Ma thổi đèn (Tập 8) - Chương 08

CHƯƠNG
8: HẦM PHÒNG KHÔNG THANH KHÊ

Vào khoảnh khắc sấm nổ chớp lóe đó, chúng tôi trông
thấy bên trong tòa lầu trơ trọi của khu nhà họ Phong bày đầy những con thú đá
hình thù quái dị, trong lòng liền rất nghi hoặc. Tôi bước lên trước, giơ đèn
pin mắt sói lên soi thử một con, chỉ thấy con thú đá ấy diện mạo hung ác dữ tợn,
hình dáng tròn tròn, cũng có mấy phần tương tự con sư tử đá trước cổng nhưng lại
không có khí chất uy vũ mà chỉ khiến người ta cảm thấy tà ác đáng sợ. Tôi chưa
từng trông thấy con sư tử đá nào như vậy, sao nó có thế xấu xí hung tợn thế được?

Shirley Dương nói: “Những con thú đá này không giống
sư tử trấn trạch, mà trông như tượng đá giữ mộ ở khu vực lăng mộ hơn.”

Tôn Cửu gia cũng đeo kính lão lên nhìn một lúc lâu: “Chắc
chắn không phải sư tử đá, lông bờm trông như kiếm, hai tai đặc biệt to, lỗ mũi
hếch lên trời, theo tôi thấy... đây là ô dương, muốn đến Địa Tiên, hãy tìm ô
dương; ô dương, ô quỷ đều là lợn mà. Tôi nghĩ mãi không hiểu mộ cổ Địa Tiên này
có liên quan gì đến ô dương, còn định ra lò mổ hỏi thăm, thì ra trên đời này lại
có thứ tượng đá Ô dương thế này.

Út là người bản địa, nhưng cô chưa từng thấy những
thứ này, tôi đành hỏi Tôn Cửu gia: “Thú đá ô dương là totem cổ hay là tượng đá
trấn lăng?” Giáo sư Tôn đáp: “Không đoán được, hình dạng ô dương đã bị quỷ quái
hóa đi rồi, phong cách rất kì dị, tôi chưa từng thấy khu lăng mộ nào trấn lăng
bằng vật này, cũng không giống như totem của thần đạo.” Nói xong, lão ta liền
móc quyển sổ ghi chép ra viết viết vẽ vẽ, miêu tả lại từng chi tiết nhỏ của thú
đá để làm tư liệu tham khảo quan trọng cho việc tìm kiếm mộ cổ Địa Tiên.

Tôi nghĩ mãi không ra tại sao tượng thú đá ô dương lại
được bày trong nhà họ Phong, trấn Thanh Khê này đã trải qua mấy phen biến thiên
dời đổi, khiến người ta chẳng biết căn cứ vào đâu để suy đoán nữa, nếu đã không
có đầu mối, tốt nhất là đừng tốn sức suy nghĩ đoán bừa đoán bậy làm gì. Để tiết
kiệm pin, tôi và Tuyền béo thắp mấy ngọn nến chiếu sáng, tìm chỗ khô ráo trong
nhà bắc gạch làm bếp, nấu ít nước nóng để mọi người ăn chút gì rồi đi nghỉ, xem
địa thế cổ trấn này tương đối phức tạp, ngày mai thế nào cũng phải bận rộn một
phen.

Tôi lại đi quanh trong nhà một lượt, xem hết từng
căn phòng, thấy trong một phòng ở tầng hai có bàn gỗ ghế gỗ, đều là những món nội
thất đơn giản thời cận đại, trên bàn, trên tường treo rất nhiều bản vẽ, nhìn kĩ
mới thấy đều là bản vẽ kết cấu đường hầm mỏ muối khoáng, còn ghi chú rõ ràng về
tiến độ công trình. Tôi hồi trước làm lính công binh, biết xem bản vẽ, vừa nhìn
thấy những thứ này liền sực hiểu ra ngay. Thì ra, hồi xây dựng hầm phòng không ở
khu vực trấn Thanh Khê này, nhà họ Phong chính là bộ chỉ huy thi công, về sau
tình hình quốc tế thay đổi, công trình bị đình chỉ và vô hiệu hóa, lúc rời đi,
những bản vẽ này cũng bị bỏ lại nơi đây.

