Ma thổi đèn (Tập 8) - Chương 26
CHƯƠNG
26: THẬP BÁT LOẠN TÁNG
Giáo sư Tôn bảo rằng hang động này quá ẩm, bên trong
có gì thì đều đã bị hủy hoại hết rồi. Quan Sơn thái bảo Phong Soái Cổ tuy rằng
hành vi cổ quái, nhưng dẫu sao lúc sinh tiền ông ta cũng là bậc cao nhân tinh
thông kì môn dị thuật, “Quan Sơn chỉ mê phú” thần diệu ngần ấy, sao có thể chọn
mộ ở nơi âm u ẩm thấp như thế này? Chắc hẳn chúng ta đã tìm nhầm địa điểm mất rồi.
Tôi cũng cảm thấy sự tình có điềm kì lạ, lúc này đã
tháo mặt nạ phòng độc ra, có thể nghe thấy sâu bên trong tầng nham thạch dường
như có tiếng nước chảy róc rách, tựa hồ phía trong có sông ngầm hoặc hồ nước ngầm
gì đó. Hiềm nỗi, không có “Quan Sơn chỉ mê phú” chính gốc để tham chiếu, khiến
chúng tôi khó lòng đoán định được cái hang bên dưới “Tường sắt vách bạc” này có
phải lối vào mộ cổ Địa Tiên hay không.
Tôi suy xét một lát rồi quyết định mạo hiểm tiến sâu
vào bên trong, chỉ còn nước tận mắt nhìn cho rõ ràng mới có thể tính toán tiếp
được. Nghĩ đoạn tôi bảo cả bọn:“Trong nhóm chúng ta có Mô Kim hiệu úy, còn có cả
cao thủ của Phong Oa sơn, và chuyên gia giải đọc văn tự cổ, trên đời này không
có mộ cổ Địa Tiên thì đành chịu, chỉ cần ngôi mộ cổ ấy thực sự tồn tại thì chẳng
sợ không tìm được. Giờ có suy đoán lung tung cũng chả ý nghĩa gì, chi bằng cứ
men theo hang động này đi sâu vào bên trong xem sao, dọc đường mọi người đều chỉnh
đèn sáng lên một chút.”
Tôi nói xong, liền mở ô Kim Cang chắn về phía trước,
giơ đèn pin mắt sói lên dẫn đầu đi xuống bậc cấp bằng đá, những người còn lại
theo sát phía sau. Cả bọn đều hiểu, con đường phía trước chưa biết thế nào, ai
nấy đều hết sức đề phòng, tốc độ tiến lên rất chậm chạp.
Hang núi ẩm ướt dầm dề, chỗ nào cũng có nước đọng, địa
thế lúc cao lúc thấp, bậc thang nhân tạo cũng không liền mạch có chỗ có chỗ
không. Nơi này trong hang lại có hang, xung quanh chốc chốc lại xuất hiện đường
rẽ nhánh, nhưng duy chỉ có một con đường là có bậc thang đá.
Đi tới tận cùng, hàm lượng phốt pho trong tầng nham
thạch dần tăng lên, từng đám lửa ma trơi lập lòe chớp tắt khiến người ta hoa cả
mắt, thi thoảng lại có một vài con rắn, con chuột dưới lòng đất chạy vụt qua.
Tôi thấy thế càng thấp thỏm không yên, ngấm nước, côn trùng chuột bọ đều là những
đại kị trong việc mai táng, vì vậy ở nhưng nơi đất lành tàng phong tụ khí, tuyệt
đối không có lũ trùng kiến rắn chuột xuất hiện.
Nhưng nghĩ lại, trong lời nhắn của trung đoàn trưởng
Phong để lại trước lúc lâm chung, chỉ nhắc đến chuyện nơi Quan Sơn thần bút vẽ
cửa mở núi là lối vào mộ cổ Địa Tiên, nhưng “Lối vào” dành cho hậu duệ nhà họ
Phong này có lẽ không nằm ở trước cửa ngôi mộ cổ, mà ngược với lẽ thường, được
đặt ở ngoại vi mộ cổ cũng nên. Bên trong khu vực hẻm núi Quan Tài này toàn hang
động thiên nhiên và giếng muối, cho dù sơn động này có thông đến huyệt mộ thật,
thì cũng không biết phải đi bao xa nữa mới tới.
