Nam Hải dị nhân - Chương 6 - Phần 1

CHƯƠNG
THỨ VI: CÁC VỊ THẦN LINH ỨNG

SỬ ĐỒNG TỬ

Về đời vua Hùng Vương thứ ba, vua có một người con
gái tên là Tiên Dong, mới 18 tuổi, nhan sắc xinh đẹp, không muốn lấy chồng, chỉ
thường hay đi chơi các sông núi xem phong cảnh. Vua yêu nàng ấy, mặc ý cho đi
chơi không cấm. Mỗi năm trong tuần tháng hai tháng ba, bơi thuyền chơi ở mạn
sông làng Chử Xá (tức là làng Chử Xá, huyện Văn Giang bây giờ).

Ở làng ấy có một người tên là Sử Cù Vân và người con
là Sử Đồng Tử[xcii].
Hai cha con thiên tính từ hiếu, gặp khi nhà phải hỏa tai, của cải hết sạch cả,
chỉ còn một cái khố vải, cha con thay đổi nhau, ai đi đâu thì đóng. Đến khi Cù
Vân phải bệnh, dặn con rằng:

- Tao mà chết đi rồi, thì cứ táng trần cho tao, còn
cái khố đấy để cho mày.

[xcii]
Có sách gọi là Chử Đồng Tử (BT).

Cù Vân mất, Sử Đồng Tử không nỡ để cha chết truồng,
lấy khố quàng cho cha rồi mới chôn. Còn mình thì trần truồng, đói rét khổ sở,
ngày ngày đứng náu hình bên sông, chờ có thuyền buôn qua lại thì xin, hoặc là
câu cá bán để hộ thân.

Một hôm, nàng Tiên Dong bơi thuyền đến chơi bến làng
Chử Xá, chiêng trống om xòm, đàn sáo rầm rĩ, cờ tàn rợp đất, lính tráng rất
đông. Sử Đồng Tử trông thấy sợ hãi ẩn vào trong bãi lau sậy, cào cát lên nép
mình xuống dưới, rồi lại lấy cát trùm lên trên.

Tiên Dong bơi thuyền đến bến ấy, nhìn trông phong
cảnh vui đẹp, mới lên bãi cát đứng xem, thấy chỗ ấy sạch sẽ, giăng màn tứ vi[xciii]
trên bãi cát để tắm. Tiên Dong vào màn, cởi áo xiêm tắm táp một hồi lâu, dội
nước trôi cát. Sử Đồng Tử trồi lên. Tiên Dong trông thấy giật mình, nhìn ra
biết là người con trai, mới gọi hỏi cơn cớ làm sao, thì Đồng Tử cũng thú thật
cả đầu đuôi làm vậy.

[xciii] Vây bọc bốn bên (BT).

Tiên Dong bảo rằng:

- Ta nguyên không muốn lấy chồng, nay sự đã thế này,
tất là Nguyệt Lão xe duyên đây.

Mới sai Đồng Tử tắm táp, ban cho quần áo, đem xuống
thuyền ăn yến vui vẻ. Người trong thuyền ai cũng cho là sự kỳ dị.

Đồng Tử nhất định xin từ, không dám lấy. Tiên Dong
bảo rằng:

- Thiếp với chàng là tự trời xe duyên, can gì mà từ.

Đồng Tử từ mãi không được phải nghe. Từ bữa ấy hai
người kết làm vợ chồng.

Có người về tâu với vua Hùng Vương, vua nổi giận nói
rằng:

- Tiên Dong không biết tiếc danh giá, chơi bời đường
xá, lấy kẻ nghèo hèn, còn mặt mũi nào mà nhìn đến ta!

Tiên Dong vì thế sợ hãi không dám về, mới cùng với
Đồng Tử lập ra phố xá buôn bán với dân. Buôn bán mỗi ngày một thịnh, dần dần
thành ra một làng. Các khách buôn bán ngoại quốc qua lại, ai cũng coi bà Tiên
Dong làm chủ cả vùng ấy.

Có một người lái buôn bảo với Tiên Dong rằng:

- Nếu được trăm cân vàng, cho người đi với tôi ra
ngoài bể, buôn những đồ quí, sang năm tất được lãi gấp mười.

Tiên Dong mừng rỡ, bảo với Sử Đồng Tử rằng:

- Vợ chồng ta là tự trời dắt lại, cơm ăn áo mặc cũng
là tự trời cho, vậy thì chàng nên đem vàng ra bể mà buôn.