Còn trên mình những tượng thú đá ô dương kia, ngoài
một lớp bụi dày, còn có dấu vết bùn đất, rõ ràng là chưa từng được cọ rửa, chắc
hẳn đội ngũ thi công đào được chúng dưới lòng đất, chưa kịp xử lí thì công
trình đã bị đình chỉ, nên bỏ lại sở chỉ huy này.

Nói không chừng, khu vực đào được tượng thú đá ô
dương cách mộ cổ Địa Tiên không xa, tôi vội vàng cuộn hết bản vẽ mang xuống tầng
dưới, nói cho cả bọn phát hiện mới này. Bấy giờ Tuyền béo đã nấu xong món mì ống
trong túi chân không chúng tôi mang theo, mọi người đều đói ngấu, liền vừa ăn vừa
nghiên cứu bản vẽ hầm phòng không.

Út hỏi Tuyền béo đây là thức ăn kiểu gì vậy? Nhão
nhoen nhoét, thật là khó ăn. Tuyền béo nói: “Đây là hàng Mỹ đấy em gái, nhưng
cái mùi vị này... đúng là hơi tệ thật, không phải do anh béo của em kém tài
đâu, chủ yếu là tại cái thứ mì ống Mỹ này đây, nghe nói nếu người Mỹ nào muốn tự
sát từ từ, thì cứ ngày ngày xơi cái thứ này.”

Tôi thì mặc xác mùi vị thế nào, chỉ cần nhét no cái
bụng là được, và vội mấy miếng, nhanh chóng giải quyết xong xuôi phần của mình.
Nhìn đồng hồ, thấy mới tầm chín giờ tối, tuy hơi mệt mỏi, nhưng tôi vẫn gắng vực
dậy tinh thần, xem xét từng bản vẽ một, để riêng những bản có thể dùng đến ra một
chỗ, quyết định ngày mai đi xuống hầm phòng không thăm dò trước.

Shirley Dương hỏi tôi có kế hoạch gì không? Tôi liền
trải bản vẽ ra, chỉ vào những kí hiệu trên đó, nói cho cô biết ý tưởng hình
thành trong đầu mình: “Hầm phòng không Thanh Khê là sản phẩm lịch sử của thời kì
đào hầm tích trữ lương thực, anh đoán thời đó người ta xây dựng hầm phòng không
quy mô lớn ở đây, hẳn là vì nơi này có nhiều giếng khai thác muối khoáng dưới
lòng đất, nhìn trên bản đồ cũng đủ thấy điều ấy, đơn vị thi công cải tạo gia cố,
đồng thời nối liền những hang động nửa thiên nhiên nửa nhân tạo này lại, khiến
chúng trở chành một hệ thống công trình thời chiến ngang dọc chằng chịt. Có điều
trên bản vẽ cũng đánh dấu nhiều chỗ đã bị sụt lún ngập nước, công trình tiến
triến rất không thuận lợi.”

Tôi dùng phép loại trừ, đánh dấu mấy khu vực không
thể đào được di chỉ cổ. Núi non xung quanh cổ trấn Thanh Khê đều đã bị đào rỗng,
những nơi như đường hầm giếng muối và hầm phòng không, bao gồm cả lòng đất bên
dưới cổ trấn này cũng rỗng không, không thể có mộ cổ Địa Tiên được, vì vậy có lẽ
cần tập trung vào “khu vực chân không.”

Shirley Dương là người tinh ý, lập tức hiểu ra ý
tôi, gật đầu nói: “Rất có lí, khu vực chân không, chẳng phải còn được gọi là
vùng mù của mạch khoáng sao? Vị trí đào được tượng thú đá ô dương, nhất định là
ở khu vực đường hầm công trình lệch với đường hầm mỏ khoáng.”

Tôi nói, đúng vậy, trước khi khởi công xây dựng hầm
phòng không chuẩn bị cho chiến tranh, chắc chắn người ta đã phải khảo sát kĩ lưỡng
địa hình núi non sông ngòi ở các khu vực lân cận, đỡ rất nhiều công sức cho
chúng ta. Đồng thời, ta cũng đã biết được gợi ý rất quan trọng: “Muốn đến Địa
Tiên, hãy tìm ô dương,” vậy thì mục tiêu hàng đầu, đương nhiên chính là địa điểm
có khả năng đào thấy tượng thú đá ô dương này nhất. Tất cả hầm mỏ ở đây đều được
đào men theo mạch khoáng muối Vu, vì vậy cực kì lộn xộn, không theo quy tắc nào
cả.