Mới nghĩ đến đây, chợt nghe tiếng nước phía trước lớn
dần lên, sau khi vòng qua một chỗ ngoặt trong đường hầm thiên nhiên xuyên lòng
núi, hang động chợt rộng rãi hẳn ra, nước dồn lại ngập đầy phía trước, mặt nước
đen ngòm lăn tăn gợn sóng, lộ ra những cột đá tua tủa. Đường đi phía trước đã bị
hồ nước ngầm sâu không thấy đáy chặn mất.
Tuy không nhìn rõ tình hình mặt hồ phía xa, nhưng
nghe tiếng cũng biết, phía bên kia hồ nước này có thể có một thác nước, hoặc suối
ngầm đang không ngừng đổ nước. Mặt hồ ở gần phẳng lặng như gương, có thể thấy
đáy hồ là một đầm nước tù, nước ngầm từ trên cao đổ xuống, đều thoát qua các
hang động xung quanh.
Bậc đá trong sơn động chìm xuống mặt nước, xung
quanh không có đường để đi vòng, muốn đi tiếp chỉ còn cách lội nước đi qua. Tuyền
béo ném một hòn đá xuống thăm dò mực nước nông sâu thế nào, rồi xắn quần vén áo
chuẩn bị xuống nước.
Giáo sư Tôn bên cạnh hỏi tôi: “Phải bơi qua thật à?
Tôi… tôi không biết bơi đâu.”
Tôi khó xử nói: “Cửu gia, ông là vịt cạn hả? Sao
không nói sớm… Hay là ông thương lượng với Tuyền béo xem, cậu ta nhiều thịt lực
nổi tương đối lớn, nói không chừng có thể kéo ông bơi sang bờ bên kia đó.”
Tuyền Béo đời nào gánh lấy chuyện khổ sai này? Chỉ
là hễ có cơ hội cậu ta lại tự tâng bốc mình một hồi: “Tuyền Béo tôi đây là một
viên gạch trong công trình xây dựng bốn hiện đại hóa(16), chỗ nào cần là tôi
có, chỗ nào khó là có tôi đây… Lôi Phong còn cõng bà lão qua sông đấy còn gì?
Chúng ta cõng Cửu gia bơi qua sông nào có xá chi.” Nhưng ngay sau đó, cậu ta lập
tức đổi giọng: “Có điều, nói đi cũng phải nói lại, nói một cách thực sự cầu thị,
gần đây kĩ thuật bơi lội của tôi đã hơi thụt lùi rồi, Tôn Cửu gia, ông xem hồ
nước ngầm này sâu không thấy đáy, ngộ nhỡ chúng ta bơi được nửa chừng lại có ma
nước dưới hồ nhô lên kéo cổ chân thì ông đừng trách tôi không trượng nghĩa đấy
nhé. Đến lúc ấy, chúng ta cũng đành ai lo thân người đó, bởi vậy, tôi phải nói
trước, ông định ăn mì vằn thắn, hay ăn mì dao phay(17) đây?”
(16)
Công cuộc xây dựng bốn hiện đại hóa của Trung Quốc bao gồm: hiện đại hóa công
nghiệp, hiện đại hóa nông nghiệp, hiện đại hóa quân sự, hiện đại hóa khoa học
kĩ thuật.
(17)
Tiếng lóng giang hồ. Trong Thủy Hử, hồi 37, khi Tống Giang lần đầu gặp Trường Hoành
trên thuyền. Trương Hoành có hỏi Tống Giang và hai tên công sai áp giải là muốn
ăn mì vằn thắn hay mì dao phay. Mì vằn thắn là cởi hết quần áo nhảy xuống sông
tự tử, còn mì dao phay là mỗi người ăn một dao rồi ném xác xuống sông.
Giáo sư Tôn nổi giận gắt: “Cái gì mà mì vằn thắn, với
mì dao phay? Định giữa đường ném tôi xuống nước à? Các cậu như vậy là vắt chanh
bỏ vỏ, qua cầu rút ván đấy.”
Tuyền Béo nói: “Đại gia đây là người ngay thẳng thật
thà, đã nói trước với ông còn gì, đây gọi là người ngay không làm chuyện mờ ám.
