Nam Hải dị nhân - Chương 7 - Phần 2

TỪ ĐẠO HẠNH

Từ Lộ tự Đạo Hạnh, người làng An Lãng (tức là làng Lãng) huyện Vĩnh Thuận (Hoàn Long), làm thầy cúng ở chùa Tiên Phúc, núi Phật Tích (tức là chùa Thầy ở Sơn Tây). Khi xưa thân phụ Từ Đạo Hạnh là Từ Vinh làm Tăng quan đô sát triều nhà Lý, thường vào chơi làng An Lãng, mới làm nhà ở đấy, lấy con gái họ Lăng, sinh ra Đạo Hạnh.

Đạo Hạnh lúc còn bé hay chơi bời, nhưng vẫn có chí, cùng với Phí Sĩ, Phan Ất, Lê Hoàn kết bạn, đêm thì cố công đọc sách, ngày thì đàn sáo đánh bạc làm vui. Cha thường vẫn trách mắng là biếng học, nhưng sau biết cứ đến đêm thì chăm học lắm, từ bấy giờ mới không nói gì nữa.

Về sau Đạo Hạnh thi khoa Bạch liên đỗ Tăng quan. Không bao lâu cha là Từ Vinh dùng tà thuật phản ông Diên thành hầu. Diên thành hầu nhờ thầy phù thủy là Đại Điên dùng phép đánh chết, quẳng xuống sông Tô Lịch. Thây ông Từ Vinh trôi qua cầu Yên Quyết, đến bên nhà ông Diên thành hầu, bỗng nhiên đứng lên trỏ tay vào trong nhà, suốt ngày hôm ấy không đi. Diên thành hầu mời Đại Điên đến. Đại Điên đến nơi quát rằng:

- Thầy chùa giận không để cách đêm, dù sống dù chết, cũng là một giấc mộng mà thôi.

Nói dứt lời thì thây ngã xuống trôi đi. Từ Đạo Hạnh muốn báo thù cho cha, rình khi Đại Điên đi chơi, muốn đón đường đánh, bỗng nghe trên không có tiếng ngăn rằng: “Chớ! Chớ!”. Vì thế bỏ gậy mà chạy về.

Đạo Hạnh nghĩ lấy làm tức giận lắm muốn sang nước Ấn Độ học phép, nhưng đi qua núi Kim Sỉ, hiểm trở lắm phải trở về. Đạo Hạnh mới vào trong hang núi Phật Tích, kết thành hội Bạch Liên, để học phép Ngũ giáo. Ngày nào cũng tụng kinh “Đại bi tâm” và niệm câu thần chú “Bà la ni”, cứ tụng 18 vạn lần mới thôi.

Một hôm thấy thần báo mộng rằng:

- Đệ tử tức là Tứ trấn thiên vương đây, cảm công đức của thầy tụng kinh cho nên lại hầu, tùy thầy muốn sai khiến gì tôi xin vâng lệnh.

Đạo Hạnh biết là đạo pháp mình đã thành rồi, có thể phục thù được cho cha, mới đến đầu bến sông Yên Quyết, cầm cái gậy ném xuống sông. Nước sông chảy xuôi mà gậy thì trôi ngược, trông tựa con rồng, đi mãi đến cầu Tây Dương mới thôi.

Đạo Hạnh mừng nói rằng:

- Phép ta hơn Đại Điên nhiều rồi!

Đạo Hạnh mới dùng phép tàng hình đến thẳng chỗ Đại Điên ngồi chơi, bảo rằng:

- Mày còn nhớ việc ngày trước không?

Đại Điên ngẩng đầu lên trông, không thấy gì. Đạo Hạnh cầm gậy đánh, Đại Điên vì thế thành bệnh mà chết.

Đạo Hạnh báo xong thù rồi, từ bấy giờ tan hết oán cũ, sạch hẳn lòng trần, mới đi chơi khắp nơi rừng núi, hỏi tìm ấn chứng. Nghe có Kiều Trí Huyền tinh thông đạo phép, đến hầu tận nơi, hỏi thế nào là chân tâm.

Có câu kệ rằng:

Lâu nay vẫn đám hồng trần,

Vàng còn chẳng biết, biết chân tâm nào!