Phân tích trên bản vẽ, thì chỉ có đoạn phía Tây của
hầm phòng không Thanh Khê là được xây mới do nhu cầu sử dụng, hoàn toàn không lợi
dụng các đường hầm khai thác muối khoáng có sẵn, vả lại, dựa theo các tiêu chuẩn
trên bản vẽ, có thể thấy đường hầm phía Tây này vẫn chưa hoàn tất thi công. Điều
này chứng tỏ công trình ở khu vực này vẫn được tiến hành đến phút cuối cùng.
Còn tình hình thực tế và bước tiếp theo hành động thế nào, chúng ta phải đến thực
địa xem xét rồi mới nắm chắc được.

Shirley Dương lại tự tin thêm một phần: “Không sợ đầu
mối rối như tơ vò, chỉ sợ không có manh mối nào thôi. Nếu đã tìm được một số đầu
dây mối nhợ rồi, chúng ta cứ lần theo đó mà tiến, cuối cùng thế nào cũng tìm được
mộ cổ Địa Tiên.”

Giáo sư Tôn ở bên cạnh nghe chúng tôi nói chuyện hồi
lâu, gật đầu tán đồng: “Cậu Nhất đúng là lính chiến dạn dày kinh nghiệm, vừa đến
Thanh Khê đã nắm bắt được trọng điểm công tác rồi. Năm đó, trung đoàn trưởng
Phong bị đày ải ở nông trường cải tạo lao động với tôi cũng là kẻ chinh chiến
nhiều năm, đại khái chắc vì đánh trận giỏi quá, nên được thủ trưởng trong quân
đội nuông chiều quen thói, chẳng chịu để ai quản chế cả. Người đó rất vênh váo,
cũng rất ngạo mạn, ông ta bảo hồi trước đánh trận ở Triều Tiên, ngày nào cũng
ngói xe Jeep cướp được của quân Mỹ, ăn đồ hộp Mỹ, có bận máy bay Mỹ vù qua trước
hiên, bom nổ ngay trước mặt mà cũng không làm tổn thương ông ta được cọng tóc
nào. Loại người ấy sao có thể ngoan ngoãn ở mỏ đá chịu khổ chứ? Vì vậy ông ta mới
quyết tâm trốn về quê cũ. Hồi trước, tôi luôn nghĩ ông ta không thể sống sót chạy
về đến đây, nhưng giờ nghĩ lại, những người đã thực sự được tôi luyện trong chiến
trận như cậu với ông ta, đích thực có chỗ hơn người, cũng không biết trung đoàn
trưởng Phong ấy...” Nói tới đây, lão ôm đầy một bụng u uất, chìm vào trầm ngâm
suy nghĩ.

Tôi khuyên Tôn Cửu gia đừng nghĩ ngợi nhiều, có người
nghi ngờ ông giết chết vị trung đoàn trưởng Phong đã mất tích nhiều năm sau khi
bỏ trốn, nhưng đấy là chuyện chết không đối chứng, mà thực ra cũng chỉ bọn tiểu
nhân muốn hãm hại ông mới suy đoán như vậy thôi. Bọn họ chưa từng nghĩ, với bản
lĩnh của Tôn Cửu gia ông đây, cho dù ngấm ngầm ra tay sợ rằng cũng chẳng thể
làm gì nổi vị trung đoàn trưởng họ Phong kia. Người ta là sĩ quan chỉ huy cấp
quân đoàn của Chí Nguyện quân từng đánh trận với quân đội Mỹ chứ có phải đùa
đâu, vậy nên tổ chức không định tội ông cũng có cái lí của họ. Chuyện này người
có đầu óc một chút đều hiểu được, chẳng qua không chính thức đứng ra thanh minh
cho ông mà thôi.

