Ma thổi đèn (Tập 7) - Chương 12
CHƯƠNG
12
ĐẤT
DỜI THÂY
Người sau khi chết được khâm liệm, đặt vào quan
quách rồi chôn xuống đất, giả sử có cơ hội đào đất bật săng, sẽ thấy thi thể dù
mới hay cũ, chỉ cần chôn cạnh ngọn Bình Sơn, thì lập tức không cánh mà bay. Tuy
lớp đất bên trên vẫn còn nguyên vẹn, nắp áo quan cũng khônghề bị cạy mở, nhưng
bên trong chỉ còn lại vài bình gốm đũa tre tùy táng, áo liệm mặc theo người chết
vẫn nguyên xi, cúc áo không hề bị mở, nhưng tuyệt nhiên không thấy mẩu xương thịt
nào.
Dân bản địa thường truyền tai nhau rằng, trước khi
binh lính nhà Nguyên đánh tới, Bình Sơn vốn là cấm địa luyện đơn của hoàng đế.
Ngoài lí do địa hình đặc thù, được trời phú cho nhiều hang động tự nhiên, còn
có một nguyên nhân quan trọng khác là vì Tương Tây Thần Châu sản xuất nhiều chu
sa, thủy ngân tinh luyện từ chu sa vốn là nguyên liệu không thể thiếu trong quá
trình luyện đơn. Nơi đây luyện từ những loại thần dược trường sinh bất lão cho
tới phương thuốc bí truyền chốn phòng the, nên trong núi quanh năm dào dạt dược
khí.
Lâu dần, nham thạch bùn đất trên Bình Sơn cũng nhiễm
phải dược khí tiêu xương hóa cốt, thi thể hễ chôn trong núi chỉ còn lại làn khí
mờ, lưu động theo dòng khí trong địa mạch, hành tung bất định, bởi thế nơi này
được gọi là đất dời thây. Chỉ có cái xác cổ của vị tướng nhà Nguyên đặt trong
lòng núi do trúng phải tà thuật của động dân mà chết, biến thành cương thi
không thể thối rữa, lại hấp thu dược lực của tiên đơn trong mộ nên đã thành
tinh.
Nghe nói sau khi vết nứt trên núi để lộ ra ngôi mộ cổ,
cứ cách mấy chục năm lại có người nhìn thấy cương thi mình mặc áo giáp, đầu đội
mũ giáp xuất hiện trong núi, ai cũng nói chính mắt nhìn thấy chứ không phải chỉ
nghe kể lại. Ở Tương Tây thịnh tục đuổi thây, người Tương Tây đặc biệt tin vào
những chuyện cương thi tác oai tác quái, họ đồn đại nhau rằng trong Bình Sơn có
Thi vương, biết bao người vào núi đào mộ hay hái thuốc đều bị cương thi và âm
binh hãm hại, tam sao thất bản, còn ai ăn gan hùm mật gấu dám bước vào địa cung
mộ cổ trong lòng núi nữa?
Lão Trần nghe xong chỉ cười nhạt, lão hiểu rộng biết
nhiều, mấy lời đồn đãi của đám thổ dân sao dọa nổi. Cái tên đất dời thây lão quả
có nghe qua, nhưng đó chỉ là truyền thuyết Vu Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc, trên
đời lấy đâu ra đất dời thây thực? Mộ thời Nguyên thường chôn sâu táng lớn, bên
trong ẩn chứa vô vàn phương kĩ phòng trộm của Tây Vực, đồ bồi táng cũng chẳng bằng
mộ đám vương tôn quý tộc Trung Thổ, nên xưa nay không phải là mục tiêu hàng đầu
của dân trộm mộ.
Tuy vậy, vị tướng nhà Nguyên được chôn trong núi
Bình Sơn lại chết trước khi lâm trận, trong cuộc càn quét tàn sát người Miêu bảy
mươi hai động ông ta chắc hẳn đã cướp được không ít của cải, lại thêm số châu
báu nhiều không kể xiết bao đời Hoàng gia cúng tiến cất cả trong điện tối địa
cung, e rằng số minh khí tàng trữ trong ngôi mộ đời Nguyên này cũng không thua
kém bất kì lăng mộ Đế vương nào. Ngôi mộ cổ này hình thể đặc biệt, quân số ít ỏi
khó mà đào được, hơn nữa lại nằm ở nơi xa xôi hẻo lánh, hiếm người biết đến, nếu
không dân đổ đấu đã kéo tới từ lâu, chứ sao còn đến ngày nay. Hiện giờ cơ duyên
đã đến, đây chính là cơ hội để phái Xả Lĩnh hoàn thành đại nghiệp.
