Ma thổi đèn (Tập 8) - Chương 66

CHƯƠNG
66: MŨ MA

Mã Lục Hà bị Hồ tiên sinh làm cho giật thót mình, biết
rằng người này đã tìm được căn nguyên đụng chạm với hung sát trong nhà mình, vội
hỏi: “Tiên sinh, sao lại nói vậy? Hung hiểm ở đâu?”

Hồ tiên sinh lau mồ hôi lạnh trên trán, đáp: “Nếu
không phải tôi nhìn ra được, già trẻ gái trai nhà họ Mã đều phải xuống âm ty
làm ma cả đấy.”

Mã Lục Hà nhất mực tin tưởng thuyết phong thủy, nghe
thấy lời này, trong lòng lại càng kinh hãi bội phần: “Mảnh đất báu phong thủy
nhà chúng tôi sao lại có vận hung hiểm thế chứ?”

Hồ tiên sinh chỉ xuống núi, nói với Mã Lục Hà: “Ông
nhìn kĩ xem, ngọn núi cao phía Tây trang viện nhà họ Mã giống cái gì?” Mã Lục
Hà nhìn theo hướng ngón tay, chỉ thấy mé sau nhà mình có một ngọn núi cao, cảnh
sắc đẹp đẽ xanh um, bình thường nhìn cũng đã quen, cho là thường, không hề cảm
thấy gì. Nhưng lúc này ngắm nghía kĩ càng, bất giác cũng kinh hoảng thốt thành
tiếng: “Rõ ràng là một cái mũ, đây là... là mũ của phán quan trong kịch nói.”

Hồ tiên sinh nói: “Ngọn núi kia trên nhỏ dưới phình,
vươn lên sừng sững như mũi dùi, thế núi lánh dương tìm âm, vừa khéo phủ trùm
lên trang viện nhà họ Mã, hình thế này trong phong thủy có tên tục gọi là mũ
ma, chẳng trách việc làm ăn trong nhà lại hưng vượng, tiền vào cuồn cuộn, vì
đây chính là đường thu tiền âm của phán quan Sâm La điện. Khu nhà này của ông
chỗ nào cũng tốt, xây dựng không chút vấn đề, hiềm nỗi lại nằm bên dưới mũ ma,
há chẳng phải coi đây như âm trạch mộ phần hay sao? Thứ cho tôi nói thẳng,
không đầy ba năm toàn gia nhà ông sẽ chết sạch, gà chó cũng chẳng còn đâu.”

Mã Lục Hà sợ đến hồn xiêu phách lạc, lập tức níu lấy
Hồ tiên sinh khẩn cầu: “Tiên sinh nhất định phải cứu cả nhà tôi với, tốn bao
nhiêu tiền cũng được, xin tiên sinh cứ nói.”

Hồ tiên sinh bèn an ủi: “Mã lão gia không cần phải
lo sợ, chỉ cần bỏ căn nhà này đi, toàn gia nhà ông dọn đi chốn khác là được, giờ
vẫn chưa muộn đâu.”

Mã Lục Hà không nỡ bỏ mảnh đất báu nạp tài này, liền
đảo mắt van nài Hồ tiên sinh: “Xây khu nhà lớn như vậy tuy tốn kém không ít,
nhưng cũng không có gì luyến tiếc cả, chỉ có điều cái ‘mũ ma’ kia rõ ràng là mảnh
đất báu phong thủy thu nạp tiền tài, sao có thể để uổng phí vậy được, cầu xin
tiên sinh ban cho diệu pháp để nhà họ Mã tôi giữ được tài vận này.”