Xin cho trỏ bảo làm sao?

Cho tìm thấy rõ kẻo nao lòng người.

Từ Trí Huyền cũng đọc một câu kệ đáp lại rằng:

Năm âm bí quyết là vàng,

Trông ra đầy mắt rõ ràng thuyền tâm.

Bồ đề đạo phật u thâm,

Muốn tìm tới đó muôn tầm chẳng xa!

Đạo Hạnh thấy câu kệ như vậy, chưa hiểu ý tứ ra làm sao, mới đến hỏi ông Pháp Phạm Sùng Vân rằng:

- Thưa ông thế nào gọi là chân tâm?

Sùng Vân nói:

- Cái gì chẳng phải là chân tâm?

Đạo Hạnh bấy giờ mới tỉnh ra, lạy từ ông ấy rồi trở về. Từ bấy giờ pháp lực lại càng tấn tới, nội là rắn độc trong núi, hùm dữ trên rừng, cũng có phép sai khiến được cả.

Có một thầy tăng nói rằng:

- Khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, đó là phật tâm.

Đạo Hạnh đọc câu kệ rằng:

Có thì có tự mảy may,

Không thì cả thế gian này cũng không.

Thử xem bóng nguyệt dòng sông,

Ai hay không có, có không là gì?

Bấy giờ vua Lý Nhân Tôn chưa có con, có người ở Thanh Hóa ra tâu rằng:

- Ở ngoài bãi bể, có đứa con trai lên 3 tuổi, tự xưng là Hoàng tử, gọi là Giác Hoàng. Nhà vua có những sự gì, y cũng biết cả.

Vua sai sứ đến xem tận nơi, quả nhiên có đứa trẻ ấy, mới đem về kinh, cho ở trong chùa Báo Thiên. Vua thấy đứa trẻ ấy thông minh thần dị lắm, muốn nuôi làm con.

Các quan can rằng:

- Nó tuy linh dị, nhưng tất phải thác sinh vào trong cung cấm mới được.

Vua nghe lời, thiết tuần chay to bảy đêm ngày, để cho nó làm phép đầu thai.

Đạo Hạnh nghe chuyện làm vậy, bảo riêng với chị rằng:

- Đây tất là Đại Điên, muốn đầu sinh vào cửa nhà vua để báo thù đây, kẻ kia dùng tà thuật, làm hoặc[ciii] người ta đã nhiều, tôi sao nỡ ngồi nhìn mà không cứu, để nó làm càn hay sao?

[ciii] Gạt gẫm (BT).

Mới bảo chị ăn mặc giả nhà sư, cầm giấu vài quả ấn pháp sư, giắt lên mái nhà chỗ đàn chay. Cúng được ba hôm, Giác Hoàng phải bệnh, bảo với người ta rằng:

- Khắp cả thế giới, chỗ nào cũng chăng lưới sắt, không có đường nào mà đầu thai được.

Nói xong thì mất. Vua sai tìm các nơi có bùa bèn gì không, thì bắt được mấy quả ấn kết lại, có tên Từ Đạo Hạnh. Vua giận lắm, sai bắt Đạo Hạnh vào lầu Hưng Khánh đánh trượng, rồi hội các quan lại nghị án.

Xảy có Sùng hiền hầu đi qua, Đạo Hạnh kêu rằng:

- Xin ngài rủ lòng thương mà cứu cho tôi, tôi sẽ xin đầu thai vào cung để báo ơn ấy.

Sùng hiền hầu gật đầu. Đến lúc hội nghị, Kim hầu xin đem Đạo Hạnh chính pháp. Sùng hiền hầu cười nói rằng:

- Giác Hoàng nếu có thần lực, thì dù Từ Lộ giải chú thế nào cũng không việc gì. Nay vì thế mà phải chết, thì Giác Hoàng còn kém Từ Lộ xa lắm. Tôi thiết tưởng bắt tội hắn, thà rằng cho hắn thác sinh còn hơn, xin bệ hạ nghĩ cho.

