Nam Hải dị nhân - Chương 2 - Phần 1
CHƯƠNG
THỨ II: CÁC BẬC DANH THẦN
LÝ THƯỜNG KIỆT
Thường Kiệt tự là Hi Liệt, người làng Thái Hòa huyện
Thọ Xương (tức là thành phố Hà Nội bây giờ), có tài kiêm cả văn võ. Khởi thân
làm Thái giám. Đến đời vua Nhân Tôn nhà Lý, làm lên đến chức Thái úy. Trong năm
Thái Ninh, nước Chiêm Thành đến quấy nhiễu xứ Nghệ An, vua sai Thường Kiệt cầm
quân đi đánh, Thường Kiệt đánh đuổi về mãi nước Chiêm, lấy được châu Bố Chính,
châu Địa Lỵ và châu Ma Linh, mới sai vẽ địa đồ ba châu ấy, đổi châu Địa Lỵ làm
phủ Tân Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh (tức là tỉnh Quảng Bình, Quảng
Trị bây giờ), chiêu mộ dân nghèo cho sang ở đấy khai khẩn.
Đến năm Thái Ninh thứ tư, vua Thần Tôn nhà Tống sau Thẩm
Khởi, Lưu Lộng ra coi Quí Châu, có ý muốn dòm nom nước Nam. Vua Nhân Tôn sai
Thường Kiệt đem quân đi cự quân Tống, Thường Kiệt đánh tràn sang nước Tàu, hạ
được châu Khâm, châu Liêm, và vây hãm châu Ung, giết hại quân nhà Tống hơn 10
vạn người.
Năm sau, vua Tống sai Quách Quì làm Chiêu thảo sứ,
đem 9 tướng chia đường đi sang hội với nước Chiêm Thành, nước Chân Lạp, để quấy
nhiễu nước Nam. Vua lại sai Thường Kiệt đi đánh, đánh trận nào được trận ấy,
quân nhà Tống chết hơn nghìn người, phải bỏ mà về.
Khi ấy, Lý Giác khởi loạn ở xứ Nghệ. Giác có yêu
thuật, làm cho cỏ cây biến thành binh mã, quan quân đánh mãi không phá được.
Thường Kiệt bấy giờ đã ngoài 70 tuổi, tình nguyện xin đi đánh, thì mới dẹp tan
được đám ấy.
Nhân có những công to ấy, được tiến tước phong làm
đại vương. Về sau mất được phong làm thượng đẳng phúc thần.
HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG[v]
[v]
Truyện “Hưng Đạo vương” tiểu thuyết có kể rõ các trận đánh quân Tàu.
Vương họ Trần tên là Quốc Tuấn, quê ở làng Tức Mặc,
tỉnh Nam Định, con ông An sinh vương Liễu (anh ruột vua Trần Thái Tôn).
Khi trước An sinh vương phu nhân, nằm mơ thấy một
ông thần tinh vàng tướng ngọc tự xưng là Thanh tiên đồng tử phụng mệnh Ngọc
hoàng xuống xin đầu thai, nhân thế có mang. Đến lúc sinh ra vương, có hào quang
sáng rực cả nhà và có mùi hương thơm ngào ngạt.
Vương khôi ngô kì vĩ, thông minh sớm lắm, lên 5,6
tuổi, đã biết làm thơ ngũ ngôn, và hay bày chơi đồ bát trận. Khi gần lớn, học
rộng các sách, thông hết lục thao, tam lược, có tài kiêm cả văn võ.
Trong năm Nguyên Phong thứ bảy thời vua Thái Tôn
(1257), có giặc Mông Cổ lấn vào phận Hưng Hóa, vua sai vương cầm quân lên giữ
mặt thượng du.
Đến thời vua Nhân Tôn, Mông Cổ lại sai Thoát Hoan
đem bọn Toa Đô, Ô Mã Nhi chia đường sang đánh nước Nam, vương phụng mệnh thống
lĩnh các quân của vương, hầu, hội cả ở trại Vạn Kiếp, để chống nhau với quân
Mông Cổ. Bấy giờ thanh thế Mông Cổ đang mạnh, vương phải rước xa giá Hoàng đế
lánh vào Thanh Hóa. Hoàng đế thấy sự thể nguy cấp, muốn hàng, vương không nghe,
tâu rằng:
- Nếu bệ hạ muốn hàng, xin trước hết chặt đầu thần
đi đã, rồi sẽ hàng cũng chưa muộn. Đầu thần còn thì xã tắc cũng còn, xin bệ hạ
chớ lo.
