Ma thổi đèn (Tập 8) - Chương 13

CHƯƠNG
13: NGƯỜI CHẾT... THÂN PHẬN BẤT MINH

Giáo sư Tôn nói hang động này vốn là nơi để
cúng tế Vu Lăng Vương, còn mộ của Lăng vương hẳn được chôn giấu ở chỗ
sâu nhất trong hẻm núi Quan Tài. Càng khiến người ta khó tin hơn là,
vị vương này không phải người, mà là một con “ô dương” toàn thân đen
trũi, năng đến nghìn cân.

Tôi vẫn còn vô vàn thắc mắc, đang định hỏi
lại thì Tôn Cửu gia đã nằm bò ra chăm chú xem xét cái bệ đá, tôi
đành ôm đầy một bụng nghi vấn, kéo Tuyền béo đi xung quanh xem xét địa
hình, hang động giữa lưng chừng núi này rất lớn, đằng xa gió dữ rít
lên như thần khóc quỷ gào, thiết nghĩ cái hang này hẳn chạy xuyên qua
núi, chắc hẳn có lối ra thông sang một sơn cốc khác.

Đợi được đến lúc Tôn Cửu gia dập lại hết
toàn bộ văn tự ghi chép sự tích của Ô Dương Vương thì đã đến nửa
đêm, chúng tôi đành tìm một góc trống trải, đốt lửa lên, qua đêm trong
hang động.

Giáo sư Tôn ngồi trước đống lửa vừa sắp xếp
lại các tư liệu thu thập được trong ngày, vừa câu được câu chăng kể
cho chúng tôi nghe truyền thuyết ghi chép trên bia. Cái bệ đá bên dưới
ghế ngồi bằng xác người của Ô Dương Vương có từ thời Đại Vũ trị
thủy, văn tự kí hiệu điêu khắc cực kì tỉ mỉ, hoa văn chạm khắc theo
lối “lôi văn khinh trọng,” chữ là kiểu chữ “cổ triện Oa Thiền,” người
bình thường căn bản không thể nào hiểu nổi những kí hiệu quái dị như
trong sách trời này, nhưng giáo sư Tôn đắm chìm trong việc nghiên cứu
chữ cổ đã mấy chục năm, dốc hết tâm huyết vào đó, thành tựu không
phải tầm thường đám học giả chuyên gia bình thường không thể so sánh,
nên cũng đọc hiểu được bảy tám phần nội dung ghi chép.

Tôi thầm nhủ mình may mắn, nếu không phải
nhất quyết lôi bằng được Tôn Cửu gia đến Thanh Khê, chỉ dựa vào ba
người tôi, Shirley Dương và Tuyền béo thì dẫu có nhìn thấy những văn
tự cổ đại này cũng lờ đi coi như không thấy. Nghĩ đoạn liền im bặt,
tập trung lắng nghe giáo sư Tôn giảng giải. Thì ra những câu ám ngữ
chỉ dẫn cách tìm lối vào mộ cổ Địa Tiên này, ngoài ẩn chứa bí
mật phong thủy thanh ô, quả nhiên cũng có liên quan mật thiết đến những
truyền thuyết thời xưa ở hẻm núi Quan Tài.

Thời xa xưa, vì địa hình mạch núi Vu Sơn rất
đặc thù, khu vực này liên tiếp gặp lũ lụt, thiên tai quanh năm, mỗi
năm đều có vô số người và súc vật bị dòng nước nhấn chìm, làm mồi
cho lũ tôm cá dưới sông.

Đương khi không biết phải làm sao, trong núi
chợt xuất hiện một vị ẩn sĩ, thể hình khôi vĩ, mặt đầy râu ria,
thân vận áo choàng đen, tự xưng mình là Vu Lăng Đại vương, có thuật
dời núi, có thể sai sử âm binh khơi thông dòng nước.

Nhưng ông ta đưa ra hai điều kiện, một là trong
khi tiến hành công trình dời núi khơi sông, phải cung phụng rượu thịt
cơm nước đầy đủ, đến giờ cơm thì đem cơm rượu chất đống trước cửa
hang trong núi. Trước cửa hang có một cái đỉnh lớn, dân chúng đưa cơm
đến rồi gõ đỉnh ba tiếng, sau đó phải nhanh chóng lánh đi.