Vua nghe lời, tha tội cho Đạo Hạnh. Đạo Hạnh trở ra, vào hầu nhà riêng Sùng hiền hầu, nhân thấy phu nhân đang tắm, đến sát tận nơi đứng xem. Phu nhân giận lắm, bỗng thấy một đứa trẻ con chạy vào trong thùng tắm, phu nhân kinh hãi, nói chuyện với chồng. Sùng hiền hầu đã biết rồi, không trách hỏi gì đến. Từ đấy phu nhân có mang.

Đạo Hạnh dặn Sùng hiền hầu rằng:

- Khi nào phu nhân sắp ở cữ, thì phải bảo cho tôi biết trước. Đến khi phu nhân ở cữ, trở dạ đã lâu mà chưa sinh được, Sùng hiền hầu sai người ruổi mau đến bảo Đạo Hạnh.

Đạo Hạnh vội vàng tắm gội thay áo, dặn học trò rằng:

- Bụng ao ước của ta vẫn chưa thỏa, nay lại thác sinh vào cửa đế xương, tạm làm thiên tử 23 năm. Nếu khi nào thân kiếp sau ta thác đi, thì mới thực là chìm vào bể sâu, không bao giờ sinh diệt được nữa.

Học trò nghe câu ấy, ai nấy cùng rỏ nước mắt. Đạo Hạnh mới an ủi học trò vài câu, rồi lột xác ra mà hóa. Người làng lấy làm lạ, để cái xác ấy vào trong khám phụng thờ.

Giờ ngọ Đạo Hạnh nhập tịch, đến giờ mùi thì phu nhân sinh ra đứa con trai, đặt tên là Dương Hoán, bấy giờ là tháng sáu năm Bính thân niên hiệu Hội Trường Đại Khánh thứ bảy (1116).

Dương Hoán lên hai tuổi, thông minh lắm, vua yêu mến nuôi ở trong cung cho làm con, rồi lập lên làm Hoàng thái tử. Khi vua mất, thái tử lên ngôi, tức là vua Thần Tôn, đó là kiếp sau ông Từ Đạo Hạnh.

Khi xưa Đạo Hạnh mới vào chùa Thiên Phúc, thấy có một vết chân người ở trong hang đá. Đạo Hạnh lấy bàn chân in vào thì vừa bằng nhau, tục truyền hang ấy tức là chỗ Đạo Hạnh lột xác.

Mỗi năm mồng bảy tháng ba, thiên hạ đến chùa ấy lễ bái đông như hội. Thây Đạo Hạnh đến mãi lúc nhà Minh sang cướp quân sĩ đốt mất, về sau dân đấy lại tô tượng để thờ như xưa.

NGUYỄN MINH KHÔNG

Người làng Ðàm Xá, phủ Tràng An (Nam Ðịnh) tên là Nguyễn Chi Thành. Lúc nhỏ đi học, xẩy gặp Từ Ðạo Hạnh, mới theo học Ðạo Hạnh hơn 40 năm[civ]. Ðạo Hạnh khen là người có chí, cho ấn quyết và đổi tên gọi là Minh Không thiền sư cho ở riêng một chùa Quốc Thanh.

[civ] Tục truyền hai ông sang Tây Trúc học đạo, một hôm ông Đạo Hạnh đội lốt hổ để lòe ông Minh Không. Ông Minh Không biết ý, nói rằng: “Cầu được ước thấy có khó gì”. Cho nên kiếp sau phải bệnh hóa hổ.

Khi Ðạo Hạnh sắp hóa[cv], bảo Minh Không rằng:

- Ngày xưa phật Thế tôn ta, đạo quả đã tròn trặn, mà còn có báo kim tảo, huống chi lâu nay phép đạo suy mòn, thì ta giữ mình làm sao cho xiết được. Kiếp sau ta ở thế gian, giữ ngôi nhân chủ, chắc là không khỏi được bệnh nợ, ngươi nên nghĩ nghĩa thầy trò, đến bấy giờ phải cứu cho ta.[cvi]

[cv] Đạo Phật cho người chết là chuyển hóa sang một trạng thái khác (BT).

[cvi] Sử cho là Đạo Hạnh để thuốc lại giao cho Minh Không.