Sử Đồng Tử đem vàng đi với người lái buôn ra ngoài
bể, đến núi Quỳnh Lãng, trông lên trên núi có một am nhỏ. Đồng Tử trèo lên xem
phong cảnh. Trong am có nhà một nhà sư còn trẻ, tên là Phật Quang, thấy Đồng Tử
có cách điệu thần tiên, muốn truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử ở liền ngay đấy
học đạo. Được hơn một năm, Đồng Tử trở về, Phật Quang tặng cho một cái gậy, một
cái nón, và dặn rằng:

- Phép linh thông ở cả cái gậy và cái nón này.

Đồng Tử vâng lĩnh từ về, đem đạo Phật về dạy Tiên
Dong; Tiên Dong tỉnh ra, mới bỏ cửa hàng buôn, hai vợ chồng rủ nhau đi học đạo.
Một hôm đi xa, trời đã tối mà chưa đến chỗ dân cư, mới tạm chống gậy và che cái
nón ở dọc đường để nghỉ. Canh ba đêm hôm ấy, bỗng dưng hiện ra thành quách, lầu
ngọc, điện châu, kho, tàng, dinh, phủ, vàng bạc, châu báu, giường, sập, màn,
trướng, lại có tiểu đồng, ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ, hầu hạ xung quanh.

Sáng ngày mai, ai ai trông thấy cũng lấy làm lạ lùng
kinh hãi, tranh nhau mang hương hoa ngọc thực đến dâng. Lại có đủ văn quan, võ
tướng, chia quân canh giữ các cửa thành, tựa một hồ nước.

Vua Hùng thấy chuyện làm vậy, cho là làm loạn, sai
quan quân đến đánh. Khi quan quân sắp đến nơi, chúng tâu xin đem binh ra cự.

Tiên Dong cười nói rằng:

- Việc nầy không phải tại ta làm ra, bởi tự trời xui
nên thế. Ta dù sống chết đã có trời, dám đâu cự nhau với cha? Ta chỉ thuận theo
lẽ phải, mặc ý cha ta giết chết cũng cam tâm.

Khi quan quân tiến đến, đóng ở châu Tự Nhiên (bây
giờ gọi là Khoái Châu phủ), còn cách bên này một con sông. Trời đã tối, quân
chưa kịp sang sông. Đến nửa đêm, bỗng nhiên trời nổi giông gió bay cát đổ cây,
rồi thì cả một khu bà Tiên Dong ở, cửa nhà, người, giống súc vật, trong một lúc
bay cả lên trời; chỉ còn bãi đất không ở lại trong đầm mà thôi. Bởi thế bãi ấy
gọi là bãi Tự Nhiên, đầm ấy gọi là đầm Nhất Dạ (một đêm).

Dân ở đấy thấy sự lạ lùng, mới lập miếu để thờ. Về
sau, vua Triệu Việt Vương đóng binh trong đầm, cự nhau với quân nhà Lương.
Tướng nhà Lương là Trần Bá Tiên đánh mãi không được. Đến lúc Bá Tiên trở về, ủy
cho tì tướng là Dương Sàn vây đánh, Triệu Việt Vương thiết đàn trong đầm cầu
khấn, xin thần giúp cho. Bỗng thấy một ông thần (tức là Sử Đồng Tử) cưỡi rồng
xuống đàn, bảo rằng:

- Ta tuy đã lên trời, nhưng uy linh vẫn còn ở đây,
ngươi có lòng thành cầu đến ta, vậy ta xuống giúp.

Nói đoạn nhổ một cái vuốt chân rồng, trao cho Triệu
Việt Vương và dặn rằng:

- Ngươi lấy cái vuốt rồng này, cắm lên chỏm mũ đâu
mâu thì đi đến đâu, giặc phải tan đến đấy.

Nói vừa dứt lời, rồng bay vụt lên trời biến mất.
Triệu Việt Vương nghe lời, cắm vuốt rồng lên trên chỏm mũ, tự bấy giờ sức khỏe
mạnh hơn trước, thanh thế mỗi ngày một to, mới đem quan ra đánh nhau với Dương
Sàn, chém được Dương Sàn tại trước trận, quân nhà Lương phải tan chạy hết về
Tàu.

PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG

Về đời vua Hùng Vương thứ sáu, thiên hạ thái bình,
dân gian giàu có; vua không triều cống với nhà Ân bên Tàu. Vua nhà Ân thấy vậy,
giả tiếng đi tuần thú, muốn đem quân sang cướp nước Nam.