Điều kiện thứ hai là xin thiên tử gia phong
quan tước để biểu dương công đức của ông ta, bấy giờ triều đình đang
đau đầu vì công trình quá lớn, dù chịu xuất bạc xuất lương thực và
tráng đinh cũng không thể làm nổi việc dời núi thay dòng, trong triều
lại cực kì coi trọng các cao nhân đắc đạo nên lập tức đồng ý ngay.

Vậy là Vu Lăng Vương ngày đêm làm phép, sai sử
âm binh âm tướng khơi dòng nước dữ, từ đó trong núi ngày nào cũng mờ
mịt mây mù, tiếng phá đá dời núi ầm ầm như sấm. Dân trong vùng cảm
kích công đức ấy, đã chọn một cô gái họ Lý gả cho Vu Lăng Vương làm
vợ, về sau, việc chuẩn bị đồ ăn thức uống cúng tế âm binh, đều do
vị phu nhân này đích thân đốc thúc.

Công trình trị thủy vừa khó khăn lại kéo dài
dai dẳng, một hôm, trời đột nhiên đổ mưa lớn, Vu Lăng Vương chỉ huy âm
binh khơi dòng bất lợi, rượu thịt đưa đến hai ngày liền vẫn không
đụng tới. Phu nhân lo lắng trong lòng, mới dẫn người mang đồ ăn vào
núi.

Đến nơi công trình khơi sông đang tiến hành,
mọi người ai nấy đều kinh hãi. Trong hẻm núi có một con lợn đen
khổng lồ đang đứng giữa dòng nước, lấy đầu húc vào núi đá, sau lưng
nó là vô số quỷ mị đang vận chuyển đất đá. Thì ra Vu Lăng Vương chính
là con ô dương trong núi tu luyện hóa thành, muốn khơi dòng phải hiện
nguyên hình dùng sức quỷ thần khai phá, vì vậy không chịu để dân
chúng vào núi gặp mặt.

Vu Lăng Vương bị dân chúng nhìn rõ nguyên hình,
từ đấy ẩn cư trong núi, không chịu tiếp tục công việc nữa, lại càng
không còn mặt mũi nào gặp phu nhân. Phụ nhân quỳ trước núi khẩn cầu
vô ích, đành gieo mình xuống vách đá tự vẫn. Vu Lăng Vương bấy giờ
mới thẩy hổ thẹn với phu nhân, bèn suất lĩnh âm binh khai thông nốt
đoạn sông cuối cùng, loại bỏ hoàn toàn mối lo lũ lụt của dân cư
trong vùng.

Triều đình ban trọng thưởng, muốn mời Vu Lăng
chân quân đi trị thêm một đoạn sông cũng thường gặp lũ lụt nghiêm
trọng, nếu thành công sẽ lập tức phong vương hầu. Nhưng Vu Lăng Vương
lại nói từ nay sẽ quy ẩn sơn lâm, trừ phi phu nhân sống lại, bằng
không vĩnh viễn không bao giờ dời núi khơi sống nữa. Ngày từ biệt,
có cả ngàn vạn người đến cung tiễn.

Vu Lăng Vương say khướt, đi lạc vào núi Tây
Lăng, hiện nguyên hình nằm lăn ra ngủ, kết quả bị sơn dân trong vùng
không hiểu chuyện bắt sống, lập tức trói nghiến lại, đun một nồi
nước to, cạo lông chọc tiết náo động một hồi. Khi đám thuộc hạ tìm
được đến nơi, thì bộ lòng của đại vương đã nấu được một lúc lâu
rồi.

Sau đó, khắp vùng liền xuất hiện ôn dịch, kế
đó châu chấu bay đến che kín cả bầu trời, dân chúng đều nói là do âm
hồn của Vu Lăng Vương chưa tan, bèn xây một ngôi mộ lớn trong hẻm núi,
thu liệm những phần xương cốt còn sót lại đem đi an táng, nhưng cũng
chỉ thu thập được một ít da lông xương vụn, cái đầu chắc đã bị ăn
mất, không sao tìm lại được nữa. Sau đấy, dân chúng lại xây điện tế,
đẽo tượng ngọc đầu đồng để thờ cúng, năm nào cũng tế bái đầy đủ.