Vua thấy nói cứng cỏi làm vậy, trong bụng cũng yên.
Đến tháng tư, phá được quân Mông Cổ ở cửa sông Hàm Tử. Tháng năm, lại đánh vỡ
quân Mông Cổ và chém được đại tướng là Toa Đô ở đất Tây Kết, Thoát Hoan phải
rút quân về Tàu.
Năm Trùng Hưng thứ ba, Thoát Hoan lại đem bọn Ô Mã
Nhi, A Bát Xích sang quấy thứ nữa. Vương sai Trần Khánh Dư phục quân chặn
đường, đốt phá được hết thuyền lương của giặc ở cửa bể Lục Hải (thuộc về huyện
Hoành Bồ, tỉnh Quảng Yên). Thoát Hoan cạn lương, muốn rút quân về, vương phục
sẵn quân ở sông Bạch Đằng, đóng cột chông ngầm dưới nước, chờ lúc thủy triều
lên ra khiêu chiến, dử cho giặc đuổi đến chỗ mai phục, thì nước vừa xuống,
thuyền giặc vướng mắc cột chông chìm đắm mất nhiều, mới thả quân mai phục ra
đánh, bắt sống được Ô Mã Nhi, và bắn chết được Trương Ngọc, còn A Bát Xích,
Thoát Hoan trốn được về Tàu.
Tự bấy giờ quân Mông Cổ sợ uy danh của ngài, không
dám gọi tên, chỉ gọi là Hưng Đạo vương, và không dám sang quấy nhiễu nữa.
Khi Thoát Hoan sang xâm thứ sáu, có một tên ti tướng
là Nguyễn Bá Linh (tức là Phạm Nhan) có yêu thuật, biến hiện trăm chiều, vương
phải lập cửu cung mới phá được. Khi bắt được Bá Linh rồi, chém thế nào nó cũng
không chết, vương lại dùng đến thần kiếm chém nó mới chịu.
Vương ba lần phụng mệnh chống nhau với quân Mông Cổ,
trải lắm phen gian truân, mà vẫn vững một niềm không núng, cho nên về sau phá
được quân giặc, lập nên công to, để cho nước Nam lại vững như cái âu vàng.
Ngài nhân có công ấy, được tiến phong làm Thái sư
thượng phụ Hưng Đạo đại vương. Vua tôn kính coi như đạo cha, lập ra miếu
sinh từ ở Vạn Kiếp và khắc văn bia để tỏ công đức của ngài.
Ngài thường soạn ra một quyển sách gọi là “Binh
pháp yếu lược” để ban cho các tướng, lại lập ra trận đồ cửu cung bát quái,
thần diệu vô cùng.
Khi ngài già, về trí sĩ ở trại Vạn Kiếp, hưởng thọ
ngoài 70 tuổi mới mất, trên từ vua cho chí các quan, dưới đến trăm họ, ai ai
cũng thương tiếc.
Bây giờ mỗi năm về hôm 20 tháng tám là ngày húy nhật
ngài, thiện nam tín nữ đến lễ bái đền Vạn Kiếp thành ra một ngày hội to.
NGUYỄN TRÃI
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai tiên sinh, cha ông ấy là
Tự khanh công, nguyên người ở huyện Phượng Nhỡn. Ông cụ ấy hay địa lý, mới đem
tiên phần sang táng ở làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, rồi làm nhà và nhập tịch
làng ấy.
Đời con là Nguyễn Trãi, đỗ tiến sĩ về thời nhà Hồ,
làm đến Ngự sử đài chánh chưởng. Đến lúc nhà Hồ mất, ông ấy về ẩn ở núi
Côn Sơn, có bụng muốn ra dẹp loạn cứu đời.
Bấy giờ có người ở làng Hoắc Sa tỉnh Sơn Tây tên là
Trần Nguyên Hãn, đi bán dầu kiếm ăn. Một bữa trời tối, đi qua làng Chèm, mới
vào đền Chèm nằm ngủ. Nửa đêm nghe có tiếng ông thần làng khác vào rủ ông Chèm
lên chầu trời. Ông Chèm nói có quốc công ngủ trọ không đi được. Đến gà gáy ông
thần kia trở về. Ông Chèm hỏi trên trời có việc gì, thì ông kia nói rằng:
- Thượng đế thấy nước Nam chưa có chúa, có cho ông
Lê Lợi (tức Lê Thái Tổ) làm chúa, mà ông Nguyễn Trãi thì làm bày tôi.
