò nướng bánh và
nhà kho, thái ấp Stephensgate là nơi ở cho chủ nhân của Stephensgate và thuộc hạ
của ngài vào thời chiến, thế nhưng công trình duy nhất thực sự phục vụ cho mục
đích này là hai tòa tháp ở biên sườn của thái ấp. Trên đỉnh tháp là những lỗ
châu mai nơi cung thủ có thể đứng nấp bắn vào kẻ địch ở bên ngoài.
Bởi vì chúng được xây dựng thuần túy cho mục đích
chiến sự, vậy nên bên trong tháp hoàn toàn không có gì ngoài cầu thang xoắn để
đi lên nóc.
Vì hơn một thế kỉ qua Stephensgate không phải trải
qua cảnh chiến tranh, hai tòa tháp bị bỏ hoang trước khi đến đời cha của Hugo,
và ngoại trừ khi Hugo hay anh trai Henry trèo lên những bậc thang đó vì một trò
chơi khăm trẻ con nào đó, Hugo chẳng hề thấy bất cứ ai khác vào những tòa tháp
đó vì bất cứ lí do gì. Bởi vậy mà khi chàng và John de Brissac đi qua cánh cổng
của thái ấp và xuống ngựa, Hugo ngạc nhiên khi nghe thấy tiếng gọi từ trên lỗ
châu mai.
“Xin chào.”
Hugo ngước nhìn lên trong ánh trời chạng vạng và thấy
khuôn mặt của một cậu bé trai đang cúi xuống nhìn chàng.
“Chào,” Hugo nói. Đó là một buổi tối yên ả, sự tĩnh
lặng chỉ bị phá vỡ bởi bởi tiếng gù gù của lũ chim câu đang làm tổ giữa các lớp
ngói của nhà chính. Giọng của chàng có vẻ như to một cách khác thường trong cái
sân tĩnh lặng.
“Chào Jamie,”Quận trưởng de Brissac vui vẻ gọi với
lên. Ông đã xuống ngựa, và con tuấn mã của ông, sau khi được giải thoát khỏi
gánh nặng đáng kể của ông chủ to lớn, nhún nhảy trên lớp đá sỏi. “Gọi Webster tới
đây đi nhóc. Chúng ta cần có người dắt ngựa đi.”
Đầu của Jamie không nhúc nhích, “Ông đi cùng ai vậy,
ông quận trưởng?” cậu hỏi. Hugo nhận thấy cậu bé chỉ khoảng chín hay mười tuổi,
nhưng cậu ta có cái vẻ rất là oai cho dù đang ở trên đỉnh tòa tháp cao tới sáu
thước.
“Người đó à?”Quận trưởng de Brissac tặc lưỡi.
“Đây chính là ngài Bá tước đấy.”
Cậu bé nhướn mày với vẻ quan tâm. “Đức ông Hugo ạ?”
“Đúng vậy đấy.”
Cậu bé nhìn chằm chằm vào Hugo trong một giây và rồi
mái tóc vàng óng biến mất. Hugo nhìn viên quận trưởng với vẻ thú vị.
“Thằng nhóc đó là ai vậy?” chàng hỏi, tháo đôi găng
tay cưỡi ngựa ra.
“Đó là Jamie.”
“Laroche đang cho phép bao nhiêu kẻ ăn bám tụ tập ở
đây vậy?” Hugo nhìn quanh sân và lấy làm kinh ngạc vì mười năm qua chẳng có gì
thay đổi cả. Các chuồng ngựa, lò bánh mì... mọi thứ vẫn hệt như vậy. Có thể là
hơi tiều tụy hơn một chút. Chắc chắn là không phải phồn thịnh hơn. Nhưng thật lạ
là lại giống nhà hơn.
Quận trưởng thở dài. “Đủ mọi loại luôn. Bao gồm cả
gã hộ vệ mà ngài đã cử về trước...”
“Vậy ư? Peter đã tới đây rồi à?” Hugo lấy làm ngạc
nhiên. Chàng chẳng mong hắn ta tìm được cầu Luân Đôn mà không bị lạc lấy một
vài lần.
“Hắn đã tới hôm qua, với một câu chuyện khá là giật
gân. Kể rằng ngài đã bị bọn cướp đường mai phục và rằng chúng sẽ gửi tin đòi tiền
chuộc ngài sớm. Laroche không biết chắc hắn ta là người thế nào nên đã cho gọi
tôi tới. Tất nhiên, khi thằng nhóc trông thấy tôi, hắn ta câm như hến.”