Những khe núi đan xen trong khu vực hẻm núi
Quan Tài này, cùng con đường điểu đạo hiểm trở trên vách đá, đều là
di tích năm xưa Vu Lăng Vương sai sử âm binh khơi dòng, những người chết
trong quá trình khơi sông trị thủy bao đời nay đều được cho vào quan
tài treo, rồi theo dòng nước lũ dần dần rút xuống mà được an táng
trên vách núi, thành tầng tầng lớp lớp quan tài như ngày nay. Vốn
chỉ là hành vi vô tình, không ngờ lại tạo thành một hình bóng không
đầu khổng lồ, có lẽ cũng là điềm báo Vu Lăng Vương phải mất mạng.
Trước khi ra khỏi núi, Vu Lăng Vương cũng từng dẫn âm binh đi đào mạch
khoáng muối Vu trong núi, những giếng khai thác muối trong hẻm Quan
Tài chính là nơi đặt lăng mộ. Từ điện tế này, phải đi qua một đoạn “điếu
đạo trăm bước” cực kì hiểm trở mới đến được lối vào lăng.

Giáo sư Tôn đọc hết nguyên văn đoạn ghi chép
này cho chúng tôi nghe, bấy giờ tôi mới sực tỉnh ngộ: “Thì ra đoạn
ẩn ngữ năm xưa trung đoàn trưởng Phong để lại, trên thực tế chỉ có
câu cuối cùng là hữu dụng, cũng có thể đây chỉ là đoạn đầu tiên, ý
muốn nói lối vào mộ cổ Địa Tiên có khả năng được giấu trong huyện
một ban đầu của Ô Dương Vương, vậy nên: “Muốn đến Địa Tiên, hãy tìm ô
dương.” Truyền thuyết Ô Dương Vương mở núi khai sông chính là đầu mối
quan trọng để tìm thấy lăng mộ, nhưng đây chỉ là bước đầu tiên để
tìm kiếm thôn Địa Tiên, tiếp sau đấy chắc vẫn còn những gợi ý khắc,
nhưng giờ thì không thể biết được nữa rồi.”

Đối với truyền thuyết về Ô Dương Vương, Shirley
Dương cũng có nhiều điểm thắc mắc, bèn hỏi giáo sư Tôn: “Truyền
thuyết này nghe chẳng giống sự kiện lịch sử gì cả, theo thuyết này,
Vu Lăng Vương là người đã mở núi khơi dòng, có công có đức với dân,
nhưng cái ghế bằng xác người trong sơn động lại quá bạo nghiệt, khác
xa những sự tích được ghi lại trong bia văn, trong hẻm núi Quan Tài này
liệu có mộ của Vu Lăng Vương thật không?”

Giáo sư Tôn đáp: “Những văn tự khắc trên bia
đá đỉnh đồng đại để đều là những lời ca tụng công đức, không thể
tin hết được, nhưng những thứ còn sót lại sau nghìn năm ở đây khiến
người ta không thể không tin lăng mộ của Vu Lăng Vương chính nằm trong
hẻm núi Quan Tài này. Có điều, sự thật lịch sử chưa chắc đã như
vây. Truyền thuyết Ô Dương Vương hiện nguyên hình mở núi khơi dòng mang
nhiều màu sắc thần thoại, đương nhiên không thể coi là thật được.
Ngoài ra, chuyện này không hề được ghi chép trong các sử liệu và địa
chí, văn hóa Vu Tà cổ xưa thần bí, có nhiều sự việc đã bị nhấn
chìm trong dòng chảy lịch sử, đến giờ không thể khảo chứng được nữa
rồi.”