Trần Nguyên Hãn nghe rõ câu ấy, chịu khó hỏi dò tìm
đến nhà ông Nguyễn Trãi, kể lại chuyện ấy. Nguyễn Trãi không tin, lại về đền
Chèm cầu mộng, thì thấy thần báo mộng rằng:
- Việc thiên đình bí mật lắm, không dám nói lộ ra
ngoài. Có chị Tiên Dong biết tường việc ấy, vả lại là đàn bà, thì trời không
trách đến, ông nên đem vàng đến nơi ấy mà hỏi.
Ông Nguyễn Trãi nghe lời ấy, đến cầu mộng đền bà
Tiên Dong, thì mơ thấy bà ấy gọi bảo rằng:
- Nguyễn Trãi! Lê Lợi làm vua, mà anh thì làm bày
tôi, anh chưa biết chuyện ấy à?
Ông ấy hỏi cặn kẽ lại thì mới biết ông Lê Lợi là
người làng Lam Sơn tỉnh Thanh Hóa. Mới cùng với Trần Nguyên Hãn vào Lam Sơn,
hỏi thăm đến nhà ông Lê Lợi. Bấy giờ Thái Tổ còn hàn vi, khi hai ông kia đến,
thì ngài đang mặc cái áo cánh cộc, vai vác bừa, tay dắt bò ở ngoài đồng về. Hai
ông xin vào hầu, Thái Tổ mời nghỉ lại trong nhà. Xảy gặp hôm ấy nhà có giỗ, hai
ông kia xuống bếp thổi nấu, trông trộm lên nhà trên, thì thấy ngài cầm dao thái
thịt, đang vừa thái vừa ăn.
Hai ông kia bàn riêng với nhau rằng:
- Bà Tiên Dong nói lừa chúng ta đây, có lẽ đâu khí
tượng thiên tử mà lại thế kia bao giờ?
Liền cáo từ ra về, lại đến cầu mộng đền bà Tiên
Dong, thì thấy báo mộng rằng:
- Lê Lợi làm vua, trời đã nhất định như thế rồi, chỉ
vì chưa có thiên tinh giáng đấy thôi.
Hai ông lần sau lại đến thăm Thái Tổ, thì bấy giờ
ngài đã được quyển thiên thư. Khi ấy đang đêm đóng cửa xem sách. Nguyễn Trãi
đứng ngoài cửa dòm vào, rồi đẩy cửa, hai ông cùng vào. Thái Tổ cắp thanh gươm
đi ra, hai ông cùng lạy phục xuống đất và nói rằng:
- Chúng tôi xa xôi lặn ngòi noi nước đến đây, là vì
thấy ngài làm được chúa thiên hạ, xin cho chúng tôi được theo hầu.
Thái Tổ cười, lưu hai người ở lại, mưu việc khởi
binh. Ông Nguyễn Trãi lấy mỡ viết vào lá cây tám chữ: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn
Trãi vi thần”. Về sau sâu cắn những lá ấy rụng xuống, người ta thấy vậy cho là
sự trời định, đồn rực cả lên, bởi thế nhân dân tranh nhau theo về với ông ấy,
quân thế mỗi ngày một thịnh.
Đến năm Mậu tuất, mới bắt đầu ra đánh nhau với quân
nhà Minh, ông Nguyễn Trãi bàn mưu lập kế giúp vua Thái Tổ đánh hơn 20 trận. Năm
Bính ngọ, quân ta thắng trận, tiến sát đến Đông Đô, tướng nhà Minh là Vương
Thông giữ vững trong thành. Nhà Minh lại sai An viễn hầu là Liễu Thăng và Kiềm
quốc công là Mộc Thạnh chia quân làm hai đường sang cứu Đông Đô. Thái Tổ đón
đánh ở núi Mã An, chém được Liễu Thăng, và bắt sống được bọn Hoàng Phúc, Thôi
Tụ hơn 300 người, Mộc Thạnh phải trốn về nước, Vương Thông mở cửa thành ra
hàng.