Hugo cười thầm. “Finnula đã bảo hắn rằng nếu hắn hé
miệng nói với quận trưởng về việc tôi biến mất thì mạng sống của tôi sẽ gặp
nguy hiểm.”
“Thì ra là thế. Webster đây rồi.”
Người hầu già đã từng coi sóc các chuồng ngựa của
nhà Fitzstephens từ thời mồ ma cha của ngài Geoffrey, lật đật bước về phía họ,
cặp mắt mờ đục của ông nhìn chằm chằm vào Hugo.
“Là ngài đấy ư, thưa Đức ông?”
“Là tôi đây, Webster.” Trái tim Hugo rung động vì những
cảm xúc bất ngờ khi thấy ông già đó vẫn đang làm việc ở thái ấp này, bất chấp
việc trở thành người tự do từ một năm rồi. Dù là một hay hai mươi năm, Hugo tin
rằng Webster sẽ chẳng ra đi cho tới khi ông chắc chắn rằng tất cả các mĩ nhân của
ông, như cách ông gọi lũ ngựa, sẽ được chăm lo đầy đủ.
“Thật vui được gặp lại ông,” Hugo nói, sải bước tới
và nắm lấy tay Webster.
“Đúng là cậu rồi,” Webster nói. “Tôi nhận ra cái siết
tay đó ở bất cứ đâu. Cậu chẳng bao giờ hiểu hết về sức mạnh của mình. Vậy là cậu
đã trở lại rồi.”
“Tôi về rồi đây,” Hugo buông tay ra. “Tôi sẽ ở lại
đây.”
“Cũng đã đến lúc rồi.” Ông già gật đầu. “Các mĩ nhân
của tôi bắt đầu phải chịu khổ rồi. Nhưng giờ thì cậu đã về, chúng sẽ ổn thôi.”
Chẳng nói năng gì thêm, ông già quay ra cầm lấy
cương của hai con ngựa, lê bước về phía cửa chuồng ngựa và thì thầm vào tai
Skinner. Hugo nhìn theo người hầu già, môi chàng mím lại với vẻ không hài lòng.
Chàng nói với viên quận trưởng, “Lẽ ra tôi nên thấy
hài lòng vì họ giữ ông ấy lại. Chúa biết họ có thể đuổi ông ấy đi khi mà ông ấy
mù lòa như thế này. Nhưng sao họ không sai một thằng nhóc giúp ông ấy...”
“Lại phải nuôi thêm một miệng ăn ư?” John de Brissac
nhếch mép cười dưới bộ râu rậm rạp. “Đó không phải là kiểu cách của ông chú họ
Laroche của ngài. Không, ông ta giữ ông già lại bởi vì chẳng thể kiếm được ai
làm tốt thế với tiền công rẻ mạt như vậy. Ông ấy rất tận tâm với lũ ngựa. Và
viên quản lí của ngài chỉ phải trả cho ông ấy mức lương của một cô vắt sữa
bò...”
“Ra là vậy. Lẽ ra tôi phải đoán được chứ. Thế còn thằng
nhóc Jamie đó?” Hugo nhìn qua sân để tìm thằng bé tò mò đó. “Nó không phải là
thằng bé trông ngựa sao?”
“Jamie ư? Không đâu.”
“Nó không phải là con của bà Laver đấy chứ? Bà Laver
còn làm trong bếp không?”
“Thì vẫn nhưng Jamie không phải là con của bà ấy, và
cậu bé vẫn giúp đỡ khi nào có thể, cho dù là rõ ràng cậu ta gây hại nhiều hơn
là giúp.”
Quận trưởng de Brissac vỗ vỗ hay tai vào nhau, một cử
chỉ mà Hugo nhận ra là kiểu cách ưa thích của ông. “Giờ thì, thưa bá tước, ta
nên gõ cửa hay là cứ tiến thẳng vào?”
Hugo thấy rõ rằng viên quận trưởng đang háo hức được
bắt tay vào việc, chẳng hề có chút nóng lòng mong được về nhà - John đã kể với
chàng rất thoải mái rằng ông ấy chẳng có bà vợ nào đang đợi ở nhà, chỉ có mỗi
bà mẹ già hay gắt gỏng.