Nước hồ này vừa lạnh vừa sâu, dưới nước không chừng còn có nguy hiểm gì nữa. Đến
lúc ấy ông không muốn bị ma nước kéo xuống thế mạng, tôi sẽ cho ông một dao vào
giữa tim chết cho thống khoái, rồi đào tẩu còn hơn cả hai đều chết chìm. Sao
ông không hiểu được nỗi khổ tâm nghĩ thay cho người khác của Tuyền Béo này cơ
chứ?”
Đương khi giáo sư Tôn luống cuống trước hồ nước ngầm,
Shirley Dương đứng bên cạnh lại bảo tôi: “Chúng ta không mang theo túi khí, đeo
nặng bơi qua hồ không phải là cách hay, vả lại Út cũng không biết bơi, nếu muốn
bơi qua hồ nước này chỉ còn cách để giáo sư Tôn và cô ấy ở lại, hoặc là… Nghĩ
cách tìm công cụ có thể chở người sang bên kia.”
Thực ra tôi hiểu rõ, tình hình dưới nước không biết
ra sao, cũng không có ý định lội xuống nước bơi sang bên kia. Lia ngọn đèn pin
mắt sói tìm kiếm xung quanh, ánh đèn loang loáng, chỉ thấy trên vách đá có những
hình vẽ loang lổ mờ mờ, nhìn kĩ lại, những bức họa ấy tựa hồ có liên quan tới
truyền thuyết về mộ Ô Dương Vương. Nhân vật được truyền thuyết dân gian miêu tả
thành Ô Dương Vương ấy, theo phân tích của giáo sư Tôn rất có thể chính là Long
Xuyên Vương, nhưng chúng tôi cứ theo truyền thuyết dân gian mà gọi ông ta là Vu
Lăng Vương, ở khu vực hẻm núi Quan Tài này, chỗ nào cũng có thể gặp các di tích
ít nhiều dính dáng đến mộ cổ Di Sơn Vu Lăng Vương ấy.
Chỉ thấy trong bức họa đã bị bong tróc đến quá nửa,
đa phần là cảnh hành hình, có đủ các hình phạt tàn khốc như: “Chém ngang lưng,
phân thây.” Tôi thầm nhủ, quái thật, chẳng lẽ hang tích nước ngầm này không
thông đến mộ cổ, mà thông đến một pháp trường thời cổ đại hay sao?
Nghĩ kĩ lại thì cũng chưa chắc là vậy, theo như miêu
tả về quy chế mai táng thời xưa trong Thập Lục tự âm dương phong thủy bí thuật,
ở mạn Ba Thục – Vu Sở, cũng chính là khu vực Tứ Xuyên Hồ Bắc, thời cổ có một kiểu
mộ táng, xây dựng theo kết cấu chủ tùng chồng chất rất hiếm thấy. Tùy táng có
hai loại “Bồi táng” và “Tuẫn táng,” người bị bồi táng đa phần có địa vị trong
xã hội tương đối thấp, chẳng hạn như nô lệ, thợ thuyền, tội phạm, khi hạ táng
chủ mộ, bọn họ sẽ bị xử tử hoặc chôn sống với các loại súc sinh và linh thú
khác.
Trong hình thức mộ táng chủ tùng chồng chất, nơi
chôn vùi thây cốt của những kẻ tuẫn táng được gọi là động loạn táng, thông thường
có mười tám hang động vì vậy gọi là “Thập Bát Loạn Táng,” kết cấu chủ thể của mộ
cổ được xây dựng trên một đường trung trục tuyến, chọn lấy chỗ tốt nhất trong địa
mạch để xây dựng minh điện, chứa quan quách. Thập bát loạn táng động này thông
thường bị đè dưới mộ đạo và minh điện.
Hình thế phong thủy này thiên biến vạn hóa, hình thức
mộ táng chủ tùng chồng chất thường đều có sông ngầm chảy bên dưới. Trong Kinh Dịch
có viết “long dược vu uyên”(18) linh khí núi sông này từ dưới bốc lên quẩn
quanh vấn vít bên minh điện, còn động loạn táng bên dưới mộ cổ là chốn hung huyệt.
Từ những gì trước mắt có thể nhìn thấy, Quan Sơn thái bảo đã lưu lại một con đường
ở “thập bát loạn táng động” này, muốn vào mộ cổ bên trên, chỉ còn cách vượt qua
hồ nước này mà thôi.
(18)
Rổng nhảy qua vực
Động loạn táng có tổng cộng mười tám nhánh, gần
quanh hang động có hồ chứa nước ngầm này, quá nửa là khu vực chôn tội phạm và
nô lệ. Tôi gọi giáo sư Tôn lại xem xét địa hình, hỏi lão ta xem có khả năng này
hay không?