Tôi nghĩ hồi đó chỉ cần trung đoàn trưởng Phong chạy
về được đến đây, quá nửa là đã trốn vào mộ cổ Địa Tiên rồi, dù hiện giờ ông ta
sống hay chết, cũng sẽ bị chúng ta tìm thấy. Vụ án oan của ông đến lúc đó sẽ có
lời giải đáp.

Đã có kế hoạch hành động sơ bộ, cũng không còn băn
khoăn điều gì nữa, chúng tôi cắt lượt canh đêm, rồi lần lượt chìm vào giấc ngủ
trong tiếng mưa rào rào bên ngoài, cả đêm không nói chuyện gì. Sáng sớm hôm sau
vẫn còn mưa phùn lất phất, khắp nơi khắp chốn trong thị trấn Thanh Khê đều là hố,
rãnh nước, lại thêm đường núi sau mưa lầy lội không thể đi được, chúng tôi đành
quyết định đi xuống địa đạo ở sân sau, tiến về phía mé Tây của hầm phòng không.

Nghe nói, đường hầm này vốn là địa đạo ngầm, vì trước
Giải phóng, người ở trong khu nhà họ Phong không phải địa chủ thì cũng là chủ hầm
mỏ, tình hình xã hội bất ổn, quân phiệt thổ phỉ hoành hành, chủ mỏ muối lại
toàn cự phú nhiều vàng lắm bạc, vả lại người nào người nấy hai tay đều nhuốm đầy
máu tươi của phu mỏ, để đề phòng bất trắc, ngoài việc ngấm ngầm nuôi dưỡng một
đám “tử sĩ” làm gia đinh trông nhà giữ cửa, còn đặc biệt xây dựng đường hầm bí
mật, phòng khi cấp bách có thể nhanh chóng đào thoát.

Có điều, các đường hầm bí mật thời đó dường như đều
bị phá hoại lúc thi công công trình, lối vào bí mật lộ ra ngoài, bên trong cũng
trở thành một phần của hệ thống hầm phòng không quy mô lớn. Cái gọi là hầm
phòng không này, không phải chỉ để dân chúng ẩn nấp khi có ném bom, mà ở mức độ
thấp nhất cũng có tác dụng “ba phòng.” Thời đó chủ nghĩa đế quốc vẫn chưa từ bỏ
tham vọng xâm chiếm Trung Quốc, hơi tí là rêu rao phải tiến hành “ném bom chiến
lược phẫu thuật ngoại khoa” cho Trung Quốc. Với mục tiêu phòng ngự tích cực,
toàn quốc mới tiến hành “đào hầm sâu, trữ lương thực” trên diện rộng, tác dụng
lớn của loại công trình ngầm này chính là có thể cất giấu một lượng lớn các vật
tư thiết bị chuẩn bị cho chiến tranh, từ đạn dược, máy bay cho đến lương thực,
quần áo đều có thể cất chứa trong này, việc thiết kế xây dựng hoàn toàn dựa
theo yêu cầu thời chiến, quy mô không nhỏ.

Khu vực bên dưới cổ trấn Thanh Khê này đều là những
kho hàng trấn hình vòm cung nối liền với nhau, được cải tạo lại từ các giếng muối
hồi xưa, tường xi măng màu xám nhạt đem đến cho người ta cảm giác cực kì u ám lạnh
lẽo. Những chỗ xi măng tróc lở, còn có thể nhìn thấy tầng nham thạch bên trong,
tình trạng ngấm nước trong phạm vi cục bộ hết sức nghiêm trọng.

Mặc dù trong đường hầm cứ mười mấy mét lại có một ngọn
đèn chiếu sáng, nhưng đường điện đã bị ẩm, thiết bị phát điện thô sơ cũng đã bị
phá hoại từ lâu, không thể sử dụng được nữa, chúng tôi đành dùng đèn pin mắt
sói soi đường. Dựa vào bản đồ và la bàn để tham chiếu dò đường, thông đạo dưới
lòng đất này cũng không khó đi lắm, vả lại những chỗ đường hầm giao cắt nhau
còn có chỉ dẫn rõ ràng.