Tự bấy giờ hai nước lại thông hiếu, nội là tờ bồi
giao thiệp với Tàu, do tự một tay Nguyễn Trãi cả.
Vì có công được phong quốc tính, gọi là họ Lê, lại mà
thăng lên làm Vinh lộc đại phu nhập nội hành khiển coi cả việc trong ba
quân và được phong là Tế văn hầu.
Trần Nguyên Hãn thì được phong làm quốc công, đến
khi mất, lại được phong làm thành hoàng, bây giờ còn đền thờ ở làng Hoắc Xa.
Nguyễn Trãi văn chương hùng dũng, có khí lực, phàm
các bài như là văn “Bình Ngô đại cáo” cùng là văn bia“Lam kinh thần
đạo” có chép vào bộ Thực lục là tự tay ông ấy soạn ra cả.
Tính ông ấy điềm đạm, không ham mê danh lợi, thường
có chí muốn từ chức về nhà. Ông ấy có một trại riêng ở tỉnh Bắc, gọi là Tiêu
Viên. Đến đời vua Thái Tôn, Nguyễn Trãi trí sĩ về ẩn ở trại ấy. Cuối đời Thiệu
Bình, vua Thái Tôn nhân đi chơi qua tỉnh Bắc, vào chơi trại Tiêu Viên, Nguyễn
Trãi đi vắng, có nàng hầu là Thị Lộ, ở nhà pha chè hầu vua, chiều hôm ấy vua
mất, đình thần cho là Thị Lộ giết vua, bởi thế cả nhà ông Nguyễn Trãi phải tội
tru di.
Khi trước đánh nhau ở núi Mã An, Nguyễn Trãi bắt
được Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc. Hoàng Phúc giỏi nghề địa lý, khi ở nước
Nam, bao nhiêu chỗ kiểu đất hay, đã biên kỳ lấy cả. Bấy giờ phải bắt, Nguyễn
Trãi có ý khinh bỉ.
Hoàng Phúc cười bảo rằng:
- Mả tổ nhà tôi có Xá văn tinh, chẳng qua chỉ phải
nạn trong năm ngày là cùng, không đến nỗi như ông có đất phải tru di tam tộc.
Bấy giờ cũng cho lời ấy nói xằng, về sau Hoàng Phúc
quả nhiên được tha về, mà Nguyễn Trãi thì mắc nạn, mới biết lời trước là
nghiệm.
Tục truyền khi ông Nguyễn Trãi chưa đỗ, dạy học trò
ở làng Nhị Khê, thường có sai học trò dọn cỏ một cái gò ở ngoài đồng để làm
trường dạy học. Đêm hôm trước, mơ thấy một người đàn bà vào kêu rằng: “Tôi mẹ
yếu con thơ, xin ông khoan cho ba ngày để tôi đem con tôi đi chỗ khác, rồi ông
sẽ sai dọn cỏ”. Sáng sớm, thức dậy ra đồng xem thì học trò đã dọn sạch rồi, và
bắt được hai cái trứng rắn.
Nguyễn Trãi hỏi thì học trò nói rằng:
- Ban nãy chúng tôi thấy con rắn ở trong đám cỏ rậm,
đánh nó đứt đuôi mà chạy mất, chỉ bắt được hai cái trứng ở đây.
Nguyễn Trãi nghĩ con rắn hẳn là người đàn bà báo
mộng hôm qua, phàn nàn không ngần nào, mới đem hai cái trứng về nhà nuôi cho
nở. Đêm hôm ấy, đang ngồi xem sách, có con rắn trắng leo lên xà nhà rỏ máu
trúng vào chữđại[vi]
(代)trong trang sách, thấm
xuống ba tờ giấy. Nguyễn Trãi biết là nó tất báo oán đến ba đời, đến khi hai
cái trứng kia nở ra, thì một con dài, một con ngắn. Nguyễn Trãi sai đem thả
xuống sông Tô Lịch ở cạnh làng.
[vi]
Đại nghĩa là đời (BT).
Khi Nguyễn Trãi đã hiển đạt, một bữa, ở trong triều
về, đi qua hàng chiếu, trời đã tối sâm sẩm, gặp một đứa con gái đi bán chiếu,
nhan sắc tuyệt trần, Trãi đọc lên bốn câu thơ để hỏi đùa.
Thơ rằng:
Ả ở đâu đi bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân thu chừng độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa được mấy con?