Lão Trần tính toán, đám bọn họ từ nơi xa đến, không
quen đường sá, nếu không có người dẫn đường sẽ khó làm nên chuyện, vì thế không
thể giết người diệt khẩu. Có điều trước tiên phải vỗ yên anh chàng người Miêu
này đã, bằng không để anh ta lỡ lời lộ ra chuyện gì làm dao động lòng quân thì
gay. Lão bèn nói với anh ta: “Không phải khoác lác đâu, nhưng nhân sĩ ở Tương
Âm đều biết ông chủ Trần ta giỏi nhất bắt quỷ đuổi thây, lại thêm tính tình hào
sảng, sẵn lòng giúp đỡ người tốt. Giờ có ý dẫn thuộc hạ đi trừ hại cho dân,
tiêu diệt cương thi trong núi Bình Sơn, nếu ngươi chịu giúp, sẽ không thiếu phần
của ngươi đâu.” Nói đoạn nhét vào tay anh ta mười đồng bạc.
Anh chàng người Miêu thấy ông chủ Trần ra tay hào
phóng, còn đại soái La hễ trợn mắt là muốn giết người, hễ có ý bất phục là mất
mạng ngay, hai lão tổ tông này một người mặt đỏ một người mặt đen, cả hai đều
không thể đắc tội, giữa cục diện vừa cương vừa nhu, có chạy cũng không thoát,
muốn giữ tính mạng chỉ còn cách phục tùng nghe lời, dù lên núi đao xuống biển lửa
cũng phải theo. Nghĩ vậy, anh ta không dám hé răng nửa lời, vội vã dẫn đám trộm
xuyên qua cái hố tùy táng đã bị sơn tặc khoét rỗng, trở về nghĩa trang Lão Hùng
Lĩnh.
Qua mấy lần khảo sát thực địa, nắm được tình hình, bọn
lão Trần đã có tính toán đâu vào đấy, chỉ còn đợi gã câm Côn Luân Ma Lặc dẫn tiểu
đoàn công binh tới là có thể bắt tay vào việc. La Lão Oai chờ đợi mà lòng nóng
như lửa đốt, cứ hỏi đi hỏi lại lão Trần châu báu trong địa cung có thể vận chuyển
bằng xe hay không; đám tướng sĩ nhà Nguyên chôn trong mộ cổ có phải đều là lính
Mông Cổ hay không.
Lão Trần nói mấy ngày nay trời vừa tờ mờ đã đi khảo
sát, biết được rất nhiều căn nguyên. Ngôi mộ cổ này tuy đã lộ ra từ thời nhà
Thanh, nhưng một là địa hình hiểm trở, hai là bên trong lắm cạm bẫy trùng độc
nên những tên trộm mộ tép riu không làm gì được, mười phần chắc chín rằng trong
địa cung châu báu chất cao như núi, điều đáng lo là có thể bị mưa gió ăn mòn
nghiêm trọng.
Ngoài ra binh tướng nhà Nguyên cũng không hoàn toàn
là người Mông Cổ, năm đó quân Nguyên san bằng Tây Vực phía Bắc Trung Quốc, tiến
xuống phía nam, khí thế ngang liên quân tám nước đánh thành Bắc Kinh năm Canh
Tý, là liên quân của các ngoại tộc Tây Vực, trong hàng ngũ cũng có cả đám lính
người Hán đầu hàng, thành ra phong tục mai táng không hề giống nhau. Bọn họ biến
động núi tự nhiên Bình Sơn này làm huyệt mộ, cũng hòng trấn áp Long khí Nam triều.
Bình Sơn xưa nay là cấm địa của Hoàng gia, vốn đã có rất nhiều bẫy mai phục
phòng bọn trộm thuốc, sau khi lấp kín thành mộ thất khổng lồ, hệ thống bẫy này
đa phần đều được giữ lại, lát nữa chúng ta vào đó nhất định phải cẩn thận đề
phòng.
Chuyện vãn trời cũng đã ngả về chiều, đến khi nhá
nhem gã câm mới dẫn ba cánh quân hỗn tạp về tới nơi. Hơn trăm tên trộm mộ thủ hạ
của lão Trần tuy là tạm thời chắp vá nhưng đa số đều có quen biết từ trước, đã
qua thao luyện tương đối nên không đến nỗi hỗn loạn. Trái lại, quân đội dưới
trướng La Lão Oai về cơ bản là một đám ô hợp, lính tráng trong tiểu đoàn công
binh đào mộ này không phải là con nghiện thì là phường đàn điếm, xóc đĩa tổ
tôm, kẻ nào kẻ nấy đều coi tiền hơn mạng sống, cũng chỉ bọn họ mới có gan đào mộ
quật mả, chẳng kiêng dè gì.