Vua Hùng Vương lo sợ, vời quần thần vào hỏi mẹo đánh
giữ, có người phương sĩ[xciv]
thưa rằng:

- Bệ hạ nên kêu khấn với Long quân, thì ngài sai
thiên tướng xuống giúp mới xong.

[xciv]
Người theo đạo tu tiên (BT).

Vua nghe lời, lập đàn làm chay, cúng cấp ba ngày cầu
khấn. Bỗng đâu trời nổi cơn giông, sấm sét ầm ầm, mưa như trút nước. Rồi có một
ông cụ già, cao lớn 9 thước, mặt mũi to lớn, đầu bạc râu trắng, ngồi ở ngã ba
đường cái, vừa cười vừa nói, ngâm hát múa mênh.

Ai trông thấy cũng cho làm lạ, mới tâu vua. Vua thân
hành ra mời ông cụ ấy đến chỗ đàn làm chay, dâng cơm rượu thết đãi. Ông cụ ấy
không ăn uống và cũng không nói năng câu gì.

Vua hỏi rằng:

- Sắp có giặc Bắc xâm phạm nước Nam, được thua thế
nào, xin cụ bảo cho.

Ông cụ lâu mãi mới nói rằng:

- Sau ba năm nữa, giặc Bắc tất kéo đến đây. Nhà vua
nên tìm khắp cả thiên hạ, mà cầu lấy người kỳ tài, phá được giặc, thì nên chia
đất phong tước cho người ta, truyền mãi vô cùng. Nếu được người giỏi phá giặc
không khó gì nữa.

Nói đoạn, bay vụt lên trời biến mất.

Vua lấy làm lạ, mới tuân lời ấy, sai sứ đi khắp
trong nước cầu người tài. Bấy giờ ở làng Phù Đổng, huyện Võ Ninh (bây giờ là Võ
Giàng), có một ông nhà giàu, ngoại 60 tuổi, chỉ sinh được một người con trai
lên ba tuổi chưa biết nói, mà chỉ nằm ngửa, không ngồi đứng lên được. Khi sứ
giả đi cầu người tài, đến làng ấy, người mẹ cười nói bỡn con rằng:

- Đẻ được một chút con trai, chỉ biết ăn uống, ngồi
đứng không được, thì đánh thế nào được giặc, để mà lĩnh thưởng của vua, đền
công sinh dưỡng cho cha mẹ.

Người con nghe vậy, bỗng nhiên biết nói, bảo mẹ gọi
sứ giả lại đây. Mẹ lấy làm lạ lùng, bảo với láng giềng. Người láng giềng thấy
lạ chuyện, xui người nhà thử gọi sứ giả xem ra làm sao.

Khi sứ giả đến, trông thấy người còn bé, hỏi rằng:

- Tiểu nhi kia, gọi ta đến làm gì?

Tiểu nhi ngồi dậy, bảo với sứ giả rằng:

- Sứ giả trở về cho mau, tâu với vua, đúc cho ta một
con ngựa sắt cao 18 thước; một thanh kiếm dài 7 thước; và một cái nón sắt, đem
lại đây cho ta. Giặc đến trông thấy ta, tự nhiên phải sợ mà chạy, vua can gì
phải lo?

Sứ giả mừng lắm, về tâu với vua.

Vua mừng rỡ bảo quần thần rằng:

- Đây là Long vương cứu ta đây! Năm ngoái ông cụ già
nói chuyện, quả nhiên không sai, các ngươi chớ hồ nghi gì nữa!

Vua lập tức sai thợ rèn đúc ngựa sắt, kiếm sắt đến,
sai người đem lại đưa cho tiểu nhi. Sứ giả sắp đến, mẹ ở nhà lo lắm, chỉ sợ con
nói xằng thì vạ lây đến cả nhà.

Tiểu nhi cười ầm lên nói rằng:

- Mẹ cứ kiếm rượu thịt cho nhiều, cho tôi ăn uống,
còn việc đánh giặc, mẹ không phải lo.

Tiểu nhi tự bấy giờ mỗi ngày một lớn, cơm ăn áo mặc
tốn lắm. Mẹ tuy nhà giàu mà cũng không đủ nuôi cho ăn, hàng xóm láng giềng phải
tư cấp giúp thêm; nào kẻ đỡ tiền thóc, người dâng rượu thịt, mà ăn vẫn không
được no; vải lụa nhiều thế nào cũng mặc không đủ; cửa nhà ở cũng không vừa,
phải ken cỏ lau lớp một cái nhà to để ngài ở.