Người con gái ấy cũng đọc lên một bài đáp lại.
Thơ rằng:
Tôi ở Tây hồ bán chiếu gon,
Nỗi chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân thu tuổi mới trăng tròn lẻ.
Chồng còn chưa có, có chi con!
Nguyễn Trãi thấy nói đối đáp ngay được, lấy làm
khoái chí lắm. Hỏi tên thì nói tên là Thị Lộ, mới đem về cho làm nàng hầu.
Vua Thái Tôn nghe tin nàng ấy đẹp và hay chữ, sai
làm nữ học sĩ, thường thường cho ra vào trong cung.
Khi vua vào chơi nhà ở Tiêu Viên, thì ông Nguyễn
Trãi đi vắng, chỉ có Thị Lộ ở nhà. Nàng ấy pha nước dâng lên vua xơi, vua uống
phải thì mất ngay. Nguyên Thị Lộ tức là con rắn hiện hình ra làm người để báo
thù. Khi nó pha nước thì nó nhả cái nọc độc vào trong chén nước, cho nên vua
trúng độc mà mất.
Các quan bắt con Thị Lộ vào tra hỏi, thì nó xưng là
ông Nguyễn Trãi xui nó, đình thần mới chiểu luật bắt tội nhà ông ấy, mà bỏ con
Thị Lộ vào cũi đem quăng ra sông Nhị Hà, thì nó lại hóa ra con rắn ở trong cũi
chui ra đi mất.
Lúc nhà ông Nguyễn Trãi đang phải nạn, có người vợ
lẽ đang có mang, chạy trốn xuống ở tỉnh Nam. Về sau sinh được người con trai
đặt tên là Anh Võ. Ở đã lâu, chủ nhà mới biết là vợ lẽ ông Nguyễn Trãi.
Đến thời Quang Thuận, vua Thánh Tôn thương ông ấy
mắc phải tội oan, ban chiếu giải oan, và phong tặng làmThái sư Tuệ quốc công.
Sai tìm dòng dõi nhà ông ấy, thì mới tìm thấy Anh Võ. Vua phong quan chức cho
Anh Võ, để nối dõi nhà ông ấy. Đến sau Anh Võ sang sứ Tàu, đi qua hồ Động Đình,
bỗng thấy con rắn ở dưới nước bò lên, rồi thì phong ba nổi lên ầm ầm. Anh Võ
biết lại là con rắn trước báo oán, mới khấn rằng: “Xin cho trọn việc nước, rồi
đến lúc trở về sẽ xin chịu tội”. Khấn vừa đoạn thì sóng gió lại yên. Đến lúc
việc sứ xong trở về, quả nhiên lại nổi cơn sóng gió, đắm thuyền mà mất.
Vua Thái Tôn truy tặng cho làm Thái sư Sùng quốc
công.
Trong năm Cảnh Hưng, triều đình duyệt lại các sắc
phong của các ông khai quốc công thần. Khi duyệt đến sắc ông Nguyễn Trãi thì
quan Thị lang là ông Lê Quí Đôn xé đạo sắc ấy ra nói rằng:
- Bọn loạn thần tắc tử, còn để cáo sắc làm gì nữa!
Nói vừa buông lời, bỗng nhiên ngã gục ngay xuống,
rồi thấy hai tên lính bắt đi, đưa đến một chỗ đền đài, tường liễu chung quanh,
có các cây cổ thụ to hàng mười ôm. Trong đền có vài chục chiếc ỷ. Ở mé hữu có
một tấm sập, trên sập có một ông quan ngồi, đầu đội mũ, mình mặc áo bố tử. Lính
hầu xúm xít chung quanh. Hai tên lính bắt ông Lê Quí Đôn quì ở dưới thềm, rồi
ông quan ngồi trên sập thét lên rằng:
- Ta là Tế văn hầu đây, ngươi là sơ học tiểu sinh, sao
dám bỉ báng người có công tiền triều, tội ngươi đáng chết!
Lê Quí Đôn ngồi nín lặng, không dám ngẩng mặt lên
nhìn. Bên cạnh có người đội khăn lượt mặc áo xanh, kêu van thay cho Quí Đôn,
ông quan lại nói rằng:
- Công danh sự nghiệp của ta, không thèm so sánh với
ngươi, ngươi đừng tưởng ngươi đỗ Bảng nhỡn mà đã khinh người, cho về mà thử xem
bài “Bình Ngô đại cáo” của ta, nếu ngươi làm hay hơn được bài ấy, thì xé
sắc của ta cũng phải.
