Ma thổi đèn (Tập 7) - Chương 55
CHƯƠNG
55
DỐI
TRÊN GẠT DƯỚI
Giáo sư Tôn vì tìm kiếm bảo tàng mộ cổ thành Địa
Tiên đã đổ biết bao công sức, cuối cùng lại chẳng được gì. Tư liệu về phái trộm
mộ Quan Sơn thái bảo đời Minh lão thu thập chỉnh lí suốt mấy năm nay, hết thảy
đều ghi trong cuốn nhật kí công tác này, nhiệt huyết đến cuối cùng đã có phần
nguội lạnh.
Nhưng trong quá trình nghiên cứu về Quan Sơn thái bảo,
từ những lời đồn đại trong nhân gian và ghi chép trong sách sử, lão đã tìm hiểu
được rất nhiều bí mật về hoạt động trộm mộ thời cổ đại, biết được từ xưa trên đời
đã không có người bất tử, cũng không có mộ nào là không thể đào, chỉ cần là mộ
cổ thì sớm muộn cũng có ngày bị quật lên. Thuật trộm mộ không nằm ngoài tứ quyết
“vọng, văn, vấn, thiết.”
“Vọng” là quan sát hình thế phong thủy, trên xem
thiên văn dưới dò địa mạch để xác định vị trí và bố cục của mộ cổ, quyết này
yêu cầu phải hiểu rõ mạch đập của dãy núi dòng sông cùng nhật nguyệt tinh tú,
thực vô cùng sâu xa huyền diệu, những tay trộm mộ thông thường không thể nắm được;
ngoài cách xem mộ này, còn có thể thông qua quan sát sự khác thường của mặt đất,
thổ nhưỡng và cây cỏ để tìm huyệt mộ, gọi là “nhìn vết bùn phân sắc cỏ.”
“Văn” cũng chia hai cách: nghe và ngửi, có những người
được trời phú cho khứu giác vô cùng tinh nhạy, có thể dùng mũi phân biệt các
mùi vị đặc thù nơi núi cao rừng sâu; lại có người thính giác nhạy bén, luyện đến
trình độ “gà báo sáng, chó canh đêm,” có thể lắng nghe mọi âm thanh của thế giới
tự nhiên, đoán được tình hình dưới lòng đất, nếu thính giác bình thường cũng có
thể nhờ vào công cụ trợ giúp, ví như “Ung thính pháp” chôn hũ xuống đất dùng
tai nghe ngóng mộ huyệt.
“Vấn” tức thông qua “hỏi thăm” cư dân bản địa, tìm
hiểu thông tin và vị trí mộ cổ từ một góc độ khác, may mắn có thể đạt được kết
quả không ngờ; ngoài ra còn có một cách tương đối thần bí, đó là hỏi trời, nghe
nói dân trộm mộ thời cổ có thể thông qua gieo quẻ để suy đoán, xác định kết cấu
mộ cổ cũng như hung cát trong mộ, nhưng thuật này đã tuyệt tích từ lâu, đến nay
không còn ai thông hiểu.
Cuối cùng là “thiết,” chủ yếu là các phương pháp đào
mồ quật mả của dân trộm mộ, như làm thế nào lợi dụng sơ hở, dùng các loại công
cụ đào bới huyệt động, bao gồm Phân kim định huyệt, đào thẳng xuống địa cung, rồi
xẻ núi rẽ trời bằng cuốc to xẻng lớn, lại cả dùng tê tê Huyệt Lăng đào hầm
thông mộ.
Giáo sư Tôn biết thì nhiều vậy, chứ “vọng, văn, vấn,
thiết” vốn là tuyệt học đổ đấu lưu truyền đã mấy ngàn năm, dù có thể nghe ngóng
trong dân gian, nhưng không được truyền thụ thực sự thì không có cách nào nắm
được, huống hồ đa phần những cổ thuật trộm mộ này đều đã thất truyền từ lâu.
Thông thường đến nước này cũng đủ để nản lòng rồi,
nhưng Tôn Học Vũ tính tình bảo thủ, đã tâm niệm việc gì thì hết sức cố chấp,
lão chưa đến Hoàng Hà chưa nản chí, chưa thấy quan tài chưa nhỏ lệ, vẫn muốn đi
tìm Địa Tiên đến mức quên ăn quên ngủ, đêm ngày vọng tưởng tới quẻ bói thiên cơ
giấu trong Toàn Cơ lâu.