Không giống như quận trưởng, Hugo chẳng mấy háo hức
với cảnh tượng đang chờ đợi chàng. Chàng đã thấy quá đủ cảnh chết chóc, bạo lực,
và chẳng mong mỏi gì hơn một cuộc sống yên ả, mà chắc chắn điều đó sẽ chẳng xảy
ra với người vợ mà chàng đã lựa chọn, nhưng chàng chắc có thể đạt được sự bình
yên khi nào chàng và Finnula đã lên chức ông bà. Trông coi lũ nông nô, tham dự
một hai giải đấu và chăm sóc con cái là tất cả những sự vui thú mà chàng muốn
trong phần còn lại của cuộc đời.
Nhưng để có được sự bình yên đó, chàng cần phải tống
cổ Laroche khỏi nhà của chàng, vậy nên chàng nói, “Vớ vẩn, John ạ. Sao tôi lại
phải gõ cửa khi vào nhà của chính tôi chứ?”
Nói rồi chàng giơ tay ra để mở cánh cửa nặng nề,
nhưng cái chốt bằng sắt đã được rút ra ngay trước khi chàng chạm vào nó. Cánh cửa
bằng gỗ sồi nhích ra và một mái đầu tóc vàng quen thuộc ló ra.
Đứng chỉ cao đến hông của Hugo, Jamie nói bằng cách
giọng cao chói lói, “Xin mời vào. Các ngài đừng đứng ngoài đó mãi thế.”
Hugo cuối xuống nhìn thằng bé. “Cháu thoải mái như
thể thái ấp Stephensgate là nhà của cháu ấy nhỉ?”
“Con mong là như vậy,” Jamie nói. “Con sinh ra ở đây
mà.”
“Vậy à?” Hugo đi lướt qua cậu bé tiến vào đại sảnh của
ngôi nhà, cũng chính là một phòng ăn rất lớn.
Đại sảnh chiếm gần hết tầng một của tòa nhở giữa là
phần trần vòng cung giống như trong một nhà thờ, từ đó rủ xuống mấy dải biểu ngữ
tơi tả có từ thời chiến tranh xa xưa lắm rồi.
Ở cuối sảnh, đối diện với cửa chính là một lò sưởi rất
lớn, đủ để làm ấm toàn bộ căn phòng. Phía trước lò sưởi đã đặt sẵn hai cái ghế
tựa cao. Ngay lập tức, Hugo nhận ra người ngồi trên một trong hai cái ghế đó là
gã hộ vệ Peter của chàng. Còn trong chiếc ghế kia là một người đàn ông gù gù mà
Hugo nhận ra là ông em họ Reginald Laroche của cha chàng.
Nghe thấy tiếng họ bước vào, Peter quay đầu lại và
thốt lên đầy vui mừng.
“Nhìn này!” gã hộ vệ gọi to, giọng của hắn ta vang vọng
khắp căn phòng rộng, “Ông chủ của tôi đây rồi!” Bước đi lảo đảo, Peter lao qua
phòng để chào đón Hugo và quận trưởng, và Hugo nhận ra ngay lập tức rằng hắn ta
đang say. Đồ ngu nào đã mở hầm rượu cho hắn thì Hugo chỉ có thể đoán, nhưng gã
trai say sưa đến mức gần như không thể đứng vững nổi. Dù vẫn mặc cái áo chùng bằng
nhung, ít ra gã đã bỏ đi bộ giáp xích và đeo một sợi dây chuyền bằng vàng mà
Hugo chưa thấy bao giờ. Chàng hi vọng không phải Laroche đã cho hắn để hòng chiếm
lấy sự trung thành của hắn. Hugo biết thừa rằng một mưu mẹo như thế sẽ thành
công bởi vì chàng biết rõ sự phù phiếm của Peter. Chỉ cần tắm cho hắn trong quà
tặng và cho hắn say khướt như con lợn trong bùn là có thể dễ dàng chiếm được
tình cảm của hắn.
Hugo phớt lờ gã hộ vệ, ánh nhìn của chàng hướng về
người đàn ông đã đứng dậy và chậm rãi tiến về phía họ, với cánh tay mở rộng
trong một cử chỉ thề hiện sự chào đón.
“Đây không thể nào là Hugo Fitzstephen,” Reginald
Laroche thốt lên. “Đây đâu phải là chàng trai trẻ đã ra đi mười năm trước trong
cơn giận giữ. Chẳng phải sáng hôm đó cháu đã nguyền rủa tất cả mọi người trong
cái nhà này sao, thưa bá tước? Giờ thì nhìn cháu mà xem. Cao lớn hơn nhiều bố
cháu ngày xưa. Chuyến trở về vui đây chứ John nhỉ? Tôi thấy là anh đã giải cứu
bá tước của chúng ta khỏi lũ cướp đường đê tiện mà Peter đã kề cho tôi nghe...”