Khi giặc Ân kéo đến núi Châu Sơn (thuộc về huyên
Tiên Du) thì sứ giả đem ngựa kiếm đến nhà giao cho ngài. Ngài vươn vai đứng
lên, cao hơn 2 trượng, ngẩng mặt lên trời, gầm lên vài mươi tiếng, rồi rút
thanh kiếm cầm trên tay quát lên rằng:

- Ta là thiên tướng nhà trời đây!

Lập tức đội nón nhảy lên ngựa tế đi. Ngựa hét ra lửa
mà chạy như bay, chỉ chớp mắt đã đến chỗ quân đóng. Ngài trở gươm đi trước,
quan quân kéo theo sau, tiến sát đến trại giặc. Giặc bày trận ở dưới chân núi
Châu Sơn, ngài xông vào trận đánh giết một hồi lâu, gẫy mất cả kiếm, mới vớ lấy
tre ở bên cạnh đường cầm cả tảng tre mà quật vào đám giặc. Quân giặc tan nát
tựa hồ đất lở ngói tan, tranh nhau lạy phục xuống đất, kêu rằng:

- Lạy ngài, ngài là thần tướng trên trời, chúng tôi
xin chịu hàng cả.

Khi đánh đến núi Ninh Sóc, thì giặc đã tan hết cả
rồi, ngài mới cởi áo bỏ đấy, rồi cưỡi ngựa bay lên trời. Đến bây giờ vẫn còn
dấu người, ngựa ở trên núi.

Vua nhớ, không biết lấy gì báo được, mới phong ngài
làm Phù Đổng thiên vương lập miếu thờ ngay ở vườn nhà khi trước, ban cho
dân một trăm mẫu ruộng tự điền[xcv]bắt
phải bốn mùa cúng tế.

[xcv]
Ruộng để thờ (BT).

Từ đấy, giặc Bắc không dám sang xâm phạm nữa. Bốn
phương nghe chuyện làm vậy, đâu đâu cũng hòa hiếu với nước Nam.

Đến đời nhà Lý, gia phong làm Sung Thiên thần
vương
. Bây giờ vẫn còn thờ ở làng Gióng, mà tượng thì tô ở trên núi Vệ
Linh, mỗi năm đến tháng tư dân làng ấy mở hội to lắm.

Những tre ngài nhổ lên đánh giặc bây giờ thành rừng
ở huyện Gia Bình, gọi là tre Đằng Ngà.

Chỗ con ngựa thét ra lửa, cháy mất một làng, cho nên
bây giờ làng chỗ ấy gọi là làng Cháy.

TẢN VIÊN SƠN THẦN

Núi Tản Viên thuộc về huyện Phúc Lộc (bây giờ là
huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây), có ba tầng cao chót vót hình như cái tán, cho
nên gọi là núi Tản Viên.

Tục truyền thần núi ấy khi xưa là dòng dõi vua Lạc
Long. Nhà nghèo, vào rừng kiếm củi, chặt một cây cổ thụ, hôm sau lại có sao
Thái Bạch xuống cứu cây ấy sống lại, rồi cho ngài một cái gậy và dặn rằng: “Gậy
này có phép cứu được bách bệnh cho người ta, hễ ai ốm đau chỉ cầm gậy gõ vào
chỗ đau là khỏi, vậy ta cho ngươi để cứu dân độ thế
.

Ông ấy nhận cái gậy, từ đấy bỏ nghề kiếm củi, đi
chữa bệnh cho người đau. Có một hôm, đi qua bờ sông thấy lũ trẻ chăn trâu, đánh
chết một con rắn. Ông ấy trông trên đầu con rắn có chữ vương, biết là
rắn lạ mới cầm gậy gõ vào đầu con rắn, thì con rắn ấy sống lại bò xuống sông mà
đi mất.

Được vài hôm, bỗng có một người con trai đem đồ
vàng, ngọc, châu báu đến nói rằng:

- Thưa ông, tôi là Tiểu long hầu, con vua Long vương
bể Nam. Bữa trước, tôi đi chơi trên trần, chẳng may bị bọn trẻ con đánh chết,
nhờ có ông mới được sống, vậy tôi có của này đến tạ ơn ông.