Tuyền béo cũng chõ miệng vào: “Tôi thấy hẻm
núi Quan Tài này hiểm trở như thế, với năng lực lao động nguyên thủy
của con người xưa không thể khai thông được đâu, chắc toàn là những
lời tự trát vàng lên mặt mình thế thôi. Vị đại vương không đầu này
hẳn cũng là một kẻ tội ác chất chồng, sợ sau khi chết bị người ta
đổ đấu nên mới kiếm người khác bịa đặt chuyện ở trước mộ ấy mà.
Có điều, nói đi cũng phải nói lại, dù Vu Lăng Vương sinh tiền có bạo
nghiệt thế nào chăng nữa thì lúc chết bị người ta xẻ thịt chặt đầu
nấu lẩu ăn, cũng coi như báo ứng rồi.”

Giáo sư Tôn nói: “Lời này của cậu cũng có lí,
theo kinh nghiệm của tôi, Vu Lăng Vương chưa chắc đã là ô dương gì đó,
lịch sử cổ đại Trung Quốc có quá nhiều trường hợp phải lật lại
kết luận rồi, trở tay làm mây, lật tay làm mưa, chuyện gì cũng không
thể một lời mà định luận được. Tôi nhớ trong sử liệu cũng nhắc đến
sự tích một vị vương hầu khá giống Ô Dương Vương này, có điều không
phải Vu Lăng Vương, mà là Long Xuyên Vương. Tương truyền, Long Xuyên Vương
tính tình tàn bạo xa xỉ cùng cực, nhưng lại có công khơi sông đào
lạch, tiêu trừ mối nguy lũ lụt, công tội khó bề đánh giá. Lúc chết,
ông ta từng bị loạn đao phân thây. Con cháu ông ta sợ có người vì báo
thù mà đào lăng mộ ông ta lên, vì vậy lúc hạ táng đã thay đổi danh
hiệu, lại dùng nhiều thủ đoạn che tai mắt người đời, còn về việc Long
Xuyên Vương là kẻ thống trị ở khu vực nào, đến giờ vẫn chưa có kết luận thống
nhất. Nom những di tích ở hẻm núi Quan Tài này, tôi cảm thấy Long Xuyên Vương rất
có khả năng là Di Sơn Vu Lăng Vương.”

Tôn Cửu gia xưa nay trong công việc đều không dám
nói nhiều, nhưng trước mặt chúng tôi, lão ta đương nhiên không cần sợ lỡ lời,
vì vậy vừa mở máy liền có dấu hiệu hơi mất kiểm soát, cứ thao thao bất tuyệt việc
kinh dã sử, kế đó lại bàn về Long Xuyên Vương, nói người này biết dị thuật. Thời
cổ đại, muốn mở núi khơi sông đều không thể không vận dụng phương thuật, nếu
không biết bố cục phương hướng của núi non sông ngòi thì không chỉ uổng công vô
ích, mà còn gây ra hậu quả vô cùng. Khi nghiên cứu Long Cốt thiên thư, giáo sư
Tôn đã phát hiện rất nhiều ghi chép về động đất, lũ lụt...

Tôi bảo giáo sư Tôn: “Mặc xác lão là Ô Dương Vương
hay Long Xuyên Vương, lăng mộ của lão đã bị đào từ mấy trăm năm trước rồi, thị
phi thành bại ngoảnh đầu lại cũng chẳng còn gì nữa, vì vậy chúng ta khỏi cần khảo
chứng công tội trong lịch sử làm gì, trước mắt phải nghĩ cách tìm được đoạn điểu
đạo trăm bước kia đã. Nếu cái hang có tượng người ngọc với ghế xác người này
đúng là nơi để tế mộ, dựa theo bố cục phong thủy của mộ táng, lối vào mộ đạo,
chắc chắn ở phía sau người ngọc, cũng không khó kiếm lắm đâu. Tôi chỉ lo vào được
mộ đạo rồi cũng chưa xong chuyện thôi.”

Giáo sư Tôn và Shirley Dương cũng lấy làm lo lắng,
ám ngữ của trung đoàn trưởng Phong để lại chỉ có đoạn đầu tiên, sau khi tìm được
lối vào mộÔ Dương Vương, chúng tôi sẽ chẳng còn gì để tham khảo nữa, đến lúc ấy
chỉ có thể đi bước nào hay bước ấy, không ai biết còn bao xa mới đến mộ cổ Địa
Tiên. Cả bọn bàn bạc hồi lâu, cũng chỉ kết luận được rằng hung cát khó lường,
tiền đồ mờ mịt.