Sau đấy, Mã Lục Hà lại lấy ra mấy miếng vàng, nói cứng
nói mềm, cầu Hồ tiên sinh ban cho kế sách. Hồ tiên sinh từ hồi theo thầy học
nghề đã biết một câu ngạn ngữ cổ: “Núi sông mà biết nói, thầy phong thủy chết
đói; thảo dược mà biết nói, y sư không gạo ăn.” Không nên quá tin vào thuyết
phong thủy, nhưng các bậc thánh hiền thời xưa cũng thường nói chuyện “thiên
nhân tương ứng” có lúc địa lí núi sông dường như cũng có thể ảnh hưởng đến họa
phúc cát hung, vì vậy Hồ tiên sinh cho rằng, đạo phong thủy không phải vô căn cứ,
cũng thường nghĩ đến chuyện tìm cho mình một mảnh đất báu phong thủy, để đến
khi trăm tuổi còn lưu lại phúc ấm cho con cháu đời sau.

Không cầm lòng được trước lời khẩn nài vật vã của Mã
Lục Hà, Hồ tiên sinh đành đồng ý. Kì thực, muốn giữ lại mảnh đất tài lộc “mũ ma”
này cũng không phải chuyện gì khó, chỉ cần đảo lộn âm dương là được, bỏ dương
trạch đi, sau đó đưa mộ phần tổ tiên về mai táng ở đây, việc làm ăn của nhà họ
Mã vẫn càng ngày càng phát đạt.

Mã Lục Hà mừng rỡ khôn xiết, luôn miệng tán dương Hồ
tiên sinh quả không hổ là cao nhân Kim Điểm, ông ta đã mời hết cả các vị danh
gia trong tỉnh, mà không ai nhìn ra được trang viện nhà họ Mã phạm phải hung
sát gì, vậy mà Hồ tiên sinh mắt lửa ngươi vàng, vừa lên núi nhìn đã thấu được
huyền cơ ngay, đúng là bản lĩnh thần tiên, gặp được cao nhân như thế, nhất định
là khí số nhà họ Mã vẫn còn chưa tuyệt.

Đối với chuyện hưng vong của gia tộc, Mã Lục Hà
không dám có chút sơ suất, lập tức mời Hồ tiên sinh ở lại nơi tốt nhất trong trấn,
rồi phái người đến hầu hạ cơm ăn nước uống, đồng thời một mặt nhờ ông giúp chỉ
ra huyệt đạo của địa mạch, mặt khác tiến hành dọn cả nhà đi nơi khác.

Đúng dịp Mã lão thái gia vừa qua đời được tròn năm,
họ liền chọn ngày hoàng đạo, tập hợp người đào mộ lên, còn chuẩn bị đủ khí cụ của
mặc sư(32) để phòng thi biến. Thời xưa, mọi người tương đối mê tín, những khi
khai quật mộ cổ hoặc di chuyển mộ phần đều lo gặp phải thi biến, nên đều mang
theo đầu mực của thợ mộc để khắc chế cương thi. Đầu mực và dây mực dùng để kẻ vạch
đo đạc, trong dân gian phổ biến quan điểm là: “Dây mực thẳng, không thể bẻ cong
dối lừa,” dây mực chỉ có thể kẻ đường thẳng, có thể nói là bảo vật của các mặc
sư, dùng càng lâu càng quý báu. Dây mực là tượng trưng cho chính trực. Từ thời
xa xưa, tà đã không thể thắng chính, các vật kiểu như dùi của thợ đá, thước,
dây, búa, bào của thợ mộc, đều có tác dụng tương tự, có thể trấn áp các thứ yêu
tà quái dị. Rường cột và các đồ gỗ trong nhà mà vô cớ cót két phát tiếng, đều bởi
chưa cọ sạch dây mực, lâu ngày hóa thành tinh linh phát ra tiếng động. Đương
nhiên đấy đều là truyền thuyết, cũng không có chứng cứ xác thực.

(32)
Thợ mộc cao cấp, tương đương với kiến trúc sư.