Ông ấy nhất định không lấy, Tiểu long hầu mới cố mời
ông ấy xuống chơi dưới bể, đưa ra một cái ống linh tê, để ông ấy rẽ nước đi
xuống. Long vương thấy ngài xuống chơi, lấy làm mừng lắm, mở tiệc thết đãi ba
ngày, rồi đưa tặng những của quí lạ, ông ấy cũng nhất định không lấy gì cả.
Long vương mới biếu một quyển sách ước, ông ấy nhận sách đem về, giở ra xem,
muốn ước phép nào cũng được. Từ bấy giờ cứu được cho dân nhiều lắm, mà các phép
thần thông biến hóa không thần thánh nào theo kịp.

Khi ngài đã thành thần rồi, đi qua cửa bể Thần Phù
lên mạn ngược, tìm chỗ nào cao ráo phong quang và được thói dân thuần hậu thì
mới ở. Khi đến Thăng Long, xem dân tình ăn ở phù hoa, không bằng lòng mới bỏ mà
lên huyện Phúc Lộc, thấy chỗ ấy có núi Tản Viên, ba từng núi xòa xòa hình như
cái tán, phong cảnh vui vẻ, thần mới hóa phép làm một con đường về phía nam
núi, thẳng tự bến Phan Tân đến Tản Viên. Đường quá cánh đồng làng Vệ Đỗng và
làng Nham Toàn hóa phép hiện ra lâu đài để nghỉ ngơi. Lại qua cánh đồng Thạch
Bạn, Vân Mộng, rồi lên mãi từng núi cao nhất để ở.

Thần tự khi ở núi ấy, thường thường ra chơi sông
Tiểu Hoàng xem cá. Chỗ nào có phong cảnh đẹp cũng đến chơi. Chơi đến đâu lại
hiện ra đền đài đến đấy để nghỉ ngơi. Các làng trông thấy chỗ nào có dấu đền
đài, thì lại lập đền miếu để thờ.

Bấy giờ, vua Hùng Vương có người con gái tên là Mị
Nương, nhan sắc rất đẹp, thần núi và vua thủy cùng hỏi xin lấy làm vợ. Vua Hùng
Vương nói rằng:

- Một thuyền quyên không có lẽ sáng được hai anh
hùng, vậy thì ngày mai, ai đem được đủ đồ lễ đến trước thì ta gả cho.

Sáng ngày mai, thần Tản Viên đem những đồ vàng bạc
châu báu, cùng là giống chim quí thú lạ lại dâng[xcvi].
Vua Hùng Vương y ước gả cho, thần mới đón nàng Mị Nương về ở trên đỉnh núi Tản
Viên.

[xcvi]
Tục truyền đồ lễ: Voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao và một chĩnh vàng cốm.

Vua Thủy đem đồ lễ đến sau, thấy thần núi đã rước
dâu về rồi, tức giận lắm, mới làm ra mưa to gió lớn, và dâng nước lên để đuổi
theo cướp về.

Thần núi thấy vậy, làm ra lưới sắt, chắn ngang đường
thượng lưu huyện Từ Liêm. Vua thủy lại đi đường khác, tự sông Lý Nhân vào sát
chân núi Quảng Oai, men bờ lên cửa sông Hát Giang, rồi ra sông Lư, vào sông Đà
để đánh mé sau núi Tản Viên. Lại mở ra các sông nhỏ để đem nước vào đánh mé
trước núi. Đi qua các làng Cam Giá, Đông Lân, Cổ Nhạc, My Xá, đi đến đâu xoáy
nước xuống thành vực, để làm chỗ các giống thủy tộc ở, rồi tiến nước lên đánh
nhau với thần núi. Thần núi thì bảo dân xung quanh đấy đan phên chắn nước và dùng
cung nỏ bắn xuống; lại sai các loài hùm, beo, voi, gấu, bẻ cây cối vận đá ném
xuống sông. Mỗi phen đánh nhau, mưa gió sấm chớp ầm ầm, trời đất mù mịt. Đánh
nhau xong rồi, thì thấy những loài cá, ba ba, thuồng luồng, chết nổi cả trên
mặt sông. Từ đấy hai thần thù nhau, mỗi năm đánh nhau một chuyến.

Thần núi linh ứng lắm. Phàm khi nào đảo mưa cầu
tạnh, cũng thường ứng nghiệm. Ai nhờn nhỡ đến thì có tai nạn ngay. Mỗi khi tạnh
trời, thần thường hiện hình chơi các nơi khe suối, có đám mây phủ như hình tán
quạt.