Nghỉ ngơi trong hang động đến sáng sớm, chúng tôi vực
dậy tinh thần, tiếp tục tiến sâu vào bên trong, quả nhiên hang động này xuyên
qua lòng núi, tận cùng bên này là một sơn cốc khác cũng thuộc khu vực hẻm núi
Quan Tài, tuy rộng hơn khu vực treo đầy quan tài bên kia nhiều, nhưng địa hình
cũng rất hiểm trở.

Trong núi mây mù vấn vít, mênh mênh mang mang ngút tầm
mắt, dưới đáy khe núi là dòng nước cuồn cuộn ngất trời, bị vách đá ngăn trở,
hình thành nên một chỗ ngoặt hình chữ “a,” còn vùng thượng du phía xa xa, là một
thác nước ầm ầm như sấm động, dòng nước xiết ở trong hẻm núi đổ dồn rồi chuyển
hướng gấp gáp, làm bắn lên một màn bụi nước mù mịt, như một con rồng khổng lồ
lóng lánh vảy bạc đang bay lượn giữa tầng mây chợt lao xuống đáy khe sâu thăm
thẳm, tách rời hai bên vách núi.

Tôi đưa mắt nhìn dòng nước xiết cuộn chảy bên dưới
ba bốn lượt. Tuy không sợ độ cao, nhưng tôi cũng thấy chóng cả mặt, lại ngẩng
lên nhìn sang vách đá đối diện, quả nhiên có rất nhiều điểu đạo ngoằn ngoèo, tựa
như một tấm mạng nhện khổng lồ đục sâu vào vách núi cao muôn trượng, chằng chịt
đan xen, nhất thời nhìn mà hoa hết mắt.

Shirley Dương giơ ống nhòm lên quan sát một hồi, bất
giác trù trừ nói: “Phía đối diện phải có mấy trăm con đường đẽo vào trong vách
núi, ngoài rất nhiều đoạn đường cụt ra, khá nhiều chỗ dẫn đến những miệng hang
khác nhau, làm sao biết điểu đạo trăm bước rốt cuộc là chỉ đoạn nào đây?”

Tôi bảo đừng cuống lên thế, tối qua Tôn Cửu gia đã bỏ
sức không ít, bằng không làm sao biết được lai lịch của đại vương không đầu?
Nhưng công lao không thể để một mình ông ta chiếm hết được, hôm nay để tôi cho
các đồng chí chiêm ngưỡng thủ đoạn của Mô Kim hiệu úy. Nói đoạn, tôi xác nhận lại
với giáo sư Tôn, câu nói của trung đoàn trưởng Phong có chính xác là “Điểu đạo
tung hoành, trăm bước chín hồi” hay không?

Giáo sư Tôn lập tức lấy danh dự ra thề, lão ta đã
không ngừng nhẩm đọc đoạn ám ngữ này trong đầu suốt mười mấy năm rồi, khẳng định
không thể nào sai được.

Tôi ngầm gật đầu, trong lòng sớm đã có biện pháp, từ
chìa khóa của câu “Điểu đạo tung hoành, trăm bước chín hồi” này hẳn là “chín.”
Nhìn điểu đạo trên vách đá dựng đúng phía đối diện vừa khéo giống với thế “quần
long triền sơn,” dù di tích cổ trong hẻm núi này là do ai để lại thì cũng tuyệt
đối không phải tùy tiện tạo thành, có lẽ người khác khó lòng nhìn ra được huyền
cơ bên trong, nhưng kiểu bố cục “chiêm tinh tượng, suy quẻ tượng” này lại chính
là sở trường mũi nhọn của bí thuật Mô Kim.