Ngoài ra, còn phải chuẩn bị một ít tiền đồng trước
thời Thanh, sau khi quật nấm thấy quan tài, phải áp lên nắp quan mấy chục đồng
tiền, bên ngoài chăng hai sợi dây. Làm vậy để phòng ngừa cái xác bật dậy phá
quan tài. Tiền đồng đè quan cài còn gọi là “nghìn cân một đồng,” tương truyền,
làm như vậy có thể ngăn cách thi thể với dương khí, ngoài ra còn có thuyết nói
tiền đồng chính là tiền quan, đè cho cương thi không bật lên được. Các thuật sĩ
còn cho rằng chữ trên tiền cổ chính là ấn quang, có thể phá yêu thuật lòe bịp.
Truyền thuyết về ấn quan này có rất nhiều, tỉ như có thuyết nói, thời xưa có kẻ
trộm, không cần móc túi vẫn có thể lấy tiền bạc từ ngoài xa ngàn dặm, vì vậy
phàm các nhà giàu đều đặt một xâu tiền cổ hoặc nguyên bảo có ấn quan trong ngân
khố, gọi là tiền “áp khố,” như vậy sẽ không bị trộm nữa. Vả lại, tiền cổ có ấn
quan cũng có thể tránh tà, niên đại càng xưa càng tốt.

Theo phong tục mai táng của địa phương, lúc chuyển mộ
dời quan cài cần chú ý “vạ miệng,” đây không phải chỉ tiếng lóng trong đạo lục
lâm, mà mộ cổ là lãnh địa của người chết, người sống đến tìm người chết, cần phải
kiếm lấy cái cớ cho mình yên tâm, vì vậy mới gượng ép thêm vào rất nhiều điều kị
húy, “vạ miệng” tức là những cấm kị trong lời ăn tiếng nói, kị nhất là những từ
kiểu như “chết, xác, âm, chạy, mồ, mả...” cho rằng những chữ này không được may
mắn, trong lúc nói chuyện đều cố gắng tránh đi. Tuy vậy, hai chữ quan tài phát
âm giống như quan tài trong thăng quan phát tài, vì vậy không cần tránh vạ miệng.
Những quy củ nhà quê phức tạp này, Hồ tiên sinh trước giờ vẫn nắm rõ trong lòng
bàn tay, chỉ điểm rõ ràng đâu ra đấy.

Vào đêm cuối cùng, theo quy củ, cần mời đạo sĩ đến
niệm chú an ủi vong hồn, con cháu thắp hương dập đầu xong, mới khiêng quan tài
ra, cắm phướn cắm đèn dẫn lối, để trâu vàng ngựa trắng kéo xe, đưa quan tài
khâm liệm thi thể Mã lão thái gia đến mảnh đất “mũ ma” chôn cất lại.

Quan tài là trung tâm của việc mai táng, vì trong xã
hội cũ, người người đều mê tín tin vào phong thủy, cho rằng đất có đất hung đất
cát, sao có sao lành sao dữ, nếu tìm được một mảnh đất lành làm mộ tổ, chôn cất
thi hài tổ tiên, con cháu đời sau có thể nhờ vào long khí phong thủy ấy mà phát
tích. Gia tộc hưng vượng không ngoài việc làm quan, kiếm tiền, chính vì lẽ này
mà quan tài đồng âm với quan tài trong thăng quan phát tài, nên việc chuyển dời
mồ mả tổ tiên là hết sức quan trọng, nhà họ Mã lại có tiền có thế, kinh động đến
nỗi dân chúng khắp vùng đều kéo về xem náo nhiệt, người đông như nước.

Trang viện về cơ bản đã bị phá dỡ, nơi chôn cũng đã
chọn xong, nhưng để đề phòng long khí trong âm trạch chạy mất, trước khi đưa
quan tài đến không được đào đất lên, đợi khi quan tài đến nơi, Mã Lục Hà lập tức
lệnh cho người nhà bắt tay đào đất. Từ xưa, người ta đã chú trọng đào sâu chôn
chặt, quan tài chôn càng sâu càng tốt, chỉ có mộ người nghèo mới đào hố nông,
dăm bữa nửa tháng là bị chó hoang đào bới.