Men theo đường hầm đi về phía Tây, trong hầm phòng
không mỗi lúc một thêm ẩm thấp, được nửa đường thì gặp đoạn hầm sụt lún, không
thể tiến lên theo tuyến đường đã định ban đầu được nữa. Tôi lấy bản vẽ ra xem,
thấy chỉ có thể đi vòng theo lối rẽ ở mé bên, liền vòng lại chỗ ngã tư gần nhất,
nhìn lại kí hiệu trên bản vẽ, nếu đi theo con đường phía bên trái sẽ là một hầm
mỏ nguyên thủy, ra khỏi phạm vi của hầm phòng không, ở lối vào có hàng rào sắt,
bên trên treo một tầm bảng gỗ.

Tôi giơ đèn pin lên soi, thấy trên bảng gỗ hình như
có chữ viết nhưng đã bị bùn đất che khuất. Tuyền béo bước lên lấy tay quệt quệt,
hàng chữ màu đỏ tức khắc hiện ra, cậu ta đọc to lên: “Phía trước sạt lở - Nguy
hiểm. Nhất này, xem chừng hầm mỏ bên này có nguy cơ sạt lở, chắc chắn không dễ
đi đâu, chúng ta vòng theo lối bên phải thì hơn.”

Shirley Dương giơ đèn pin chiếu vào đường hầm mé bên
phải: “Trên tường phía bên phải này cũng có chữ, dám đấu tranh, dám thắng lợi...
thế là ý gì vậy?”

Tôi ngẩng đầu lên nhìn hàng biểu ngữ kẻ trên tường
xi măng phía mé phải, thật là vô cùng quen thuộc, bèn cười cười nói: “Chắc chắn
em không hiểu được đâu, cái này gọi là chỉ thị tối cao. Trên bản đồ có đánh dấu
lối đi bên phải này là thông đạo dự phòng, tương đối chật hẹp thô sơ nhưng đã
hoàn công, các đồng chí, chúng ta đến đây rồi thì không còn lựa chọn nữa, đành
phải đi theo bên có biểu ngữ này thôi.”

Tuyền béo nói: “Được rồi, nghe theo chỉ thị tối cao
của tư lệnh Nhất là không sai đâu, đi thôi...” Nói xong liền nghênh ngang đi
vào trước. Tôi lo Tuyền béo đi nhanh quá bị lạc đội ngũ, vội thúc giục ba người
còn lại rảo bước theo sau cậu ta. Đường hầm ở mé Tây bị ngấm nước còn nghiêm trọng
hơn cũng có thể là do trận mưa lớn đêm qua, hai bên tuy có đường ống thoát nước
nhưng nước vẫn ngập hết bàn chân, bên dưới tường xi măng mọc đầy những rêu.

Ốc sên trắng phớ bò kín chân tường xanh đen, trông rất
nổi bật, càng đi sâu vào trong ốc sên càng nhiều, có con còn sống, có con chết
rồi để lại vỏ, bước một bước lại nghe tiếng vỏ ốc vỡ lạo xạo.

Út mặc dù gan dạ, nhưng giẫm lên một đám ốc sên chết
thối rữa nhoen nhoét cũng không khỏi cảm thấy tởm lợm: “Hồi trước làm gì có nhiều
ốc sên thế này? Chả hiểu bọn chúng ở đâu chui ra nữa?”

Tôi ngoảnh đầu lại bảo cô: “Nơi này ngấm nước quá
nhiều, rêu mọc dày, thành thử mới kéo bọn ốc sên đến, em chỉ cần đừng nghĩ đến
chúng nó thì sẽ không thấy ghê tởm nữa, theo sát anh nào, chớ để lạc đội ngũ...”
Tôi còn chưa dặn dò xong, đã nghe đằng trước có người “ối cha” một tiếng ngã
lăn ra đất. Thì ra Tôn Cửu gia bị lũ ốc sên nhầy nhụa dưới đất làm trượt chân
ngã chổng vó lên trời, hai tay cũng bị vỏ ốc vỡ đâm toạc cả máu.

Tôi vội vàng đưa tay đỡ lão ta dậy, thấy không bị
thương gân cốt mới yên tâm phần nào. Trong đường hầm ẩm ướt chật hẹp này không
thể dừng chân nghỉ ngơi, đành bảo lão ta cố nghiến răng chịu đựng, cũng may Tôn
Cửu gia từng phải chịu tội chịu khổ, ngã bầm tím mình mẩy cũng không để tâm lắm,
chỉ xuýt xoa một chút rồi lại đi tiếp được.