Ông trời có lẽ không phụ người có tâm, Tôn Học Vũ
trong một lần sắp xếp lại hiện vật cổ tịch vô tình biết được một bí sử. Vào thời
Chu Mục Vương từng có một chiếc đỉnh cổ được đúc từ long khí Nam Hải, trên đỉnh
có tấm gương cổ và bốn quẻ phù, chiếc đỉnh đến từ Quy Khư được làm bằng chất liệu
đồng xanh hiếm có, do hải khí ngưng tụ trong đỉnh đồng nên đồng tính vẫn nguyên
vẹn sau cả ngàn năm, niên đại càng lâu thì sắc đồng xanh lục càng sậm.
Gương cổ và quẻ phù khảm trên đỉnh đồng đều là tinh
tuý của thuật soi đuốc diễn quẻ thời Tây Chu, có thể lợi dụng hải khí tích tụ
trong đồng xanh mà suy diễn tượng mai táng. Người xưa mê tín tin vào hình thế lí
khí trong phong thủy, trong đó quan trọng nhất chính là “khí,” còn gọi là “sinh
khí” trong long mạch, những dị tượng ảo ảnh giữa biển khơi đa số đều do hải khí
biến đổi mà thành. Hải khí trong Quy Khư tức là “long khí trong long mạch.” Bất
cứ mảnh nhỏ nào trên chiếc đỉnh cổ Quy Khư cũng có thể biến một huyệt mộ vô
cùng bình thường thành nơi có phong thủy quý sinh khí ngưng kết, còn gương cổ
trên đỉnh đồng lại có thể dùng để suy đoán vị trí mộ cổ.
Lúc đầu giáo sư Tôn hoàn toàn không tin cổ đỉnh Quy
Khư có thật, nhưng qua thời gian dài khảo chứng, lão mới biết chuyện này không
phải hoàn toàn vô căn cứ. Nhưng đỉnh đồng từng là vật bồi táng chôn cùng Chu Mục
Vương, về sau khi lăng tẩm Chu Mục Vương bị khai quật, chiếc đỉnh đồng được
phát hiện đã bị sét đánh vỡ, tấm gương và bốn tấm cổ phù lần lượt bị người ta lấy
mất, từ đó thất lạc bốn phương.
Truyền thuyết dân trộm mộ gieo quẻ hỏi trời tìm cổ mộ
đại táng trong lịch sử rất có thể bắt nguồn từ chiếc đỉnh cổ Quy Khư. Nghe nói
gương cổ Quy Khư vô cùng phức tạp thâm ảo, thông qua chỉ dẫn của quẻ phù, có thể
dựa vào biến hóa tụ tán của sinh khí xung quanh mà hiện lên các quẻ tượng khác
nhau. Giáo sư Tôn biết quẻ phù Chu Thiên tổng cộng có mười sáu quẻ, trên chiếc
đỉnh cổ chỉ có bốn quẻ long, quỷ, nhân, ngư, chuyên dùng để quan sát huyệt khí
âm dương, dùng nó để phá giải quẻ tượng Long Cốt Tây Chu tuy là việc không thực
tế lắm, nhưng đây là điểm đột phá quan trọng, dựa vào kinh nghiệm tích lũy của
lão trong mấy chục năm chuyên tâm nghiên cứu mật văn phù hiệu cổ đại, ít nhất
cũng có vài phần tự tin sẽ đọc được quẻ tượng hiện ra trên bốn quẻ này, chỉ cần
có trong tay chiếc gương đồng huyền cơ vô song kia là có tia hi vọng tìm ra
thành Địa Tiên.
Nhưng đến tận giờ, những giả tưởng ấy vẫn chỉ là một
tòa lâu trống rỗng trong đầu giáo sư Tôn. Sau khi cổ đỉnh Quy Khư nứt vỡ, đỉnh
đồng liền bị nấu chảy để đúc thành lò đơn, gương cổ và quẻ phù thất lạc từ đó,
chúng đều là những mật khí phong thủy trong mắt người xưa, có trời mới biết đã
bị tay mộ chủ có con mắt tinh đời nào đó mang theo xuống suối vàng rồi. Giáo sư
Tôn không tiền không thế, chỉ dựa vào mỗi sức lực, muốn tập hợp chúng lại xem
chừng quá khó.
