Ma thổi đèn (Tập 8) - Chương 01

CHƯƠNG
1: MỘ CỔ ĐỊA TIÊN

Tương truyền, các thứ kì trân dị bảo cất giấu trong
mộ cổ có nhiều món là “vật chưa định danh,” cũng chính là các loại báu vật bí
khí thời cổ không rõ lai lịch, không được ghi chép lại trong sử sách. Những thứ
này vốn không nên xuất hiện ở cõi người, một khi lọt vào dân gian, để kẻ phàm
phu tục tử trông thấy, sao không động lòng tham cho đành? Dù không chịu bán đi
kiếm lợi, thì ắt cũng muốn mượn cơ hội ấy mà giành lấy chút hư danh, đủ thấy,
hai chữ “danh lợi” quả thực hại người không vừa.

Tôi xuống vùng Nam Dương, vớt được tấm gương cổ bằng
đồng xanh trong hải nhãn, chính là tấm gương “Chu Thiên quẻ kính” hiếm thấy
trên đời, vốn tưởng rằng giáo sư Trần sẽ giao nộp nó cho nhà nước bảo tồn,
nhưng thật không ngờ, cuối cùng lại bị giáo sư Tôn xưa nay vẫn một lòng âm thầm
muốn làm nên thành tựu lớn lao lừa cuỗm mất. Nếu không phải tôi nhặt được cuốn
sổ ghi chép công việc của lão trong viện bảo tàng, e rằng đến giờ cả bọn vẫn
còn bị lão ta qua mặt.

Tôi và Shirley Dương, Tuyền béo lập tức mang theo cuốn
sổ ghi chép tìm đến tận nhà lão ta hỏi tội. Giáo Sư Tôn bị chúng tôi nắm thóp,
khổ sở cầu xin chúng tôi đừng tố cáo việc lão ta tự ý cất giấu văn vật âm thầm
nghiên cứu tại nhà riêng. Việc này không phải chuyện vừa, lão ta vốn đã đắc tội
với khá nhiều người, lỡ như lại bị lãnh đạo cấp trên hay đồng nghiệp nào biết
được, nhất định sẽ biến thành tội tày đình, đẩy lão đến bước thân bại danh liệt.

Tuy rất bực chuyện lão ta giấu nhẹm tấm gương cổ đi,
song tôi không muốn lột mặt nạ giáo sư Tôn khiến lão ta không xuống thang được,
nên cũng chỉ tới điểm là dừng. Tôi bảo giáo sư Tôn, nếu lão đã biết hối lỗi,
bây giờ chỉ cần làm theo lời chúng tôi, chính sách của chúng ta là không trách
chuyện xưa, về sau chúng tôi coi như không biết vụ này là được.

Điều kiện của tôi và Tuyền béo, một là bắt Tôn Học
Vũ viết kiểm điểm, giờ tuy không còn mốt “mạnh mẽ phê đấu tư tâm từ trong trứng
nước” nữa, nhưng đem sai lầm viết ra thành văn bản vẫn là điều rất cần thiết.
Chẳng may lão già này về sau không chịu nhận tội thì cứ lấy bản kiểm điểm giấy
trắng mực đen đã điểm chỉ dấu tay ra, là có thể đưa lão đến các cơ quan hữu
quan xử lí. Nội dung hoàn toàn dựa theo ý của tôi, tôi đọc một câu, lão ta viết
một cầu, tiếng là “bản kiểm điểm” nhưng thực chất lại là “khẩu cung.”

Sau đó còn phải đưa gương cổ, bùa cổ hoàn trả lại
cho giáo sư Trần, nói gì thì nói, công lao hiến báu vật lên nhà nước cũng không
đến lượt giáo sư Tôn được hưởng. Nhưng chuyện này để sau hẵng nói, trước mắt
chúng tôi còn phải mượn mấy vật này dùng tạm, bắt giáo sư Tôn dẫn chúng tôi đi
tìm mộ cổ ở thôn Địa Tiên bên trong có cất giấu Đơn đỉnh thiên thư trước đã.