Những mộ táng thời cổ nói chung, dù cục bộ hay chính
thể, cũng đều phải hợp lại với số “chín (cửu)” ý là “cửu tồn, trường cửu.”“Tầm
long quyết” trong Thập lục tự âm dương Phong thủy bí thuật có viết rằng: “Quần
long quấn núi chia chín khúc, khúc khúc đều là chín vòng tròn; chín vòng bên
ngoài lặp cửu chuyển, cửu chuyển cửu trùng cuốn lầu rồng; chín chín lượn vòng
quy về nhất, ba ba hai hai nhập linh sơn...”

Tuyền béo ngạc nhiên nói: “Tư lệnh Nhất tính toán
cũng khá lắm, cả chín chín tám mươi mốt mà cũng biết cơ đấy, nhưng mà cậu chín
nọ chín kia nãy giờ, tôi nghe mãi vẫn chẳng hiểu nổi rốt cuộc chúng ta nên đi
phía bên nào?”

Tôi giải thích: “Tôi bảo chín chín tám mốt bao giờ?
Còn có cả chín ba hai mươi bảy nữa cơ. Cái này gọi là ‘Tầm long nhập thể quyết,’
lẽ ảo diệu của Cửu cung Bát quái đều nằm cả ở trong đó đấy, nếu ngay cả loại
người thô tục như cậu nghe cũng hiểu thì thà tôi xé cha nó quyển sách gia truyền
ném xuống sông cho rồi. Mọi người để ý điểu đạo trên vách núi kia chằng chịt
như mạng nhện, kì thực chỉ có một con đường là thật thôi, chỉ như cần leo lên từ
con đường thứ mười ở dưới đấy, cứ ba giao lộ lại rẽ một lần, sau hai lần rẽ thì
cách ba giao lộ lại rẽ tiếp, đi xuống không đi lên, đi trái không đi phải, cứ vậy
lặp đi lặp lại chín lần, trông thấy cửa hang mới được vào, đó hẳn chính là lối
vào mộ đạo lăng mộÔ Dương Vương đấy.”

Giáo sư Tôn càng lấy làm lạ. Theo thói quen trong
công việc, chuyện gì lão ta cũng thích tìm hiểu đến đầu đến đũa, bèn hỏi tôi: “Năm
xưa Gia Cát Lượng dùng Bát Môn trận đồ suýt nữa bao vây giết được đại tướng Lục
Tốn của Đông Ngô, hình như trong đó cũng vận dụng nguyên lí Ngũ hành sinh khắc,
nhưng đây là thứ đã thất truyền bao nhiêu năm nay, sao cậu lại biết được? Nghe
lão Trần bảo, những ngón nghề này đều do trưởng bối trong nhà truyền cho hả? Bề
trên nhà cậu rốt cuộc làm gì vậy?”

Tôi đưa mắt nhìn Shirley Dương, thầm nhủ ông ngoại
Shirley Dương là thủ lĩnh Ban Sơn, danh tiếng lừng lẫy nhường nào? Ông nội cô
cũng xuất thân dòng dõi thi thư, đem ra khoe với ai cũng được, ngay như ông
nuôi của Út, cũng là bậc nguyên lão Phong Oa sơn. Thế mà sao ông nội của Hồ Bát
Nhất này lại đi bày sạp xem bói tuyên truyền mê tín dị đoan chứ? Giác ngộ thấp
quá, nói ra cũng thấy ngại ngần. Nghĩ vậy, tôi thấp giọng thì thầm vào tai giáo
sư Tôn: “Ông nội tôi năm xưa là tay lang bạt đi khắp núi non sông hồ, danh lừng
thiên hạ, tham gia cách mạng cũng khá sớm, nhưng là tham gia Cách mạng Tân Hợi
thôi. Trên giang hồ, người ta gọi nghề của ông là Kim Điểm, những ngón nghề này
của tôi đều là gia truyền, tiếc rằng chỉ học được võ vẽ, để ông phải chê cười rồi.”

Giáo sư Tôn dọc đường đã hỏi thăm ở chỗ Shirley
Dương khá nhiều ám ngữ của giới giang hồ, nghe vậy dường như cũng hiểu được gì
đó, gật đầu tấm tắc: “Chẳng trách chẳng trách, nếu không phải xuất thân từ thế
gia chốn lục lâm, thì cũng không thể có kì tài bậc này.”