Nhưng cổ nhân có câu ý trời khó lường, cơ duyên vừa
vặn, lão quả thực đã đợi được đến lúc cơ hội tới. Cách đây hai năm, giáo sư Tôn
đi công tác ở Nội Mông, ở nhờ nhà một người chăn gia súc, được nghe kể một câu
chuyện vô cùng kì lạ, khi ấy thảo nguyên Nội Mông đã bị sa mạc hóa nghiêm trọng,
nhưng có một nơi cỏ xanh vẫn tốt tươi, nhìn xa như một bãi cỏ xanh ngắt, diện
tích không lớn lắm, ước khoảng vài chục mét vuông.
Trong bãi cỏ này có nhiều chồn hôi ẩn náu, thành đàn
thành lũ cứ chui ra chui vào, thần thái hết sức quỷ quái. Trước đây mục dân bản
địa rất ít khi nhìn thấy chồn hôi nên cho rằng đây là điềm gở, bảo nhau dắt chó
và súng săn đi giết sạch bọn chúng. Chó săn trên thảo nguyên giỏi nhất là bắt
chuột đồng nên bắt chồn hôi cũng chẳng có gì khó, không tới một ngày đã cắn chết
hơn trăm con chồn hôi lớn nhỏ, xác chồn la liệt mặt đất.
Sau khi giết hết chồn hôi, mục dân bắt đầu lột da chồn,
châm lửa đốt bãi cỏ xanh, có người trong số họ nhìn thấy một vật hình rồng bằng
đồng xanh trong hang đất giữa bãi cỏ, trông chẳng có vẻ gì đáng tiền, cũng
không biết đó là cổ vật nên tiện tay treo lên vật cưỡi làm đồ trang trí, định mấy
ngày nữa tới chợ phiên của người Bát Kỳ, sẽ mang đến trạm cung tiêu đổi lấy ít
thuốc lá.
Giáo sư Tôn nghe được tin này bèn chẳng nói chẳng rằng
ngay trong đêm đến trạm cung tiêu mua một cây thuốc lá, đem đổi cho người nhặt
được long phù không mắt, chẳng tốn mấy công đã lấy được quẻ phù thứ nhất rồi âm
thầm giấu nhẹm, thực đúng mèo mù vớ cá rán.
Sau đó giáo sư Tôn càng chú tâm hơn đến gương cổ và
quẻ phù, nhưng mãi vẫn không tìm được tăm tích gì về những cái còn lại, cách
đây không lâu mới có được một chút manh mối. Thì ra gương cổ vào cuối đời Thanh
đã lưu lạc ra tận nước ngoài, trong một chuyến buôn lậu đã cùng tàm chìm xuống
đáy biển. Tôn Học Vũ biết ông bạn cũ của mình là giáo sư Trần có nhiều mối quan
hệ ngoại bang liền bịa chuyện, nói với giáo sư Trần rằng Tần Vương Chiếu Cốt
kính chìm dưới đáy biển đó là một trong số Tần Vương bát kính, là Quốc bảo có
giá trị liên thành, nhờ giáo sư Trần nghĩ cách tìm người trục vớt.
Mặt sau chiếc gương cổ chi chít những hình vẽ phù hiệu,
vô cùng tinh xảo phức tạp, người sưu tầm sợ bị mài mòn, vả lại muốn cho hải khí
ngưng tụ trong kính đồng đượclâu nên dùng xi gắn lại. Giáo sư Tôn sớm biết việc
này nên gạt giáo sư Trần rằng: “Bởi là Chiếu Cốt kính trấn thi đã ngàn năm nên
âm khí bên trong vẫn còn, người sống không được soi vào.”
Con thuyền mang theo tấm gương cổ chìm giữa biển cả
mênh mông, không dễ gì trục vớt, Tôn Học Vũ cũng biết vậy nên tuy lợi dụng quan
hệ của giáo sư Trần để vớt quẻ phù Quy Khư, nhưng vẫn tâm niệm “mưu sự tại
nhân, thành sự tại thiên,” không hi vọng lắm, nào ngờ rốt cuộc chiếc gương cổ
cũng được mang về nguyên vẹn từ Nam Hải, thực là niềm vui bất ngờ. Sau khi có
nó trong tay lão không hề giao nộp cấp trên mà bí mật cất giấu trong nhà, âm thầm
phân tích quẻ phù sau mặt kính. Giáo sư Trần ở Mỹ chữa bệnh một thời gian dài
nên lỡ nhiều công việc, sau khi về nước lại bận rộn không dứt ra được, ông hết
lòng tin tưởng bạn cũ, cam tâm tình nguyện nhường hết công lao tìm ra Quốc bảo
cho Tôn Học Vũ, trước sau không hề truy hỏi lão đã hiến tặng Quốc bảo hay chưa,
càng không thể biết chiếc gương cổ Nam Hải đó cơ bản không phải là Tần Vương
Chiếu Cốt kính gì cả.