Mặc dù vị Địa Tiên thời nhà Minh tinh thông yêu thuật
Quan sơn chỉ mê ấy đã giấu mộ phần của mình rất kĩ, nhưng nếu dùng phép “Vấn”
trong tứ quyết cổ xưa của nghề trộm mộ, lại vận dụng tấm gương đồng có hải khí
ngưng tụ không tan kia, thì cũng có vài phần cơ hội suy đoán ra khí mạch phong
thủy của thôn Địa Tiên, sau đó đám Mô Kim hiệu úy bọn tôi có thể tiến vào đổ đấu,
lấy thi đơn nghìn năm về. Còn việc trong mộ cổ thôn Địa Tiên có thi đơn được
ghi chép trong dã sử hay không tạm thời không thể xác định. Nhưng nếu đã biết
được thông tin này, vì tính mạng của Đa Linh, chúng tôi không thể nào xem như
không có được.

Giáo sư Tôn nghe thấy yêu cầu này, liền lắc đầu quầy
quậy, nói chuyện này còn khó hơn lên trời. Nến mỡ người, gương đông cổ giờ đều
đã ở trong tay. Cây nến mỡ người kia, chính là của đội trục vớt mang từ hải
nhãn về, không phải loại nấu bằng mỡ người thật, mà chế từ mỡ của giao nhân vảy
đen ở Nam Hải, nhưng cũng cháy mãi không tàn, gió thổi không tắt, hoàn toàn có
thể dùng để thay thế.

Quẻ phù một rồng một cá bằng đồng xanh cũng có rồi,
hai quẻ phù này có thể suy diễn ra một nửa quẻ tượng, song không biết bên trong
chúng chứa đựng huyền cơ gì, nếu không giải được ám thị của Vô Nhãn đồng phù,
thì không thể nào sử dụng được. Ngoài ra, mấu chốt nhất vẫn là thời gian có hạn,
tấm gương cổ này không còn giữ được bao lâu nữa.

Từ lúc đến nhà giáo sư Tôn, Shirley Dương vẫn chưa
nói tiếng nào, lúc này nghe vậy lấy làm kì quái, không kìm được bèn hỏi: “Nói vậy
là sao? Tại sao lại nói tấm gương cổ không còn nhiêu thời gian nữa?”

Tôi cũng vỗ vỗ lên vai giáo sư Tôn, cảnh cáo lão ta:
“Đừng tưởng ông là Cửu gia nhé, mấy người bọn tôi đây cũng không phải tay mơ
trong đạo chơi đồ cổ đâu, ông mà ăn nói lung tung thì đừng trách chúng tôi
không nể mặt.”

Giáo sư Tôn nói: “Cửu gia với Cửu giếc cái gì, chuyện
này đừng nhắc nữa được không, hồi ấy tôi đã bị kích động một phen, giờ nghe lại
những lời này trong lòng thấy khó chịu lắm, vả lại chuyện đến nước này rồi, tôi
còn giấu các cô các cậu làm gì nữa? Cô cậu tự xem đi, tấm gương đồng cổ dùng
long hỏa ở Quy Khư chế luyện này chắc chỉ bảo tồn thêm được một vài tháng nữa
là cùng.” Nói đoạn, lão ta lật tấm gương cổ lên cho chúng tôi xem.

Phần xi trên mặt sau tấm gương cổ đã bị bóc đi, hoa
văn tinh xảo lộ ra trước mắt. Tôi, Shirley Dương và Tuyền béo đều bị ấn tượng
ban đầu ảnh hưởng, trong tiềm thức vẫn coi đây là Tần Vương Chiếu Cốt kính, vừa
nhìn thấy mặt sau tấm gương liền bất giác muốn né đi, để khỏi bị chiếu xuyên cơ
thể, nhiễm phải thi khí âm độc của cương nhân Nam Hải.

Nhưng thấy mặt sau tấm gương không có hiện tượng gì
bất thường, cả bọn mới nhớ ra đây là “quẻ kính” bằng đồng xanh, chứ chẳng liên
quan gì đến Tần Vương Chiếu Cốt kính trấn xác nghìn năm cả, liền chụm đầu vào
xem xét kĩ lưỡng, bấy giờ mới hiểu ý của giáo sư Tôn.