Giáo sư Tôn vẫn theo thói cũ, xưa nay không bao giờ
tùy tiện kết luận điều gì, vậy mà cũng phải công nhận tôi nói có lí, thời cổ đại
quả thật có hình thức này. Tuy rằng đến nay vẫn chưa có ai khai quật được loại
mộ táng đó, nhưng trong sử liệu lại có rất nhiều căn cứ, nếu có thể tìm thấy một
số lượng lớn thi thể xương cốt của đám nô lệ, tội phạm tuẫn táng theo thì không
sai vào đâu được.
Vậy là chúng tôi tiếp tục men theo mép nước tìm kiếm,
phát hiện trên vách hang có rất nhiều khe nứt, bên trong toàn mảnh xương người
lộn xộn, chỉ có răng và xương đầu là còn nhận ra được, ngoài ra còn có hàng đống
xiềng xích gông cùm xâu thành chuỗi dài, dùng để xính các đám phạm nhân lại với
nhau.“Thập bát loạn táng” là nơi đám trộm mộ không bao giờ để mắt, bởi đây chẳng
có thứ minh khí gì đáng tiền, có thể Quan Sơn thái bảo cũng chưa từng động đến
di cốt của đám phạm nhân này, chỉ có lũ trùng kiến chuột bọ chui vào gặm nhấm
mà thôi.
Nhìn địa hình và quy mô này thì trong mười tám rãnh
loạn táng thì ít nhất cũng chôn vùi hơn một nghìn xác chết, phía trong còn hơn
chục cỗ quan tài đơn sơ bằng gỗ tùng nằm lăn lóc, trên mỗi quan tài đều quấn
xích sắt. Sâu bên trong khe đá là nơi oán khí ngưng kết, đến giờ vẫn chưa tan,
người sông mà lại gần đều thấy một cảm giác lạnh buốt dâng lên tự đáy lòng.
Út tuy gan dạ hơn người, nhưng thấy tình cảnh trước
mặt quá đỗi ghê sợ, cũng không khỏi rợn người, vội thì thào hỏi tôi trên đời
này có ma quỷ thật không?
Tôi thấy trong hang toàn xương cốt của những người bị
tuẫn táng, thầm đoán phen này đã vào được tầng dưới cùng của cổ mộ, còn đang ngẫm
nghĩ về kết cấu cụ thể của ngôi mộ, bất thình lình Út hỏi một câu như thế,
không khỏi thầm nhủ, sao những người lần đầu tiên vào nghề đổ đấu đều hỏi câu
này vậy? Còn nhớ hồi ở Nam Hải, Cổ Thái cũng hỏi Minh Thúc như thế, có điều câu
trả lời của tôi không gống Minh Thúc. Tôi bảo Út không có gì phải sợ cả, dù
vong hồn có tồn tại hay không, bây giờ anh cũng chẳng có cách nào chứng minh
cho em xem được, vạn sự trên đời này vốn vô thường, biến ảo bất nhất, những lúc
con người ta không để tâm sự lạ nghiêng trời lệch đất, nếu em không tận mắt chứng
kiến, mà chỉ nghe qua miệng người khác thì cũng khó lòng tin phục. Nhưng tại
sao trong thiên hạ hay có người luận thần luận quỷ như thế? Anh thấy đó đều là
vì lòng người bất bình đó thôi, nếu trên đời này thực sự không còn chuyện bất
công dối lòng nữa, thì cho dù khắp nơi đều có ma quỷ cũng có gì đáng sợ đâu?
Tôi nói đến đây trong lòng chợt cảm khái, bèn tự diễu
chính mình: “Chúng ta là bọn thiên đường có lối không đi, địa ngục không cửa cứ
thi xông vào. Sống yên lành tử tế không muốn, lại vượt sông vượt núi, dốc hết
tâm tư tìm cách chui vào cái mộ Địa Tiên quỷ quái này, còn cảm thấy hành động
này hết sức thú vị hấp dẫn nữa, không biết có phải đổ đấu nhiều quá gây nghiện
rồi hay không?”