Ðến khi Ðạo Hạnh hóa rồi, Minh Không trở về quê nhà, cày cấy làm ăn, trụ trì hơn 20 năm, không cầu tiếng tăm với đời.

Năm Thiên Chương Bảo Tự thứ tư đời vua Thần Tôn (1136), vua bỗng sinh ra một bệnh kỳ dị, thuốc chữa thế nào cũng không khỏi. Tinh thần phiền loạn, tiếng gào hét kinh người (tục truyền vua hóa ra hổ). Các thầy thuốc, có hàng nghìn muôn người, nhưng không ai biết chữa ra cách làm sao.

Minh Không nghe tin làm vậy, mới chống gậy đến chỗ trẻ con chơi, cho chúng nó ăn quà và dạy chúng nó hát rằng:

“Tập tành vông, có ông Nguyễn Minh Không chữa được Hoàng thái tử.

Dần dần đám trẻ nào cũng hát câu ấy, tiếng đến tai triều đình. Triều đình sai sứ đi hỏi thăm mà tìm được Minh Không. Minh Không thấy sứ giả đến triệu mình, mới thổi một nồi cơm con, cho bọn chở thuyền cùng ăn.

Sứ giả nói rằng:

- Bọn chở thuyền đông lắm, có một niêu cơm con thế kia, thì ăn làm sao?

Minh Không nói:

- Hãy cứ ăn đi, lúc nào thiếu sẽ hay.

Minh Không mới sai dỡ cơm ra rá, thì càng dỡ càng nhiều, hàng mấy trăm người ăn mà vẫn không hết. Chúng cùng ngạc nhiên lấy làm lạ. Ðến lúc ăn xong, Minh Không bảo các quan chở thuyền rằng:

- Các anh hãy ngủ đi một lát, đợi lúc nào có nước thủy triều lên sẽ đi.

Chúng nghe lời, nằm ngủ cả trong thuyền, một lát tỉnh dậy thì thuyền đã ngược đến Kinh đô rồi, ai nấy mừng rỡ cho là phép tài.

Minh Không đến Kinh, các thầy thuốc cùng các thầy phù thủy đang túc trực cả trên điện, mỗi người dùng một cách chữa bệnh cho vua, mà vẫn chưa thầy nào kiến hiệu. Trông thấy Minh Không đến, ăn mặc quê mùa cộc kệch, chúng ai cũng khinh bỉ, không thèm chào hỏi đến. Minh Không lấy một cái đanh dài 5, 6 tấc, đóng lên cột, nói to lên rằng:

- Hễ ai rút được cái đanh này ra, thì mới chữa được bệnh hoàng đế.

Nói hai ba câu, không ai thèm trả lời. Minh Không mới lấy hai ngón tay trái sẽ nhổ ra, cái đanh ấy bật ngay ra ngoài.

Minh Không đến tận trước mặt vua, thét to lên rằng:

- Ðại trượng phu đã phú quí mà làm đến thiên tử, sao lại còn cuồng loạn như thế?

Vua sợ hãi run lật bật, Minh Không sai lấy cái vạc to, đổ nước hòa thuốc vào đun lên, đun sôi một trăm dạo, Minh Không lấy tay khoắng vào trong vạc thuốc hai ba lượt rồi múc ra tắm cho vua, tắm xong thì vua khỏi bệnh.[cvii]

[cvii] Tục truyền vua tắm xong thì bao nhiêu lông lốt hổ tuốt cả ra vì thế mới khỏi bệnh.

Vua khỏi rồi, phong Minh Không làm quốc sư, thưởng cho vài trăm nóc nhà, cho lấy thuế mà ăn.

Ðến năm Ðại Ðịnh thứ hai Minh Không mất, bấy giờ đã bẩy mươi sáu tuổi. Minh Không mất rồi thiêng lắm, nhiều sự hiển linh. Phàm dân xã cầu mưa đảo nắng rất nghiệm. Các chùa ở huyện Giao Thủy, huyện Phả Lại, có tô tượng Minh Không để thờ cả.