Thì ra điểm đặc biệt nhất của gương cổ Quy Khư chính
là dùng âm hỏa tôi luyện, hải khí ở hải nhãn Nam Hải hun đúc bên trong chất đồng,
nghìn vạn năm không tan, khiến màu đồng trở nên xanh biếc như ngọc cổ. Nhưng tấm
gương này đã lưu lạc trên thế gian mấy nghìn năm, “nhà sưu tầm” hay có thể nói
là “con buôn văn vật” cuối cùng sở hữu nó trước khi chìm sâu đáy biển căn bản
không biết cách bảo tồn cổ vật quý hiếm này thế nào cho thỏa đáng. Có lẽ vì sợ
hải khí trong tấm gương đồng tiêu tán, nên ông ta đã dùng xi niêm phong kín mặt
sau gương lại. Không ngờ khéo quá hóa vụng, thứ xi ấy và đồng xanh nảy sinh phản
ứng hóa học, chất đồng ở mặt sau tấm gương gần như đã bị ăn mòn hết. Hiện giờ,
sinh khí trong tấm gương đồng cổ này chỉ còn mỏng như đường tơ, màu đồng cũng
đã biến đổi phỏng chừng không bao lâu nữa, nó sẽ hoàn toàn mất đi tính chất đồng,
trở thành một món đồ bằng đồng xanh tầm thường. Tôi biết giáo sư Tôn không nói
bậy, có điều thấy ý đồ tìm kiếm mộ cổ Địa Tiên của mình tan thành bọt nước,
cũng khó tránh thất vọng, đang định hỏi tiếp xem còn cách nào khác không, thì
chợt nghe Tuyền béo lên tiếng: “Từ sáng đến giờ chỉ ăn có hai cái bánh rán bọ,
hễ quá giờ cơm là cái bụng ý kiến liền, Tôn Lão Cửu đừng phí lời nữa, mau mang
tiền theo, quân ta phát binh đến Chính Dương Cư đi ăn nào.”

Giáo sư Tôn nào dám không theo, vội dẫn cả bọn đến
quán Chính Dương Cư tiếng tăm lừng lẫy, cũng may lão ta vừa được phát lương và
tiền thưởng, cộng với tiền phụ cấp bồi dưỡng lên lớp, toàn bộ vẫn còn nguyên
trong phong bì chưa đụng đến. Nhà hàng quốc doanh này chuyên làm đại tiệc Mãn
Hán, tôi và Tuyền béo ngưỡng mộ đã lâu, lòng thầm nhủ đây đều là giáo sư Tôn nợ
chúng tôi, không ăn thì phí, đương nhiên không hề khách sáo. Nhưng hỏi ra mới
biết, muốn ăn Mãn Hán toàn tiệc phải đặt trước, nên bọn tôi đành chọn mấy món
chính, bày đầy cả một bàn to.

Giáo sư Tôn cố rặn ra một nụ cười, cũng không biết
đang xót tiền hay lo chuyện xấu của mình bị bại lộ nữa, tóm lại là nét mặt cực kì
gượng gạo, lão ta rót cho Tuyền béo một li rượu đầy, cười xòa nói: “Mời... mời...”

Tuyền béo hài lòng lắm, giơ li Mao Đài lên “ực” một
tiếng uống cạn, rồi nhe răng cười bảo: “Giáo sư Tôn à, đừng tưởng ông là Cửu
gia, biết nhiều chữ hơn Tuyền béo này, nhưng đại gia vừa nhìn đã biết ngay ông
là cái loại không biết uống rượu rồi, thấy chưa hả? Kiểu tôi uống vừa nãy gọi
là ‘hổ ngậm’ biết chưa? Mau mau rót đầy cho đại gia đây li nữa, tôi sẽ biểu diễn
tuyệt kĩ ‘cá voi nuốt” đắc ý nhất cho ông xem.”