Đồng ngư trong bốn quẻ phù cổ có lai lịch mấy ngàn
năm, vẫn khảm trên chiếc gương cổ chưa từng rơi ra, Tôn Học Vũ có nằm mơ cũng
không dám nghĩ hai quẻ phù với một chiếc gương đã nằm trong tay mình, xem ra
mình không làm thì thôi, đã làm cũng ra tấm ra món. Nay chỉ còn thiếu hai đồng
phù một nhân một quỷ, tập hợp được những thứ này lại là có thể tới Tứ Xuyên
khai quật mộ cổ Quan Sơn được rồi, bí mật quẻ số Chu Thiên dường như đã gần
trong gang tấc.
Giáo sư Tôn gần đây mới biết được, trước giải phóng
đã có người mua được một lô cổ vật từ tay bọn trộm mộ Hồ Nam, truyền tay trong
dân gian nhiều năm, may vẫn chưa thất lạc vật nào, cách đây không lâu được kiều
bào yêu nước hiến tặng cho Quốc gia, hiện nay còn đang triển lãm lưu động khắp
nơi trên toàn quốc, trong đó có cả chiếc lò đồng được đúc từ cổ đỉnh Quy Khư và
hai quẻ phù bằng đồng xanh khác, hơn nữa quá trình đỉnh cổ được đào lên từ lăng
tẩm Chu Mục Vương và hình dáng nguyên bản của thân đỉnh, nhất nhất đều đúc
thành hình ghi lại trên thân lò.
Giáo sư Tôn khi ấy vừa về tới Bắc Kinh, thấy lô cổ vật
đang được triển lãm ở Thiên Tân thì cầm lòng không đậu. Lão vốn tính khí kì quặc
nên đến nghỉ phép cũng chẳng thèm xin, vội đến thẳng bảo tàng xem rõ đầu đuôi.
Nhưng trong phòng triển lãm khoảng cách quá xa nhìn không đã, vả lại cũng không
muốn ai biết mình bao năm nay vẫn miệt mài nghiên cứu cổ đỉnh Quy Khư, nên lão
không thể tiếp cận với chiếc lò qua con đường chính thống, không làm thì thôi
đã làm phải tới cùng, giữa đêm khuya lão lẻn vào bảo tàng, ghi chép lại tất cả
những văn tự và hình vẽ khắc trên lò đơn, hi vọng từ đó có thể tìm ra phương
pháp sử dụng gương cổ và quẻ phù.
Mấy trang cuối trong cuốn sổ ghi chép đều là chữ khắc
và hình vẽ trên lò đơn, nhưng chỉ có một nửa, cuốn sổ này ngoài ghi chép những
bí mật của giáo sư Tôn thì chẳng có nội dung gì khác.
Chắc lúc bị tôi phát hiện, giáo sư Tôn sợ thân phận
bại lộ nên vội vàng rời khỏi bảo tàng, trong lúc cuống quýt liền đánh rơi cuốn
sổ quan trọng nhất tại hiện trường.
Tôi xem xong bèn gập cuốn sổ lại, khinh khỉnh hừ một
tiếng: “Lão già này bình sinh ra vẻ đàng hoàng đạo mạo mà kì thực giấu mặt còn kĩ
hơn Quan Sơn thái bảo, tiên sư, đúng là gian ngoan xảo quyệt, dám mang ông Nhất
đây ra làm bia đỡ đạn. Cả đời tôi chưa bị ai giở trò thế này đâu, giơ đầu chịu
báng, vào sinh ra tử nơi đầu sóng ngọn gió mấy bận, suýt nữa thì mất mạng ở Nam
Hải, nếu hôm nay không xem cuốn sổ này thì đến giờ vẫn bị lão nhốt trong hũ tối,
như thằng đần cứ tưởng mình vì nước lập công. Chó má, giấu tiếng sao giấu được
mùi, âm mưu quỷ kế muốn lấy tay che trời của lão cuối cùng đã bại lộ, tôi đã
nhìn rõ chân tướng, nhất định sẽ bắt lão đền tội đến cùng.”
Shirley Dương lại lắc đầu nói: “Anh đừng nóng nảy thế,
tôi thấy việc này không đơn giản vậy đâu, e là vẫn còn ẩn tình chưa biết.”