Tôi thấy trong đội ngũ có già có trẻ, nếu ngã gãy
tay gãy chân thì không phải chuyện đùa, liền bảo Út và Shirley Dương đỡ giáo sư
Tôn đang khập khà khập khiễng, còn tôi và Tuyền béo đi phía trước, vừa đi vừa
dùng xẻng công binh xúc từng đống từng đống ốc sên dưới đất, dẹp đường cho bọn
họ.

Cứ đi như vậy một lúc, cuối cùng chúng tôi cũng qua
hết đoạn đường hầm lổn nhổn toàn ốc sên ấy, đẩy cánh cửa sắt ra, bên trong rộng
rãi thông thoáng hẳn, phía trên có những lỗ thủng để ánh sáng từ bên ngoài núi
rọi vào, mưa đã tạnh, một luồng không khí mát lạnh trong lành ùa vào mặt, cả bọn
ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm. Đây là khu vực tiếp nối cuối đường hầm dự phòng,
chỉ chốc lát nữa thôi là có thể đến được mé Tây của hệ thống hầm phòng không.
Khu vực này chạy xuyên vào lòng núi, hồi trước toàn giếng khai thác muối, nhưng
giờ bên trong đã được cải tạo thành bê tông cốt thép cả rồi.

Tôi thấy Tôn Cửu gia đau đến nỗi nghiến răng kèn kẹt,
hai tay máu me đầm đìa, liền bảo cả bọn nghỉ ngơi một lát, băng bó vết thương
trên tay lão rồi đi tiếp.

Giáo sư Tôn cởi ba lô, tìm một chỗ khô ráo ngồi xuống.
Shirley Dương lấy túi cứu thương ra rửa vết thương cho ông ta, chỉ nghe giáo sư
Tôn thở dài nói: “Không chịu già cũng không được, nếu là mười năm trước, ngã một
cú thế này có đáng gì đâu chứ? Nhớ năm xưa ở nông trường cải tạo Quả Viên Câu..”

Tôi ngồi xuống, thấy Tôn Cửu gia lại giở giọng già cả
ra, chuyện lớn làm không nổi chuyện nhỏ làm chẳng xong, đang định giễu cợt mấy
câu, ngước mắt nhìn lên bỗng thấy phía sau ông ta và Shirley Dương có một bóng
người, cái bóng đen ấy ngói chồm hỗm dưới đất, đang len lén vươn tay nhón lấy
con ốc sên dính trên lưng giáo sư Tôn, bắt được con nào liền bỏ vào miệng ăn
con ấy. Bóng đen đó hết sức lặng lẽ, Shirley Dương và giáo sư Tôn đều không
phát giác.

Tôi giật bắn mình, vội kéo Út ra sau lưng, kêu một
tiếng “có chuyện,” rồi lập tức bật dậy, lăm lăm xẻng công binh trong tay. Tuyền
béo phản ứng cũng cực nhanh, giơ nỏ liên châu lên bắn luôn. Hai mũi tên ngắn có
thể xuyên cả giáp sắt ấy như hai con châu chấu “vù” một tiếng lướt qua giữa
giáo sư Tôn và shirley Dương, sượt qua bóng đen kia ghim vào tường xi măng.

Bóng đen trong góc tựa như quỷ mị, sau phút kinh hãi
liền lách người bỏ trốn, thân hình nhanh đến khó bề tưởng tượng. Tuyền béo đang
định dùng nỏ liên châu bắn nữa, chợt nghe giáo sư Tôn thất thanh kêu lên: “Đừng
bắn!” Kế đó, lảo ta lại hô vang: “Lão Phong... ông đừng chạy, chúng tôi không đến
bắt ông đâu... Cách mạng Văn hóa kết thúc rồi mà...”

Tiếng gọi của giáo sư Tôn không ngừng vọng đi vọng lại
trong hầm phòng không trống trải, nhưng đáp lại lão ta không phải tiếng người,
mà là tiếng còi hụ cảnh báo có máy bay tập kích thê lương khôn tả vảng ra từ
sâu bên trong.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3