Lê Quí Đôn tỉnh dậy, kinh hãi lắm, lập tức viết lại
sắc của ông Nguyễn Trãi. Vì thế sắc của công thần không ai phải tước cả.
TRỊNH KIỂM
Trịnh Kiểm người làng Sóc Sơn, huyện Chân Phúc, tỉnh
Thanh Hóa. Khi còn hàn vi, nhà nghèo lắm, mà thờ mẹ rất hiếu. Mẹ tính hay ăn
thịt gà, mà nhà thì không có, ngày nào cũng phải ăn trộm một con gà của láng
giềng để nuôi mẹ. Láng giềng ai cũng ghét, một bữa nhân ông ta đi chơi vắng,
bắt mẹ ông ta ném xuống vực Tôm ở cạnh làng, để khỏi ăn trộm gà nữa. Không ngờ
lòng trời run rủi, chỗ vực ấy chính là một huyệt to. Đêm hôm ấy, trời nổi cơn
mưa gió lớn, rồi vực ấy bỗng dưng nổi đất lên thành mộ. Về sau có người địa lý
Tàu xem ngôi đất ấy, nói rằng: “Ngôi đất này phát ra không phải đế, cũng không
phải bá, mà có quyền nhất cả thiên hạ, truyền được tám đời, rồi vạ tự trong nhà
sinh ra”.
Trịnh Kiểm từ khi mẹ mất, đi lơ bờ kiếm ăn, nấn ná
sang Ai Lao, ở chăn ngựa cho đức Triệu tổ Nguyễn triều ta[vii].
Nguyên bấy giờ nhà Mạc chiếm mất ngôi nhà Lê, đức Triệu tổ đương làm Điện
tiền tướng quân, rước con cả vua Cung đế nhà Lê là vua Trang Tôn chạy sang
Ai Lao, tìm kế khôi phục, cho nên ở bên ấy.
[vii]
Tổ đầu của nhà Nguyễn, Phan Kế Bính viết quyển này trong năm Duy Tân thứ 6 nên
mới tôn xưng như thế (BT).
Một hôm, đang đêm Triệu tổ đứng dậy mở cửa ra sân,
trông xuống dưới trại, thấy có hai khối tinh đỏ đòng đọc, tựa hồ như hai bó
đuốc, sai người đánh đuốc xuống xem cái gì, thì té là Trịnh Kiểm đang ngủ ở chỗ
ấy, hào quang từ trong mắt ánh ra. Triệu tổ lấy làm kỳ, gọi lên hỏi chuyện, thì
ứng đối giỏi giang, tài đảm hơn người.
Triệu tổ thấy người có tướng lạ, biết không phải
người tầm thường, đem lòng yêu mến, cử lên làm tướng bộ hạ và gả con gái là
nàng Ngọc Bảo cho Trịnh Kiểm.
Tự khi ấy, Trịnh Kiểm theo Triệu tổ đi đánh giặc lập
được nhiều công trạng to, Triệu tổ lại càng kính trọng lắm, cử lên làm đại
tướng, sai đốc binh ra đánh Nghệ An, dần dần tiến ra đến Thanh Hóa khôi phục
được Tây đô.
Đến khi Triệu tổ mất bao nhiêu quyền chính của ngài,
vua Trang Tôn giao phó cả về tay Trịnh Kiểm, Trịnh Kiểm có quyền to tự đấy.
Trịnh Kiểm tuy người võ, nhưng mưu trí hơn người,
giúp vua Trang Tôn, đánh nhau với nhà Mạc, lập lên công trạng, được tiến vị
phong làm Thái sư, Dực quận công, sau lại thăng làm Lang quận
công. Đến đời con là Trịnh Tùng lại sắc sảo lắm, giúp vua Anh Tôn, phá được
quân nhà Mạc ở cửa bể Thần Phù, dần dần tiến binh ra thành Thăng Long, bắt được
Mạc Mậu Hiệp, đem lại được giang sơn cho nhà Lê, được tiến phong làm Bình an
vương.