“Chẳng phải bọn cướp đường gì đâu, Reginald ạ,” John
nói, “Đó chỉ là tác phẩm của nữ thợ săn yêu quý của chúng ta thôi.”
Khuôn mặt của viên quản gia sa sầm một chút khi nghe
nhắc tới Finnula. Ông ta là một người khá cao, dù không vạm vỡ như Hugo, để ria
và khẳng khiu, với mái tóc đen đã ngả bạc ở phía trước. Hugo nhớ rằng lúc nào
ông ta cũng có mặt trong thời của cha chàng, không chỉ như một người nhà, một
người cố vấn, một viên tổng quản, mà trên hết là bạn thân nhất của Geoffrey
Fitzstephen. Một người bạn mà nếu sự nghi ngờ của Hugo là đúng, có thể đã sát hại
cha chàng để nắm lấy quyền kiểm soát thái ấp, và rồi đổ tội lên cô dâu vô tội của
vị bá tước quá cố.
“A,” Reginald thốt lên và sự thất vọng trong giọng
nói của ông ta chỉ có một nửa là giả vờ. “Thế mà gã hộ vệ của cháu nói với bọn
tôi rằng những kẻ đó ghê gớm lắm!”
“Cô ta đã nói sẽ giết ông chủ nếu tôi để lộ điều gì,”
Peter nói líu nhíu một cách sung sướng. “Nhưng mà tôi sẵn sàng chết một ngàn lần
để đổi lấy một nụ hôn từ cô nàng...”
Nụ cười của Reginald dường như đóng băng trên khuôn
mặt hẹp của ông ta. “Chúng tôi đang chờ thư đòi tiền chuộc, nhưng vui mừng thay
cháu đây rồi. May quá, con gái tôi... cháu nhớ Isabella chứ? Giờ nó đã thành một
thiếu nữ xinh đẹp... và nó đã chuẩn bị phòng ngủ của cha cháu sẵn sàng cho
cháu...”
Hugo nhướn mày. “Chẳng phải chú đang sử dụng nó sao,
Reginald?” chàng hỏi sau sự ra hiệu của quận trưởng.
“Cái gì, tôi ấy à? Phải rồi, nhưng giờ khi mà cháu
đã trở lại, thưa bá tước, nó chỉ hợp với...”
“Đúng đấy.”
Hugo thấy rõ Laroche định chơi trò gì. Người chú họ
trung thành, đã cố gắng hết sức để chèo chống thái ấp sau cái chết đau đớn của
ngài bá tước, giờ lại rất vui sướng được phục vụ hậu duệ của Đức ông quá cố. Chắc
hẳn Laroche không biết rằng Hugo đã được nghe nói ít nhiều về tình hình đất đai
và nông nô của chàng. John de Brissac chẳng có lí do gì để ba hoa điều đó, và sẽ
chẳng có ai khác dám làm điều đó. Ngoại trừ tất nhiên là Finn Xinh đẹp. Nhưng
cô ta đang bị nghi ngờ về việc ám sát ngài Geogttrey. Ai lại ngu ngốc đến nỗi
tin lời của cô ta?
“Nơi này trông ổn đấy, chú Reginald ạ.” Hugo nói. “Tôi
rất mừng khi thấy ông già Webster ở ngoài kia. Nhưng chắc chú thấy rõ là ông ấy
giờ yếu đi nhiều rồi. Chú có nghĩ đến việc cho người giúp ông ấy chưa?
“Mọi việc bây giờ không còn được như xưa đâu, thưa
bá tước. Không hề.” Gã quản gia lắc đầu với vẻ đau thương. “Cha của cậu đã bán
đi gần hết số ngựa trước khi ông qua đời. Việc duy trì một tàu ngựa lớn chẳng
có ích gì khi mà ông ấy chỉ còn có một mình, cậu biết đấy...”
“Ông ấy làm vậy thì lạ thật, chú có nghĩ vậy không?”