Nhà họ Mã tuy thừa tiền, nhưng dẫu sao cũng không phải
quý tộc, thời Dân quốc cũng không còn ai xây dựng minh đường mộ thất dưới lòng
đất nữa, nên chỉ đào một cái hố sâu để hạ táng mà thôi. Mười mấy người to khỏe
thay phiên nhau đào bới, được một cái hố còn sâu hơn cả móng nhà, phỏng chừng
cũng sắp xong thì đột nhiên đào được một khối đá.

Mọi người đều lấy làm kinh hãi, huyệt vị này là do
Kim Điểm Hồ tiên sinh chỉ cho, sao bên dưới không phải đất lành, mà lại có nham
thạch? Hồ tiên sinh ngồi bên cạnh trầm tĩnh quan sát, trong bụng cũng lấy làm lạ,
thầm nhủ phen này đúng là thất sách, sao lại chọn đúng một cái huyệt đá thế
này? Không khéo phen này mất mặt chứ chẳng chơi. Ông đang ngẫm nghĩ tìm cơ hội
lẩn đi, chợt thấy sắc mặt Mã Lục Hà nặng trịch, sầm sì đi tới bên cạnh, bảo ông
tới xem thử, tại sao trong huyệt mộ lại có nham thạch.

Kì thực, ý của Mã Lục Hà đã hết sức rõ ràng, nhà ông
ta cũng dỡ rồi, mộ tổ cũng chuyển đi rồi, nhưng trong huyệt mới lại đào phải
nham thạch, tự nhiên phải nghi ngờ Hồ tiên sinh là hạng giang hồ lừa đảo. Họ Mã
này ỷ mình qua lại với quan phủ, hoành hành bá đạo đã quen, hại chết một vài
dân thường cũng chẳng đáng gì, bây giờ đã định chôn sống luôn Hồ tiên sinh vào
cái hố đó.

Hồ tiên sinh hối hận vô cùng, sớm biết thế này thì
ban đầu đã không mở tiệm bói, xưng là Kim Điểm kim điếc gì, cứ ù lì chăn dê
chăn bò cho nhà địa chủ còn hơn, giờ rơi vào tình cảnh này, tự mình tạo nghiệt
thì không thể sống được, đành phải chịu mệnh thôi. Bị cả đám người dồn ép, ông
đành ủ rũ tấp tểnh đi tới trước cái hố, trong đầu không ngừng xoay chuyên xem
nên tán láo thế nào để bảo toàn tính mạng.

Nhưng nước đến chân mới nhảy, làm gì có cách nào
đây? Đang không biết phải nói sao, chợt nghe mấy người phu đào huyệt xì xào ầm
ĩ, nói rằng trên tảng đá đào được kia có chữ, hình như là một tấm bia đá. Mã Lục
Hà vội kêu người đưa tấm bia ấy lên.

Người đông dễ làm việc, chỉ thoáng sau, tấm bia đá
đã được đưa ra khỏi hố, mọi người phủi sạch bùn đất bên trên, chỉ thấy trên mặt
bia khắc sáu chữ lớn. Bấy giờ, rất nhiều người vây lại xem xét, ai biết đọc biết
viết đều nhận ra được, lẩm bẩm đọc lên thành tiếng: “Ở thì chết, chôn thì phát.”

Mã Lục Hà gạt đám người ra xem đi xem lại mấy lượt,
kinh hãi đến nỗi một hồi lâu không sao khép miệng lại được, quỳ sụp xuống trước
mặt Hồ tiên sinh dập đầu cảm tạ rối rít: “Tiên sinh đúng là thần tiên sống! Mã
Lục Hà tôi hôm nay hoàn toàn tâm phục khẩu phục rồi!”