Đối với mấy phiến quân các vùng lân cận, La Lão Oai
như cái đinh trong mắt cái dằm trong thịt, lần này hắn rời khỏi hang ổ vào sâu
đất Tương Tây trộm mộ, nhất nhất đều bí mật hành động, không dám rêu rao ầm ĩ,
cũng không dám điều động đại đội. Nguyên nhân chủ yếu là vì hắn sợ các cánh phiến
quân khác phục kích đánh lén, ngoài ra đào mộ quật mả vốn chẳng phải việc tốt đẹp
gì, nhỡ lọt ra ngoài chỉ tổ gánh lấy búa rìu dư luận. Mỗi lần đi trộm mộ La đại
soái đều chỉ mang theo một tiểu đoàn công binh và một tiểu đội súng ngắn. Chuyện
quật mộ trên Lão Hùng Lĩnh Tương Tây lần này cần nhanh chóng bí mật, xong việc
là giải tán ngay, toàn bộ quá trình tốt nhất không quá dăm ba ngày, đề phòng
đêm dài lắm mộng. Đây không như lãnh địa của hắn, có thể mượn danh nghĩa diễn tập
phong tỏa cả ngọn núi, muốn đào lấp gì cũng được.
Lão Trần thấy người ngựa đã đông đủ, e kinh động đến
dân bản địa, không dám nấn ná thêm, quyết định phải nhanh chóng hành động, bèn
lệnh cho mọi người trước tiên lấy dải lĩnh đỏ tẩm chu sa buộc quanh cánh tay
trái, để ba nhánh quân dễ nhận ra nhau, sau đó đóng quân quanh nghĩa trang, nghỉ
ngơi đến tầm nửa đêm thì bắt đầu xuất phát. Dưới ánh trăng đêm, đoàn quân tổng
cộng gần một nghìn nhân mạng, kẻ dắt ngựa người dắt la, mang theo đủ loại quân
nhu, đi theo anh chàng người Miêu dẫn đường, rồng rắn tiến về ngọn Bình Sơn. Để
bưng bít thông tin, phàm những người gặp phải trên đường, bất kể Di Hán đều bị
bắt theo làm phu khuân vác. Tờ mờ sáng hôm sau, tiểu đoàn công binh trộm mộ đã
tới được địa môn ở lưng đèo Bình Sơn.
Cả đám không đào cửa mộ ngay tại lưng đèo, mà muốn
tiết kiệm sức, thâm nhập thẳng địa cung cổ mộ từ khe nứt trên đỉnh núi. Đường
núi khúc khuỷu dốc ngược, ngựa lên đến lưng chừng đã phải dừng lại không đi tiếp
được nữa, đống vật tư cần thiết lúc này đành chuyển sang lưng đám phu khuân
vác. Đoàn người dài dặc men theo con đường đá xanh ngoằn ngoèo lên đỉnh núi, từ
trên cao nhìn xuống, chẳng khác nào một con rồng vàng treo mình bò lên chiếc
bình cổ.
Buổi sáng hôm đó Bình Sơn sương giăng mù mịt, ngẩng
đầu nhìn lên cảm giác như lạc trong sương mù, đến khi lên cao hơn cúi xuống lại
thấy mây mù giăng kín dưới chân. Lính công bình đều biết chuyến này lên núi trộm
mộ, nếu là đánh trận còn khó tránh có kẻ chùn chân, nhưng đổ đấu thì chẳng khác
nào bới đất mò vàng, mong việc tốt nào hơn nữa. Mấy tháng nay chưa thấy lương lậu
gì, giờ cuối cùng cũng vớ được ngôimộ cổ nên ai nấy đều hăng hái hăm hở, tranh
nhau theo trưởng quan lên núi, dù đường núi hiểm trở vẫn không than vãn nửa lời.
Thực ra trong quá trình đổ đấu, mấy trăm lính công
binh này chỉ đảm nhận vai trò khổ sai làm việc nặng nhọc, giữ vai trò chính đều
là đám thuộc hạ của lão Trần. Hơn trăm tên trộm mộ lưng đeo sọt tre, bên trong
đựng khí giới độc môn của phái Xả Lĩnh-thang rết treo núi. Đây là loại thang
tre được chia làm nhiều đốt, là vật dụng không thể thiếu của đám trộm Xả Lĩnh
khi đi đổ đấu, dù lên núi xuống động, đối mặt với gian nan hiểm trở đều không
thể thiếu loại khí giới này.
Thang rết leo núi gồm những ống tre cỡ bằng cánh tay
ghép lại, đây là loại tre bương dẻo nhất, ngâm qua vạc dầu mấy chục lần, có uốn
cong cũng không bao giờ gãy. Hai đầu ống tre gắn móc cài trước sau, thân ống
khoét hai hốc tròn cỡ thân tre, khi sử dụng các ống tre được xuyên ngang nối với
nhau bằng một cây sào dài, làm thành chỗ để chân, phía đầu thang có bách tử câu
gắn vào vách đá, nhìn từ xa giống hệt một con rết đốt tre.