Tôi đoán giáo sư Tôn lúc này thậm chí còn muốn “cá
voi nuốt” luôn cả Tuyền béo không chừng, nhưng lão bị người ta bắt thóp, đành
nuốt cục tức vào bụng, vừa rót rượu vừa gắp thức ăn cho Tuyền béo. Tôi thấy thế
cũng không khỏi tức cười, thầm nhủ vậy mới bõ tức, đang nghĩ cách chơi cho lão
ta một vố, chợt thấy Shirley Dương bên cạnh nhíu mày nhìn mình. Ánh mắt cô có vẻ
trách móc, rõ ràng cho rằng hành vi của tôi với Tuyền béo hơi quá đáng, vị giáo
sư Tôn này tuy không được coi là đức cao vọng trọng, nhưng dẫu sao cũng là một
học giả có thân có phận, người ta đã xin lỗi chuộc tội rồi, sao có thể đối đãi
với người ta như vậy chứ?

Tôi chẳng để chuyện này trong lòng, thầm nghĩ: “Lão
già Tôn này đáng ghét bỏ xừ, nếu không hành cho một trận, sau này chắc gì lão
ta đã rút ra được bài học, không bắt đem đi đấu tố đã là may lắm rồi đấy,”
nhưng tôi cũng không nỡ để Shirley Dương khó xử, đành cắm đầu ăn uống, không
hùa theo Tuyền béo trêu đùa nữa.

Lúc này, giáo sư Tôn lại rót rượu cho Shirley Dương,
thở dài nói: “Một ý niệm sai lầm, một ý niệm sai lầm thôi mà, xin cô Dương trở về
ngàn vạn lần chớ nhắc chuyện này với lão Trần, bằng không đời này tôi chẳng có
mặt mũi nào gặp ông ấy nữa...”

Shirley Dương an ủi: “Ông yên tâm, tôi thề sẽ không nhắc
đến dù chỉ một chữ, cũng không để hai người bọn anh Nhất nói đâu, tấm gương cổ
cứ để ông tự tay trả lại cho giáo sư Trần là được.”

Nghe câu này của cô, giáo sư Tôn như nhận được lệnh
ân xá, mừng mừng rỡ rỡ: “Thế là tốt nhất, thế là tốt nhất...”

Tôi nghe tới đây, ngẩng đầu lên, liền trông thấy hai
giáo sư Tôn chớp chớp, ngoài niềm hân hoan vì vừa thoát tai kiếp, còn ẩn giấu một
vẻ gì đó rất kì dị, mặc dù chỉ thoáng hiện lên rồi lập tức biến mất ngay, song
không thể nào lọt khỏi mắt tôi. Tôi động tâm, liền buông đũa, chen vào: “Không
đưa tấm gương đồng cổ và cuốn sổ ghi chép việc điều tra về Quan Sơn thái bảo
nhà Minh, cả bản kiểm điểm kia nữa, đều phải để ở chỗ tôi, tôi cần nghiên cứu
xem có cách nào tìm được mộ cổ Địa Tiên nữa hay không, chuyện này liên quan đến
mạng người, không giao cho kẻ khác được.”

Nụ cười trên mặt giáo sư Tôn đông cứng, lão đưa mắt
nhìn tôi, rồi lại quay sang nhìn Shirley Dương, trông bộ dạng chừng như đang muốn
hỏi: “Hai người các vị, một bảo trả, một lại bảo không trả, rốt cuộc là nghe ai
đây?”

Tôi chẳng buồn để ý đến giáo sư Tôn, quay sang cạn
li với Tuyền béo, tán dóc mấy câu, Shirley Dương thấy thế, đành nhún vai đầy bất
lực với giáo sư Tôn, nói một tiếng: “Sorry.”