Hồ tiên sinh vốn tưởng rằng phen này bị chôn sống lấp
hố rồi, không ngờ lại có kì ngộ như vậy. Nơi này xưa nay chưa từng có người xây
nhà hay xây mộ, thứ chôn trong đất ắt là di vật từ thời cổ xưa, thật không ngờ
lại ứng nghiệm đến thế. Ông cũng ngây ra hồi lầu mới định thần lại được, càng cảm
thấy Thập lục tự âm dương Phong thủy bí thuật nói đâu trúng đó, mấy thứ kĩ nghệ
giang hồ vặt vãnh không thể nào so sánh được.

Khi ấy, người quây xung quanh xem đông nghìn nghịt,
ai nấy đều coi Hồ tiên sinh như một vị “bán tiên,” cứ như tinh tú quây quanh vầng
nguyệt vậy. Hồ tiên sinh cũng thấy lâng lâng, lòng mừng khôn tả, song bề ngoài
vẫn không dám để lộ ra, chỉ tìm mấy câu xã giao ứng đáp, rồi chủ trì nghi thức
hạ táng quan tài của Mã lão thái gia. Xong xuôi đâu đấy, ông nhận được rất nhiều
tiền tài tạ lễ. Từ đó trở đi, danh tiếng Hồ tiên sinh vang xa, hễ nhắc đến Kim
Điểm Hồ tiên sinh, người nào biết chuyện đều giơ ngón tay cái lên, khen một tiếng
“thuật số như thần, tay vàng điểm chỉ” nhưng cây to gọi gió lớn, dần dần cũng
có rất nhiều tên đạo tặc có ý đồ với nhà họ Hồ, muốn bắt ông đi giúp chúng tìm
long mạch trộm mộ.

Hồ tiên sinh tự thổi phồng mình một thời gian, thấy
hết đám trộm này đến đám giặc khác không ngừng tìm đến tận cửa, cũng không thể
không thu liễm bớt, qua quýt được thì qua quýt, tránh được thì tránh, nhưng ông
cũng biết tránh được mùng một không thoát khỏi hôm rằm, cứ ở lại trong thành
xem bói xem đất, sớm muộn cũng rước lấy vạ lớn, cái đầu mình rơi xuống cũng
không sao, nhưng vợ con trong nhà lấy ai nuôi sống đây?

Vậy là Hồ tiên sinh liền gói ghém hết vàng bạc châu
báu, đưa cả nhà đi trốn. Ông vốn không phải người Hồ Nam, nói đi là đi luôn,
không có gì vướng bận cả. Hai năm sau, gặp lúc thời cuộc khó khăn, trong nhà
hơi túng thiếu, ông nhớ ra mình còn cái tráp chôn ở một nơi bí mật bên hồ Động
Đình, đó là món tiền dùng khi khẩn cấp ông chuẩn bị từ lúc gia cảnh còn sung
túc, dạo trước đi gấp quá nên không kịp mang theo. Nay cần dùng đến, Hồ tiên
sinh bèn hóa trang thành thương khách trở về lấy tiền.

Hồ tiên sinh tính tình cẩn trọng, luôn né tránh tai
mắt người khác, lại thông đường thuộc lối nên chẳng tốn mấy công sức đã dễ dàng
lấy lại được tráp tiền, đang chuẩn bị mang tiền về nhà thì chợt nhớ ra Mã Lục
Hà, thầm nhủ năm đó mình giúp người này lấy được địa mạch phát tài “mũ ma,” lúc
này Mã gia chắc hẳn càng thêm hưng vượng, sao không tới đàm đạo một chuyến, biết
đâu lại được thêm gì đó.

Nghĩ đoạn, ông quyết định vòng đường đến tìm gặp Mã
Lục Hà, chẳng ngờ đến nơi liên đờ người ra, cả nhà họ Mã đều đã ngỏm củ tỏi, mộ
phần của Mã lão thái gia cũng bị đào trộm. Hồ tiên sinh cảm thấy hết sức bất ngờ,
trong lòng không khỏi thắc mắc: “Chẳng lẽ ta xem địa mạch không chuẩn, hại chết
cả nhà Mã Lục Hà rồi?” Nhưng rồi ông lại nghĩ: “Không thể nào, bia đá thời cổ
đào được trong huyệt mộ ấy, rõ ràng viết rằng ‘ở thì chết, chôn thì phát,’ chứng
tỏ người xưa sớm đã nhận ra mảnh đất báu phong thủy này, lại không phải có người
động chân động tay vào, sao có thể sai được chứ?”