Hugo quát găng tay của chàng vào một cái khiên treo trên tường, với gia huy của
dòng họ Fitzstpehen có hình hai con chim cắt và một con cừu. “Xét theo việc ông
ấy định kết hôn. Ít ra, hẳn ông ấy phải dành cho cô dâu của mình một con ngựa
chứ. Rồi còn con cái của họ nữa...”
Reginald do dự, nhưng chỉ trong một giây. “Ngài quận
trưởng đã kể với cháu chuyện đó rồi phải không? Đúng là một ngày đen tối trong
lịch sử dòng họ. Sự điên rồ đã chiếm hữu cha cháu trong những tuần lễ bất hạnh
đó, dẫn tới cái đám cưới yểu mệnh...” Mặt viên quản gia tối sầm khi nhớ lại kí ức
đó, rồi với một tiếng thở dài, ông ta tươi tỉnh trở lại, giống như một người
đàn ông muốn được gạt bỏ những ý nghĩ không hay lại phía sau.
“Nhưng sẽ chẳng có ích lợi gì mà cứ níu kéo những
ngày đau buồn đó, khi mà có bao ngày vui đang đợi cháu ở phía trước, thưa bá tước.
Chúng ta phải ăn mừng sự trở về của cháu mới được. Jamie, chạy đi bảo bà Laver
rằng ngài bá tước đã trở về, và bảo bà ấy hãy chuẩn bị một bữa ăn xứng đáng với
một vị bá tước. Bảo bà ấy là ta cho phép giết một con lợn thật béo tốt...”
Jamie đang quan sát toàn bộ sự việc với đôi mắt màu
hạt dẻ mở to, trông có vẻ giật mình. “Một con lợn ư, thưa ông? Tiểu thư
Isabella sẽ không thích thế đâu...”
“Bảo với tiểu thư Isabella rằng ngài bá tước đã trở
về. Nó sẽ hiểu thôi.” Reginald chậm rãi nói, rít những từ ngữ qua kẽ răng theo
cách của một kẻ quen với việc mệnh lệnh của mình được thi hành ngay lập tức. Cậu
bé lập tức chạy biến và viên quản gia quay lại với một tiếng thở dài.
“Thời buổi này tìm được người tin cẩn khó làm sao,”
Reginald nói, lắc đầu.
“Tôi cũng nghĩ chắc là khó khăn lắm.” Hugo khoanh
tay trước ngực. “Đặc biệt là khi chú chỉ trả cho họ một phần ba mức họ đáng được
nhận.”
“Gì cơ?” Reginald trông có vẻ bối rối.
“Chú nghe rồi đấy.” Hugo gằn giọng. “Peter, ra chuồng
ngựa giúp Webster buộc ngựa của chúng ta đi.”
Peter say đến nỗi gần như không đứng vững, ấy thế
nhưng vẫn khó bảo như mọi khi. “Giúp Webster à?”
Gã rên rỉ. “Tại sao ạ? Ông già đó có thể lo cho hai
con ngựa được mà. Hơn nữa chỉ có ba con nữa trong tàu ngựa...”
“Làm như ta bảo!” Hugo gầm lên, giọng của chàng vang
vọng khắp đại sảnh.
Peter nhảy dựng lên và chạy biến. Hugo chưa bao giờ
thấy gã chạy nhanh như vậy và chàng cảm thấy rất hài lòng rằng dù đang say,
nhưng gã hộ vệ vẫn rất mau lẹ.
“Thưa bá tước,” Reginald nói, khi cánh cửa gỗ sồi to
lớn đóng sầm lại sau lưng gã hộ vệ. “Có chuyện gì à? Thứ lỗi cho tôi nói thẳng,
nhưng dường như cháu... không hài lòng.”
“Thành thực mà nói, thưa bá tước,” Reginald nói tiếp
với một nụ cười ngọt xớt, “nếu việc ngài Geoffrey bán ngựa khiến cháu lo lắng,
thì tôi có thể nói rằng những tuần cuối đời của ông ấy không được dễ chịu cho lắm.
Ông ấy dường như là một người bị ám ảnh...”
“Hay một người với đầu óc bị phá hủy từ từ bằng thuốc
độc,” Hugo hòa nhã nói.
“Thuốc độc ư, thưa bá tước?” Tay quản gia nhướn mày
ngạc nhiên. “Cháu vừa nói là thuốc độc ư? Vâng, người ta có nói về khả năng bị
đầu độc vào lúc ông ấy qua đời. Tôi cho rằng con nhóc mà ông ấy cưới đã lén bỏ
thứ gì vào cốc của ông ấy...”