Giáo sư Tôn giờ mới biết thì ra Shirley Dương không
phải người quyết định, liền quay sang rót rượu cho tôi, giọng khẩn nài: “Đồng
chí Nhất à, cậu không nể mặt sư thì cũng nể mặt Phật chứ, hồi ấy các cậu ở Thiểm
Tây đến tìm tôi hỏi thăm bao nhiêu là chuyện quan trọng, bấy giờ tôi biết gì đều
nói tường tận tỉ mỉ cho các cậu mà, tốt xấu gì cũng coi như đã giúp các cậu một
lần, hãy để tôi tự tay mang trả tấm gương đồng này cho lão Trần đi.”

Tôi cũng rất thành khấn trả lời giáo sư Tôn: “Tôn Cửu
gia, nếu chẳng phải ông từng giúp tôi ở Thiểm Tây, lần này tôi tuyệt đối không tha
cho ông đâu. Ông lén giấu quốc bảo do chúng tôi trục vớt về, có biết đấy là thứ
phải đổi bằng mạng người mới lấy được không hả? Chuyện này tôi có thể không
truy cứu nữa, nhưng tôi không đùa đâu đấy, quả thực tôi định mang những thứ này
vào Tứ Xuyên tìm kiếm mộ cổ thôn Địa Tiên, trước khi hoàn thành chuyện này, dù
thế nào cũng không thể để trong tay ông được. Có điều, nếu không yên tâm, ông
có thể lựa chọn hợp tác với chúng tôi, chỉ cần ông chịu ra sức, giúp tôi tìm được
cái bảo tàng mộ cổ ấy, thì cứ tha hồ lấy các loại quẻ Chu Thiên cất giữ bên
trong đem đi nghiên cứu, lúc ấy danh hiệu ‘đệ nhất giới học thuật phản động’
không phải của ông thì còn của ai nữa.”

Giáo sư Tôn nghe xong trầm ngâm một lúc, cầm bình rượu
lên “ực ực ực” mấy ngụm, chỉ thoáng sau, hơi men đã bốc lên, mặt đỏ bừng bừng.
Lão ta nhìn chằm chằm vào tôi, thấp giọng nói: “Hồ Bát Nhất, thằng nhãi con cậu
muốn ép tôi dẫn các cậu đi trộm mộ đấy hả!”

Tôi cười bảo: “Tôn Cửu gia rốt cuộc cũng khôn ra rồi
đấy, có điều ông vẫn chưa nhìn nhận được rõ ràng thì phải. Bọn tôi đây đều là
những người thành thực, chỉ muốn đi thực địa khảo sát xem truyền thuyết về mộ cổ
Địa Tiên là thật hay giả thôi, ngoài ra, ông lén lút nghiên cứu các mánh khóe
trộm mộ trong dân gian, chẳng lẽ không có ý đồ quá phận hay sao?”

Giáo sư Tôn cười gượng: “Thôn Địa Tiên là do kẻ trộm
mộ thời Minh hay còn gọi là Quan Sơn thái bảo xây dựng, nằm sâu trong núi, việc
tôi nghiên cứu bí thuật trộm mộ dân gian, động cơ cũng giống như các cậu, chỉ
muốn tìm cách chứng thực sự tồn tại của nó, chứ chưa từng nghĩ đến chuyện trộm
mộ bao giờ.”

Tôi thầm nhủ, rượu vào lời ra, nhân lúc lão giáo sư
Tôn này nốc nhiều rồi, cần phải tranh thủ hỏi đến cùng một số chuyện, như các
truyền thuyết về Quan Sơn thái bảo, mộ Phong Vương, thôn Địa Tiên, Đơn đỉnh dị
khí, cơ quan mai phục có đáng tin hay không?

Giáo sư Tôn nói, năm đó bọn giặc cỏ vào Tứ Xuyên, mười
mấy vạn người cũng không đào được nó lên, bây giờ chẳng còn ai tin vào sự tồn tại
của thôn Địa Tiên nữa. Lão ta tốn bao tâm huyết thu thập được rất nhiều tư liệu,
càng ngày càng nhiều chứng cứ chứng tỏ rằng ở Tứ Xuyên đích thực có mộ Địa
Tiên, bên trong tập hợp rất nhiều quan quách minh khí của mộ cổ các triều đại,
nhưng chuyện này lại không được những người khác công nhận. Một vị nhân sĩ danh
giá còn chỉ trích rằng, những loại truyền thuyết dân gian kiểu này không thể
tin được, đều là những luận điệu quái đản bắt nguồn từ sự “thiếu tri thức, mê
tín, si tâm vọng tưởng” mà ra, đúng là ấu trĩ đến độ khó có thể hình dung nổi,
ai tin theo thì quả là thẩn kinh nặng.