Tuyền Béo cằn nhằn: “Nhất ở là Nhất, cậu lại nói nhảm
nữa rồi, hồi trước tôi đã nói với cậu bao nhiêu lần rồi, tạm thời chớ nên áp đặt
chủ nghĩa, xét lại vào sự nghiệp đổ đấu, có ma thì có ma sợ quái gì? Vả lại muốn
xây dựng sự nghiệp, chẳng lẽ không dồn hết tâm trí tinh thần vào ư? Sao có thể
nói là nghiện được? Nói như thế… Thật có lỗi với bầu nhiệt huyết của chúng ta
dành cho sự nghiệp trộm mộ mò vàng quá.” Đoạn cậu ta cầm đèn pin soi vào động
loạn táng, nói tiếp: “Cậu nhìn đi, đây không phải có quan tài đấy sao? Nắp quan
tài dày dặn lại rộng rãi, xuống nước nổi lềnh phềnh, tôi thấy gỡ ra làm bè cũng
được…” Vừa nói, cậu ta vừa xông vào bới mấy cỗ quan tài gỗ tùng cổ xưa cũ nát
kia, định gỡ mấy tấm ván ra đóng một cái bè gỗ, dùng vật liệu tại chỗ cũng hơn
là quay lại hẻm núi khiêng mấy cỗ quan tài treo kia vào.
Mấy cỗ quan tài ở gần chỗ xương cốt phạm nhân, chắc
chắn là dành cho những người có thân phận quý tộc trong đám tù binh nô lệ, những
thân làm kẻ tuẫn táng cũng chẳng được ưu đãi gì, quan tài gỗ tùng hết sức đơn
sơ, lại bị xích sắt quấn không biết bao nhiêu năm tháng, vừa chạm vào đã vỡ nát
ra, chẳng còn mảnh ván nào nguyên vẹn dùng được.
Tuyền Béo liên tiếp giơ chân đạp vỡ mấy cỗ quan tài
bằng gỗ tùng mỏng manh. Những lúc có thể chê bai người khác, cái mồm cậu ta tuyệt
không bao giờ yên, lại kiếm chuyện hỏi giáo sư Tôn, nếu không có cỗ quan tài
nào thích hợp để làm “thuyền xung phong” thì tính sao bây giờ?
Giáo sư Tôn cơ hồ không nghe ra ý khác trong lời nói
của Tuyền béo, cũng không nổi giận chỉ hờ hững đáp lời: “Ừm… Chuyện này… Chuyện
này, hang tuẫn táng kiểu chồng chất này, là khu vực hỗn táng, quan tài đè lên
thi thể, xương cốt lại vùi lấp quan tài, hồi trước khi tôi công tác ở Hà Nam, trong
một lần khai quật, từng trông thấy ở đáy của một hang tuẫn táng, có nhiều cọc gỗ
hình chữ nhật lắm.”
Tôi đứng bên cạnh lặng lẽ quan sát, thầm nhủ Tôn Cửu
gia hẳn có lẽ đã đem cả nửa đời sau của mình vào cuộc tìm kiếm thiên thư trong
mộ cổ này, quyết tâm được ăn cả ngã về không, nên mới mắt nhắm mắt mở trước
hành động mạo phạm người chết của Tuyền béo, lúc trước đa phần lão ta chỉ giả bộ
mắt lấp tai ngơ, vậy mà bây giờ còn ám thị ngầm cho cậu ta vào sâu bên trong động
loạn táng tìm mấy súc gỗ còn nguyên vẹn. Tôi không nhịn được, thầm mắng lão già
này quả nhiên là hạng ngụy quân tử, tuy thương hại lão ta gặp nhiều trắc trở
trong đời, cũng không khỏi xem nhẹ nhân cách của lão ta đi mấy phần.
Tuyền béo đào bới một lúc, không thấy có súc gỗ nào,
nhưng lại tìm được mấy cỗ quan tài sơn son thiếp vàng đỏ chói, cũng bị xích sắt
quấn quanh, trên quan tài có khảm vỏ trai trang trí, còn vẽ một vị thần râu ria
xồm xoàm tua tủa, miệng ngậm một con ác quỷ máu chảy ròng ròng, nhai ngấu nghiến
như thể ăn thịt gà quay vậy, bộ dạng trông cực kì tàn ác. Nhìn kiểu dáng của mấy
cỗ quan tài sơn son này, đều là quan quách thời Nguyên Minh, cả bọn chúng tôi
không khỏi lấy làm thắc mắc, dưới đáy động loạn táng ở mộ cổ Ô Dương Vương, sao
lại có quan tài thời Minh được? Không biết bên trong còn có điều gì cổ quái nữa,
lẽ nào Địa Tiên Phong Soái Cổ cũng được mai táng ở đây?