Hồ tiên sinh lấy làm nghi hoặc, chuyện này quan hệ đến
tính mạng mấy chục con người của một gia tộc lớn, không hỏi thăm cho rõ thì về
nhà cũng canh cánh không yên, bèn đi xung quanh dò hỏi, cuối cùng cũng biết được
toàn bộ sự kiện. Kết quả càng khiến ông bất ngờ hơn gấp bội.

Thì ra, Mã Lục Hà chuyển dời âm trạch dương trạch
xong, quả nhiên việc làm ăn càng thêm hứng vượng, thanh thế như mặt trời chính
ngọ, tiền tài cuồn cuộn chảy vào kho. Nhưng trời có gió mưa bất trắc, một ngày
nọ, giếng nước trong nhà bị người ta bỏ độc, một mạch chết mất mấy chục mạng
người, tuy trong nhà vẫn có người, nhưng người chết quá nhiều, trong lúc vội
vàng, đến cả quan tài cũng không kịp đặt mua.

Mã Lục Hà lớn tiếng mắng chửi Hồ tiên sinh là tên bịp
bợm, cái mũ ma này vẫn chụp lên đầu người sống nhà họ Mã không gỡ ra được. Ông
ta nổi giận đùng đùng dẫn người vào thành phá tiệm bói của Hồ tiên sinh, nhưng
lúc đó cả nhà Hồ tiên sinh đã dọn đi đâu không biết.

Mã Lục Hà tìm khắp nơi không thấy, đành hậm hực trở
về. Ông ta ngồi thuyền đi đường thủy, không ngờ dọc đường gặp một trận gió lớn,
đánh chìm cả thuyền, cả đám người đều làm mồi cho tôm cá, không kẻ nào sống
sót. Cả một gia tộc lớn cứ vậy mà chết sạch sẽ không còn một ai.

Thời bấy giờ đang buổi chiến loạn liên miên, mộ phần
của Mã lão gia là mộ mới, bằng như một đống vàng bạc đặt lù lù trên mặt đất.
Sau khi băng cướp lớn ở Tương Âm tan đàn xẻ nghé, có khá nhiều kẻ hoạt động đơn
lẻ trong vùng. Một hôm, cả trăm người mang theo vũ khí chạy qua, trắng trợn đào
ngôi mộ này lên, vơ vét sạch sẽ đồ bồi táng của Mã lão thái gia mang đi.

Bấy giờ, tục hậu táng đã suy tàn, nhưng vẫn thịnh
hành lệ đặt tiền “áp khẩu” cho người chết, trong miệng ngậm bạc hoặc tiền đồng,
mà nhà họ Mã lại tiền nhiều mạnh chi, trong quan tài quả cũng có một số món xa
xỉ đắt tiền, y phục của xác chết không cần phải nói, chỉ riêng cái túi đựng thuốc
bằng gấm đỏ, miệng túi nạm ngọc đã đáng mấy trăm đồng Đại Dương rồi. Cuối cùng,
bọn trộm còn nhổ nốt mấy cái răng vàng trong miệng Mã lão thái gia rồi mới đập
quan tài hủy xác, nghênh ngang rời đi, tình trạng thê thảm hết chỗ nói.

Về sau, lại có mấy toán trộm quy mô nhỏ hơn, cùng một
số sơn dân quanh vùng đến lọc hố, huyệt mộ càng đào càng lớn, ở chỗ dạo trước
chưa động thổ, lại lộ ra một tấm bia đá. Những người hiếu sự đều đó đến xem, thấy
trên tấm bia mới khai quật được ấy, cũng có sáu chữ lớn: “Người ngay phát, kẻ
gian chết.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3