Tôi sợ Tôn Cửu gia lại hỏi tiếp, vội dẫn đầu tìm một
con đường có thể đi xuống. Giữa hai vách núi dựng đứng tưởng chừng kéo dài vô tận
ấy, có mấy cây cầu gỗ dùng xích sắt nối liền, đi bên trên người cứ lắc lư theo
cầu, dưới chân là dòng nước xiết cuồn cuộn chảy, không khỏi kinh hồn bạt vía,
nhưng đã đến đây thì cũng khó lòng quay đầu lại được, cả bọn đành đánh liều đi
sang phía bên kia.

Trong khe núi chợt nổi mây mù rồi mưa bụi lất phất,
trong màn mưa, cảnh vật xung quanh trở nên mơ hồ, mờ mịt, cũng may từ đầu chúng
tôi đã xác định tuyến đường, tìm được lối lên đoạn điểu đạo lưng chừng vách
núi, cứ dựa theo khẩu quyết “Tầm long nhập thế” mà đi lên. Đoạn đường này lầy lội
vì mưa, cực kì hiểm trở, bước bên trên như thể đang bước trên lưỡi dao cao,
trăm bước chín vòng, người đi phía sau, có thể thấy hai chân người đi trước ở
ngay trên đầu mình.

Tôi thầm nhẩm lại “Tầm long quyết” trong đầu, đi
trên con đường ngoằn ngoèo hiểm trở khảm vào vách đá dựng đứng, lại sợ đi sai
đường, chốc chốc phải phân tâm quan sát. Tục ngữ có câu “lên núi thì dễ xuống
núi khó,” đi lên trên thì nhìn thấy đường trước mặt, ngay cả kẻ sợ độ cao như
Tuyền béo cũng kiên trì được, nhưng nếu phải đi xuống dưới, cảnh tượng trước mặt
chỉ là sương mù mờ mịt và khe núi sâu thẳm khiến người ta kinh hồn táng đởm, hễ
bất cẩn một chút, sẩy chân rơi xuống thì chết mất xác là cái chắc.

Khó khăn lắm mới đi đến tận cùng của “điểu đạo trăm
bước chín hồi,” trên vách núi xuất hiện một đường hầm sâu hun hút. Tôi leo vào
trước tiên, rồi vươn tay ra lần lượn đón bốn người còn lại, bấy giờ mới quan
sát kĩ tình hình trong hang. Nơi này sương mù dày đặc, hít thở cũng khó khăn, tầng
nham thạch vẫn còn dấu tích của đá mẹ, khác hẳn đường hầm trong phòng không
Thanh Khê, hẳn là một đường hầm cổ xưa, không rõ thông đến nơi nào.

Tôi không dám chắc con đường này có chính xác hay
không nữa, cũng có thể vừa nãy trên vách đá đã rẽ nhầm lối không chừng, trong
lòng không khỏi có chút hoang mang, vừa nghĩ vừa giơ đèn pin mắt sói lên đi mấy
bước vào trong, chợt thấy bên cạnh có một tấm bia mộ, trước bia một có một cái
xác đang ngồi xếp bằng, mặt mũi y phục đều đã phong hóa, hầu hết da thịt cũng
đã tiêu tan, chẳng rõ chết được bao lâu rồi. Tôi vội gọi Tôn Cửu gia ở phía sau
bước lên, để lão ta xem đây có phải di thể của trung đoàn trưởng Phong hay
không.

Tôn Cửu gia thấy cái xác khô, tâm tình lập tức trở
nên kích động, run run đeo khẩu trang và găng tay vào, nâng đầu người chết lên
quan sát kĩ lưỡng, đoạn nói: “Không giống... không giống..., tôi nhớ trước khi
bỏ trốn, trung đoàn trưởng Phong từng bị người ta đánh gãy mấy cái răng ở mỏ
khai thác đá, mà cái xác này vẫn còn đầy đủ cả hàm răng, hẳn không phải lão
Phong đâu. Nhưng người này là ai chứ? Không đúng... các cậu mau xem xem, đây là
gì vậy?

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3