Giáo sư Tôn nhảy xuống xem xét rồi bảo, dưới đáy động
loạn táng này đã được sửa thành “giếng mộ” rồi, đây là phong tục thời Minh, “giếng”
này không giống với giếng trong “giếng vàng táng ngọc(19).” Chỉ có ý, “trực tiếp
chôn xuống chứ không hạ táng.” Thời Minh vẫn thừa kế chế độ tuẫn táng người sống
của thời Nguyên, vì vậy những kẻ trong “giếng mộ” này chắc chắn đều bị chôn sống.
Các cô các cậu nhìn hình tượng “Chung Quỳ ăn thịt ác quỷ” vẽ trên những quan
tài sơn son này mà xem, dùng để trấn quỷ đấy. Không biết những kẻ xấu số bị tuẫn
táng theo Địa Tiên này là ai, nhưng mười phần chắc đến tám chín phần họ bị chết
ngạt bên trong quan tài.
(19)
Trong địa cung của lăng tẩm bậc đế vương, thường có bệ đá kê quan tài bằng đá
trắng, chính giữa là một lỗ hình chữ nhật, bên trong chứa đất vàng, đây là xẻng
đất đầu tiên xúc lên lúc chọn nơi xây mộ. Hốc chứa đất ấy gọi là giếng vàng, là
điểm mốc cơ bản của toàn bộ bố cục kiến trúc lăng tẩm. Xung quanh và bên trong
quan quách có bạch ngọc, hoặc trong miệng người chết ngậm ngọc thạch, gọi là
táng ngọc. Sở dĩ làm như vậy, là vì người xưa cho rằng giếng vàng có thể nối liền
âm dương, trao đổi sinh khí, còn táng ngọc có thể giữ cho thi thể không bị thối
rữa. Thời Minh, Thanh, “giếng vàng táng ngọc” được coi là nghi thức mai táng
cao cấp nhất.
Tôi gật đầu nói: “Mộ cũ đã bị Quan Sơn Thái Bảo chiếm
mất, Phong Soái Cổ là người tinh thông thuật số, chắc chắn ông ta đã làm theo
phép cổ, bỏ người sống vào quan tài chôn ở đây, để bố cục phong thủy của khu
lăng mộ không có chút sơ hở nào. Cũng may quan tài sơn son vẫn còn nguyên vẹn,
vừa khéo có thể lấy ra làm công cụ vượt hồ.”
Dùng quan tài làm dụng cụ di chuyển trên mặt nước vốn
là cách làm của Bài giáo ở Tương tây, tục gọi là “Đài Hưởng Kiệu” tôi từng được
lão Trần mù kể cho nghe truyền thuyết này. Quan tài được phết mấy lớp sơn,
không còn một khe hở nào, hoàn toàn không ngấm nước. Không để khe hở là nhằm
ngăn ngừa quỷ hồn chui ra. Người sống bị nhốt bên trong cho chết ngạt, oán khí
không tan, tích tụ trong quan tài khiến nó nổi lên mặt nước. Có điều, đấy chỉ
là cách giải thích của dân gian, trên thực tế, hiện tượng “quan tài có ma, vượt
được sông âm” chắc hẳn là do bên trong quan tài tích tụ nhiều chất khí sinh ra
trong quá trình phân hủy xác chết mà thôi.
Lúc này muốn gỡ ván quan tài ra thì rất tốn thời
gian và công sức, chi bằng dùng luôn phép “Đài Hưởng Kiệu” lấy quan tài làm “thuyền
xung phong” vượt qua hồ nước. Cả bọn không nghĩ ra cách nào hay hơn, đành theo
phép cổ mà làm, nhưng có được hay không cũng không dám chắc. Mấy cỗ quan tài
sơn son đỏ chói cực kì nặng, ấy là do người chết mà thân xác không tiêu tán bị
bí hơi tắc khí, nặng hơn người sống nhiều. Thế nhưng khi lội xuống nước, cỗ
quan tài nặng trịnh quả nhiên lại nổi lềnh phềnh. Có câu “mẹo nhỏ chữa bệnh to”
có lúc muốn không tin vào mẹo vặt dân gian cũng không được.