Khi nước Nam nội thuộc nhà Đường, Cao Biền sang làm
Đô hộ, muốn trấn yểm các nơi linh tích; bắt đứa con gái 17, 18 tuổi chưa có
chồng, cho ăn đồ hoa quả, mặc áo xiêm lịch sự, đặt lên ngồi trên ngai, giết
trâu bò tế bái để cho thần phụ vào người con gái ấy, rồi rình khi cất nhắc chân
tay, thốt nhiên chém đi. Thường hay dùng thuật ấy để trấn áp bách thần. Khi
Biền dùng mẹo ấy cúng thần Tản Viên, thì thần cưỡi ngựa trắng ngồi trên đám mây
nhỏ vào cỗ tế mà đi.

Cao Biền than rằng:

- Linh khí nước Nam còn thịnh vượng lắm, không tài
nào mà trừ được!

Thần có phép lạ, biến hóa không biết đâu mà lường.
Quan Hàn lâm là Nguyễn Sĩ Cố về thời nhà Trần phải đi dẹp giặc, đi qua đền
ngài, đem lễ vào khấn, rồi đề một bài thơ rằng:

Non ngất, thần thiêng lẫm liệt thay!

Động lòng đã thấu tới cao dày.

Mị nương cũng hiển oai linh lắm,

Xin giúp thư sinh một chuyến này.

LÝ ÔNG TRỌNG

Về cuối thời vua Hùng Vương, ở làng Thụy Hương (tục
gọi là làng Chèm), huyện Từ Liêm, có một người họ Lý tên Thân, hiệu là Ông
Trọng, cao 2 trượng 6 thước, khỏe mạnh tuyệt trần. Thuở còn hàn vi, nhân có sự
giết người, đáng phải tội chết. Vua thấy người cao lớn lực lưỡng, không nỡ
giết. Đến đời vua An Dương Vương, vua Thủy Hoàng nhà Tần đem binh sang xâm nước
Nam. An Dương Vương xin hàng, rồi đem Lý Ông Trọng sang cống bên Tàu. Thủy
Hoàng được Ông Trọng mừng lắm coi như của rất quí trong đời, dùng ngay làm
vệ hiệu úy
.

Đến khi Thủy Hoàng đem binh đi đánh dẹp thiên hạ,
thì sai Ông Trọng trấn thủ đất Lâm Thao, để phòng quân rợ vào quấy nhiễu. Ông
Trọng hùng dũng, tiếng lừng lẫy một vùng, rợ Hung Nô không dám bén mảng đến cửa
ải. Thủy Hoàng mới phong thêm cho Ông Trọng làm Phụ tín hầu.

Về sau, Ông Trọng cáo lão về nước nhà hưu dưỡng.
Không được bao lâu, rợ Hung Nô thấy vắng Ông Trọng lại vào quấy nhiễu các sứ
biên thùy, Thủy Hoàng nhớ đến Ông Trọng, sai người sang vời, thì bấy giờ người
đã mất rồi.

Sứ giả về tâu lại, Thủy Hoàng phàn nàn thương tiếc
vô cùng, mới đúc tượng Ông Trọng bằng đồng, đặt ở ngoài cửa Tư Mã cung Hàm
Dương. Trong bụng để rỗng, có máy vặn cho chân tay động đậy được. Thường khi
sai vài chục người chui vào trong tượng đồng vặn máy cho rung động, người rợ
Hung Nô qua lại, tưởng là Ông Trọng còn sống, không dám vào quấy nhiễu nữa.

Đến đời nhà Đường, Triệu Xương sang làm Đô hộ nằm
mơ thấy một người to tát cao lớn, đến chơi bàn giảng nghĩa sách Xuân Thu, Tả
truyện. Hỏi tên họ thì nói là Lý Ông Trọng ở làng Thụy Hương. Triệu Xương tỉnh
dậy ngày mai hỏi thăm đến chơi tận làng ấy, tra hỏi sự tích, rồi lập miếu ngay
tại khu nhà cũ ông ấy để thờ. Khi sau Cao Biền sang đánh nước Nam Chiếu, Ông
Trọng hiển linh giúp Cao Biền phá giặc thành công. Cao Biền mới sai sửa sang
lại đình đài, tạc gỗ tô tượng, gọi là đền “Lý hiệu úy”.

Từ bấy giờ trở đi, thường linh ứng lắm, dân xã có
việc gì cầu đảo đến cũng nghiệm. Lịch triều cũng phong tặng làm Linh ứng
thượng đẳng thần
. Vì ở làng Chèm cho nên tục gọi là Thánh Chèm.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3