TRẦN LỘC

Lúc nhà Lê trung hưng, việc binh cách mới yên, sinh lắm yêu quái, dân gian khổ sở. Bấy giờ người làng An Đông, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, tên là Trần Lộc, có phép phù thủy. Một bữa, Trần Lộc đi qua trái núi Na Sơn, đang lúc mùa hè nắng nực mới nghỉ mát ở dưới rặng tre. Sực ngẩng đầu trông lên trên núi, thấy có một ông cụ già đầu bạc phơ, đang đứng dựa cạnh sườn đá ngóng xem rừng rú, rồi cầm nón vẫy Trần Lộc lên.

Trần Lộc xắn áo trèo lên, chiều tối mới đến đỉnh núi, cúi đầu lạy ông cụ ấy.

Ông cụ ấy bảo rằng:

- Bụng thầy mến đạo lắm, trời cũng chứng cho rồi, sai ta xuống cho thầy mấy bài quyết đây.

Nói đoạn, giao cho ấn quyết, rồi lại ghé vào tai dặn rằng:

- Đây là phép phật Thượng phương đây, nên nhận lấy mà phải siêng năng tế độ cho đời.

Nói xong thì biến. Trần Lộc ngẩng lên trời lạy tạ rồi trở về. Từ đấy thí nghiệm phù phép nổi tiếng cao tay bùa bèn. Mới tự xưng mình là Phật tổ như lai; hai con gọi là tả hữu tôn thánh; học trò lớn gọi là tiền quân tôn thánh; học trò khác gọi là bồ tát, kim cương, minh sư, chia làm ba hạng: thượng thừa, trung thừa, hạ thừa.

Trần Lộc nghe tin ở núi Mỏ Diều (thuộc về Ninh Bình) có con yêu tinh, thường hại những người đi đường, mới đến núi ấy để trừ nó. Con yêu ăn mặc ra dáng con gái trong cung, giữ trên đầu núi để cự nhau với Tổ sư ba ngày. Tổ sư giận lắm bắt một cái quyết Bài sơn, sạt một góc núi. Con yêu hóa ra con quạ, bay lên trên trời. Tổ sư lại bắt luôn mấy cái quyết bắn theo, con yêu tinh phải quyết, sa xuống đất chết.

Lại ở nước ta về mặt tây nam có 12 cửa bể, mỗi cửa bể có một thần sóng, chỗ nước cồn như núi rồi đổ xuống, thuyền bè đi qua hại nhiều. Tổ sư sai học trò bắn chết chín thần sóng, còn sót ba thần chưa trừ xong, xảy có việc phải vào coi Sùng Sơn, mới bỏ sót lại.

Bấy giờ vua Thần Tôn phải bệnh kỳ quái, có người cho là nhân quả kiếp sau vua Lý Thần Tôn, các quan lấy làm lo lắng. Đại nguyên súy là Thanh vương đã phải xin ngài nhường ngôi cho thái tử, để ở riêng một cung mà trị bệnh. Vài năm không thuốc nào khỏi. Nghe tin Tổ sư cao tay phù chú, sai sứ đón ra để trị bệnh. Tổ sư vì tây nam có nhiều yêu khí, không thể đi được, sai học trò là Pháp bộ kim cương đi thay. Kim cương vào cung, vỗ ngực niệm chú, hơn một tháng thì Thượng hoàng khỏi bệnh, mới cho lập riêng một trường nội đạo, để cho vinh hiển.

Kim cương trở về, đi qua làng Bố Vệ, trong làng đang họp uống rượu. Kim cương vô ý, đứng tiểu tiện ngay trước cửa đình, bị tuần làng ấy bắt trói lại, van vỉ mãi mới được tha. Kim cương trở đi, ngoảnh lại bắt một cái phộc quyết[cviii], tự dưng già trẻ ở trong đình ôm cả vào cột, như người bị trói, giằng gỡ ra thế nào cũng không được. Cả làng kinh hãi, đuổi theo tìm Kim cương thì không thấy đâu.

[cviii] Bùa trói (BT).

Việc ấy đến tai vua, vua biết là tự Kim cương, sai người vào nói với Tổ sư, Tổ sư bắt Kim cương phải giải cái quyết ấy rồi thu cả lấy các pháp bảo của Kim cương học được, chỉ cho vài quyết trừ tà mà thôi.

Đạo nội trường mới có từ đấy.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3