Lại nói đến các mẹo vặt dân gian, những thứ này đa
phần đến từ một số môn phái, giáo phái của xã hội cũ lưu truyền ra ngoài. Thủa
trước, những kẻ bịp bợm tự xưng là “thái bảo tiên cô” thường dùng những mẹo vặt
này để lừa gạt dân chúng, nhưng cũng có một vài cách thực sự có tác dụng, hơn nữa
còn hiệu nghiệm hơn thần, chẳng hạn như gió thổi bụi bay thì lập tức nhổ một
bãi nước bọt, hai mắt sẽ trở lại bình thường; hay như lúc bị nấc, uống một mạch
bảy ngụm nước là khỏi ngay, nhiều hơn hay ít hơn một ngụm cũng không được, phải
đúng bảy ngụm nước mới xong.
Những mẹo, những phép của các “Thái bảo, tiên cô” ấy,
y học hiện đại, đều không thể giải thích, ngay chính bản thân họ cũng không hiểu
rõ sao lại như vậy, chỉ nói thác rằng đây là phép nhiệm màu của các tiên gia
truyền cho để cứu nhân độ thế. Sau giải phóng, trong sổ tay của những ông lang
quê chân đất đều ghi lại vô số những mẹo vặt dân gian. Đời tôi đã chứng kiến đủ
các loại mẹo vặt kì dị lên khá có lòng tin với phép “Đài Hương Kiệu” nên nhảy
xuống trước thử xem lực nổi như thế nào. Tuy bề mặt quan tài không lớn hơn cái
thuyền mộc là bao, nhưng dòng nước ngầm trong hang khá bình ổn, ngồi bên trên
quạt nước cũng không phải là chuyện quá khó khăn.
Một cỗ quan tài sơn không đủ cho năm người ngồi, nên
chúng tôi lại kéo thêm một cỗ khác xuống nước. Tôi và Shirley Dương ngồi chung
một cỗ, ba người còn lại ngồi một cỗ. Cả bọn chưa ai ngồi quan tài qua sông bao
giờ, hai chữ kinh nghiệm chẳng có gì để nói, chỉ còn biết cậy vào người đông
gan lớn mà thôi, bằng không nếu chỉ một mình, ai mà có gan ngồi lên một cỗ quan
tài bên trong là xác cổ âm hồn vượt qua hồ nước ngầm dưới lòng đất này cơ chứ.
Bản thân tôi tự coi mình là kẻ táo tợn gan dạ, nhưng trong tiềm thức vẫn xuất
hiện ảo giác, cảm thấy trong quan tài bên dưới có cái gì đó đang động đậy, xung
quanh cỗ quan tài thi thoảng có con cá nhảy lên mặt nước, phát ra một tiễng “tõm”
khe khẽ, trên mặt nước còn lấp loáng mấy đốm lửa ma trơi, khiến người ta cảm
giác như đang tiến vào cõi u minh vậy. Trong bầu không khí quỷ dị đó, không
gian tăm tối xung quanh càng tỏ ra đầy rẫy nguy cơ, khiến tôi không khỏi ngầm
run sợ, quả tim cơ hồ muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
Bọn tôi dùng xẻng công binh làm mái chèo, lần theo
tiếng nước chảy mà tiến, hai cỗ quan tài dập dềnh trôi nổi hết sức bình ổn, chợt
thấy ở ngoài xa hơn chục mét có một đốm lửa ma trơi nhấp nháy dữ dội, trong ánh
sáng nhàn nhạt thê lương, lờ mờ trông thấy một thứ như vây lưng của một con cá
đen. Mặt hồ nước ngầm dưới lòng đất cũng tuyền một màu đen, có điều bên trên thứ
đó còn có rất nhiều điểm sáng, trông như hàng trăm hàng nghìn con mắt vậy. Lúc
này, nó đang nổi lên mặt nước, càng lúc càng rút ngắn khoảng cách với cỗ quan
tài của ba người bọn Tuyền béo.
Tuyền béo nghển cổ, giơ ngọn đèn pin ra soi, muốn
nhìn cho rõ xem rốt cuộc thứ đó là thứ gì. Tôi đang định nhắc cậu ta cẩn thận một
chút, nhưng lời còn chưa ra khỏi miệng, đã thấy vật thể kia đột nhiên lao vút từ
mặt nước lên không trung.