Từ bấy giờ con cháu họ Trịnh, đời đời tập phong tước
vương, quyền chính lấn cả thiên tử. Trải 200 năm, tám đời truyền kế nhau, đến
đời Trịnh Khải bị Bắc bình vương[viii]giết
mất, bấy giờ mới hết.
[viii]
Tức Quang Trung Nguyễn Huệ (BT).
LƯƠNG HỮU KHÁNH
Chi họ Lương ở Thanh Hóa, phong phú có tiếng nhất ở
vùng ấy. Tổ họ ấy khi xưa sinh được ba con trai, thành ra ba chi. Đang khi cuối
nhà Trần loạn lạc, một chi xiêu dạt sang Tàu, ngụ ở tỉnh Vân Nam. Có người làm
nên, đời đời được tập phong tước vương. Một chi thiên ra ở xã Tào Sơn huyện
Ngọc Sơn, cũng kế thế đăng khoa. Còn một chi thì ở xã Hội Trào, huyện Hoằng
Hóa, sinh ra ông Lương Đắc Bằng, đỗ Bảng nhãn trong thời Cảnh Thống đời vua
Hiến Tôn nhà Lê.
Lương Đắc Bằng vì có người họ ở Tàu, mới mua được
nhiều thứ sách quí, cho nên học giỏi về nghề lý số. Ngoại 50 tuổi, chưa có con
trai, chỉ có người vợ lẽ có mang được ba tháng. Khi gần mất, dặn vợ lẽ rằng:
- Nếu mai sau sinh được con trai, thì tất nó làm nên
công danh sự nghiệp, tỏ rạng cửa nhà. Khi nào con lớn, thì nên cho đến học ông
Trạng Trình ở huyện Vĩnh Lại, thì mới giữ được nền nếp nhà ta.
Nói đoạn thì mất. Về sau người vợ lẽ quả sinh được
con trai, mới đặt tên là Hữu Khánh.
Hữu Khánh thông minh sớm, mười tuổi đã biết làm văn,
mà sức ăn cực khỏe, thường ăn gấp ba bốn phần người thường mới no. Mẹ lắm khi
phải nhịn đói để con ăn.
Nhà ông ấy nghèo, mới bảo với mẹ rằng:
- Cha tôi khi xưa làm quan thanh liêm, đến nỗi con
cháu không đủ cơm cháo mà ăn. Vậy mẹ cho tôi đi nơi khác, tùy đường kiếm ăn,
kẻo để phiền đến bụng mẹ.
Mẹ buồn rầu nói rằng:
- Mẹ con không nuôi được nhau, đến nỗi để con đi tha
phương cầu thực, mẹ lấy làm đau xót ruột lắm.
Nói thế rồi, ứa hai hàng nước mắt. Ông ấy từ mẹ đi
ra, sang các nhà học trò bên cạnh huyện ngâm thơ làm phú để độ thân.
Một khi đi qua bến đò sông Tam Kỳ, gặp 5, 6 nhà sư
tự đám chay về, mang một cái đẫy có 100 phẩm oản. Nhà sư thấy ông ấy có dáng
đói, cho vài chiếc oản. Ông ấy từ nói rằng:
- Học trò nghèo nhịn đói, đã mấy hôm nay, may gặp
được Đại bồ tát, tưởng là có bụng bố thí làm sao, lại bủn xỉn cho được vài phẩm
oản, thì ăn chả bõ dính mồm.
Có một nhà sư già cười nói rằng:
- Thầy kia đã gọi là học trò, thì thử làm một bài
thơ “Học trò đi thuyền chung với nhà sư”, hễ sang khỏi sông mà xong bài thơ,
thì có bao nhiêu oản xin biếu cả.
Ông ấy ngồi trong thuyền, ngâm ngay một bài thơ như
sau này:
Một pho kinh sử bộ kim cương,
Đây đấy cùng thuyền khéo một đường.
Trong hội cồ đàm ngươi thỏa thích;
Trên ngôi đài các tớ nghênh ngang.
Truyện xưa ngươi vẫn căm Hàn Dũ[ix]
Việc trước ta còn oán Thủy Hoàng[x].
Gặp gỡ mảy may rồi lại biệt,
Kể tròn quả phúc, kẻ vinh xương.
[ix]
Hàn Dũ đời nhà Đường, xin hủy tượng Phật và đốt sách Phật.
[x]
Thủy Hoàng chôn học trò và đốt sách nho.