Bọn tôi nghe những lời này cũng thấy thật mỉa mai
cay nghiệt, không ngờ giáo sư Tôn lại bị chụp mũ nhiều như thế, trong lòng
không khỏi thầm kêu oan uổng thay lão ta. Xưa nay thói đời vốn “nói không thì dễ,
nói có thì khó,” đây là một dạng tâm lí đám đông rất phổ biến, kiên trì tâm lí
thủ cựu và lí luận chỉ có khoa học độc tôn, tất nhiên sẽ thiếu đi dũng khí đối
diện với sự vật mới, quan niệm mới. Tôi sinh lòng thông cảm với giáo sư Tôn, liền
khuyên lão ta uống thêm vài li nữa, chuyện trên đời này không thể việc gì cũng
vừa ý mình, cũng may còn có thể mượn rượu giải nghìn nỗi sầu.

Chẳng ngờ giáo sư Tôn tửu lượng quá kém, mới mấy hớp
rượu trắng, rượu vào dạ sầu, cả người đã nghiêng nghiêng ngả ngả muốn xỉu. Tuyền
béo đành phải vừa lôi vừa đỡ, dẫn lão ta ra ngoài cho chó ăn chè, tôi nhìn theo
bóng lưng bước loạng choạng của lão, khẽ thở dài bảo Shirley Dương: “Giáo sư
Tôn cũng là một người tài không gặp thời, e rằng quá nửa đời ông ấy đã phải sống
trong nỗi u uất bất đắc chí...”

Shirley Dương đột nhiên nhớ ra một chuyện, rót rượu
cho tôi rồi hỏi: “Phải rồi, tại sao các anh lại gọi giáo sư Tôn là Cửu gia vậy?
Ồng ta là con thứ chín trong nhà à?”

Tôi bảo không phải thế, lão ta là con thứ mấy thì
tôi không biết, thực ra “Cửu gia” là một kiểu xưng hô hài hước thôi. Thời mười
năm loạn lạc Cách mạng Văn hóa, chúng tôi gọi đám phần tử trí thức là “Lão Cửu
thối,” đây là theo thứ tự sắp xếp “quan, lại, tăng, đạo, y, công, liệp, dân,
nho, cái” mà ra. Vì “nho” xếp thứ chín, lại vì có vị vĩ nhân nọ, từng ở trước mặt
mọi người dẫn ra câu thoại trong Mưu trí đoạt Uy Hổ sơn bảo rằng: “Lão Cửu
không thể đi,” ý là không thể xua đuổi phần tử trí thức đi được, vì vậy bấy giờ
mới phổ biến cách gọi “lão Cửu” này. Có điều, những quan niệm này đã bị thời đại
đào thải từ lâu rồi, tôi và Tuyền béo vừa nãy gọi giáo sư Tôn là “Cửu gia,” chẳng
qua là đùa với lão ta mà thôi.

Trong lúc nói chuyện, Tôn Cửu gia đã nôn xong, lại
được Tuyền béo đỡ về chỗ ngồi. Lão đã say mèm, thần trí ngẩn ngẩn ngơ ngơ, ngồi
trên bàn tiệc mơ mơ hồ hồ, cũng không biết trong đầu đang nghĩ gì, đột nhiên lại
lẩm bẩm những lời khó hiểu như thể có quỷ thần xui khiến: “Hay cho đại vương,
có thân không đầu; nương tử không đển, núi non không khai; đốt củi bắc lò, nấu
gan nấu phổi; đào giếng lấy muối, hỏi quỷ xin tiền; điểu đạo tung hoành, trăm
bước chín hồi; muốn đến Địa Tiên, hãy tìm ô...”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3