Gặp phải vách núi cheo leo hiểm trở không trèo được,
từng người luân phiên dựng hai thanh thang rết, móc vào khe đá là có thể thoăn
thoắt leo lên vách đá dựng đứng. Thang có tên “treo núi,” nên cũng không phải
chỉ có tác dụng leo trèo, “núi” và “đấu” đều là tiếng lóng gọi mộ cổ, núi tức
chỉ “sơn lăng.” Do huyệt động hoặc vốn chật hẹp, hoặc bị cho nổ mìn ngổn ngang
đất đá, dân trộm mộ khi đi vào khó lòng mang theo dụng cụ cồng kềnh, chỉ riêng
thang rết tháo lắp tùy ý là có thể chia ra để mỗi người mang theo bên mình,
không bị địa hình hạn chế. Ở một số mộ cổ đề phòng địa cung ngập nước, quan
quách đều được treo cao giữa mộ thất bằng xích sắt, có thang rết hỗ trợ, trong
quá trình đổ đấu sẽ bớt được rất nhiều công sức. Loại thang rết treo núi này
nguyên bắt nguồn từ một loại vũ khí công thành của nghĩa quân Xích Mi thời Hán,
trải qua biết bao thế hệ bỏ công sửa đổi cải thiện, đến nay mới có hình dạng thế
này.
Lão Trần dẫn mọi người lên tới đỉnh núi, thấy sương
ngũ sắc vẫn đang bay lên từ dưới khe vực, có điều bấy giờ mới gần chính Ngọ nên
sương không dày lắm. Trùng độc trăn độc là những loài ưa tối tăm, lúc này chắc
chắn chúng đang lo ẩn nấp, đây chính là thời khắc hành động. Lão khoát tay, ra
hiệu cho đám phu khuân vác đem từng bao vôi bột quăng xuống vực sâu. Bao vôi đập
phải đáy vực, lập tức vỡ tung, vôi bột bắn ra tung tóe, độc vật dù hung hiểm đến
mấy hít phải cũng chết sặc, con nào may mắn thoát chết cũng nhất định cao chạy
xa bay.
Song do thời gian gấp gáp, đội công binh chỉ chuẩn bị
được hơn hai trăm bao vôi bột, lúc ném xuống vực bị gió thổi mất một phần, số
còn lại không phủ kín được đáy vực, thành ra chỉ như chén nước chữa cháy không
thấm vào đâu.
Đám người từ trên nhìn xuống, thấy vôi bột ít quá
thì lo lắng vò đầu bứt tai, nhưng cũng may trận vôi bột này rắc xuống vẫn đạt
được hiệu quả cao, lớp khí độc dày đặc dưới vực đã dần dần tiêu tan, chỉ còn lại
mây mù trắng xóa mênh mông. Lão Trần định cử hai ba người thân thủ nhanh nhẹn
xuống trước thăm dò liền hỏi cả bọn: “Có ai muốn xuống không?”
Từ đám trộm mộ lập tức bước ra hai gã cao to vạm vỡ,
một kẻ tên Trại Hoạt Hầu, một kẻ tên Địa Lý Băng, đều là những cao thủ vượt núi
băng rừng. Bọn họ từ lâu đã mong có cơ hội thể hiện trước mặt thủ lĩnh, lần này
liền xung phong liều mình xuống vực thăm dò. Lão Trần khen họ dũng cảm rồi lệnh
cho hai người leo xuống.
Hai gã trai cúi mình nhận lệnh, miệng ngậm một miếng
bánh ngũ độc dược, lưng mang lồng bồ câu thử độc, eo giắt pháo hộp[19] và dao
găm, mũi miệng bịt kín bằng tấm the đen, thả xuống vực hai chiếc thang rết,
thoăn thoắt xuyên mây vạt sương, nhanh chóng mất dạng vào màn sương mù. Những
người còn lại đứng trên vách vực trông theo mà vã mồ hôi lo thay, chuyến này đi
sống chết thế nào đều trông cả vào số mệnh hai người họ.
[19]
Pháo hộp còn gọi là súng pạc-khọoc tức súng mô de quân đội thường dùng
Lão Trần tuy ngoài mặt tỏ ra bình tĩnh, nhưng thấy
việc hung cát khó lường, trong bụng cũng thấp thỏm không yên. La Lão Oai lại
càng sốt ruột, liên tục móc đồng hồ quả quýt ra xem, nhưng đợi mãi đợi mãi, cổ
vẹo mắt mỏi, réo gọi rát cổ bỏng họng mà dưới vực sâu vẫn lặng như tờ, chẳng thấy
bất kì động tĩnh gì, chỉ có lớp sương mù không lành càng lúc càng dày thêm.