47. Chờ Rác Biển (Nguyễn Tiến Đức)
Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông
Chờ Rác Biển
Nguyễn Tiến Đức
Trên đường vượt biển, nhiều
khi người ta nhìn thấy dấu hiệu sự sống, dấu hiệu của đất liền trong rác rưởi.
Tôi chờ rác biển còn hơn chờ
người tình đến. Lần thứ nhất tôi thấy đám rác chỉ là những chiếc giầy cao gót
của phụ nữ. Tôi vừa mừng vừa sợ. Sợ vì gần đấy có thể có ghe đắm. Mừng vì đó
cũng có thể là có một bãi cát nào rồi. Lần thứ hai thì cái đám rác đó lại có đủ
thứ như giấy, lon, chai lọ, dừa khô, mấy tàu lá chuối còn tươi nữa thì cái niềm
hy vọng nó càng lớn, nhưng cuối cùng cũng chỉ là mừng hụt...
Tôi đi tất cả ba lần. Hai lần
trước tới điểm hẹn thì ghe lớn không tới, lại phải trở về. Cứ chuẩn bị xong
xuôi lại đình. Chờ đợi rất mệt tim. Tụi du kích, công an địa phương chúng nó “căn
me” dữ lắm. Dễ gì qua mắt tụi chúng. Mua thịt về làm chà bông không đi được lại
ăn hết. Ăn hết rồi làm lại, chờ họ báo để chuẩn bị đi.
Lần thứ ba họ chỉ báo trước
có hai ngày thôi. Cũng như hai lần trước, tôi không mang nhiều đồ. Ba người chị
cản trở tôi quá mà tôi vẫn đi. Tôi là con út trong gia đình. Má tôi mất từ hồi
tôi mới được chín tháng. Má tôi có báo mộng cho bà chị thứ hai của tôi bảo con út
đừng có đi. Đi chuyến này khổ lắm. Nhưng tôi đã quyết định rồi. Chị Hai tôi có
nhờ bà dì năn nỉ tôi ở lại nhưng tôi vẫn nhất định đi là đi. Tôi cũng thấy
không có nao núng gì. Còn ba tôi thì mới mất. Thế là tôi không còn gì để luyến
tiếc Sài Gòn nữa, mặc dù tôi rất khổ tâm bỏ ba người chị ở lại. Hơn nữa tôi lại
có hai ông anh đang ở Mỹ rồi.
Cứ nghĩ tới đồng lương, tương
lai tù túng, mịt mù, ngày hôm sau cũng như ngày hôm nay, chán nản vô cùng. Tôi
làm kế toán cho Hợp Tác Xã Cơ Khí.
Trước khi đi tôi cũng nhờ ông
thầy khá nổi tiếng chấm tử vi. Thấy bảo đến năm mươi hai tuổi tôi mới đi được.
Không ngờ số năm mươi hai nó trùng với ngày sống dở chết dở của tôi trên biển
thôi. Ông còn nói lấy chồng tôi sẽ bị trắc trở tình duyên. Lúc đó tôi chỉ nghĩ
đến chuyện đi thôi, còn lòng dạ nào mà nghĩ tới duyên nợ. Nghe ông ấy “phán” về
nhà nản quá, nhưng tôi đã nhất quyết đi rồi. Tôi thử cãi số xem sao.
Tôi tình cờ gặp lại cô bạn cũ
ở Trà Vinh đã lâu rồi không gặp. Cô này cũng quen một cô ở Trà Vinh bán vải. Cô
ấy đang sửa soạn vượt biển. Tôi phải quyết định trong có ba ngày. Tôi không
biết mặt cô ấy, và cô ấy cũng không biết mặt tôi. Cứ thỏa thuận và tin nhau
thôi.
Tôi tìm đến nhà cô ấy vào một
buổi chiều mưa tầm tã. Tôi mặc một chiếc quần đen và một chiếc sơ mi sọc. Tôi
mang theo mì gói, củ sắn, sâm cao ly, hai hộp sữa đặc, và hai bốn viên thuốc chống
say sóng.
Khoảng hơn một giờ đêm tháng
9 năm 1989, có hai chiếc Honda chở tôi, chị Nguyệt và một thằng bé. Lúc đó lạ
lắm. Trời tự nhiên tạnh mưa. Tôi rất mừng vì dù sao cũng là điềm lành.
Hai người thanh niên chở
chúng tôi tới một cây cầu, rồi thả chúng tôi tại đó, và bảo sẽ có người liên
lạc để đưa ra ghe lớn. Lúc đó tôi cũng thấy có bốn người đang chờ. Sợ kinh
khủng. Chờ mà tim cứ đập thùm thụp. Thỉnh thoảng có xe hàng hoặc có người, mình
lại phải nấp xuống gầm cầu gần đó.
Rồi cuối cùng tôi thấy có ánh
đèn pin lia đi lia lại. Biết là “phe mình” mà vẫn cứ hồi hộp. Chúng tôi thấy
một ông già và ông ấy đưa chúng tôi xuống ghe. Trên ghe tôi thấy có bó mía.
Tảng sáng thì tôi thấy có
thêm ba chiếc ghe nữa cũng đang chờ ở đó. Chúng tôi lấy vải che kín cửa ghe.
Ngồi chờ cả ngày rồi mới được bốc ra ghe lớn. Tôi thấy người ta cũng kéo lên
ghe một cái xuống ba lá đựng mấy cần xé củi nữa. Tôi cũng chẳng biết họ mang
theo xuồng để làm gì. Thế là chiếc ghe lớn rời địa điểm đổ người. Không có
chuyện gì trục trặc. Tôi cũng mừng trong bụng.
Có một buổi tối tôi nghe thấy
ông Tư, người chủ ghe nói với anh tài công là phải châm dầu đều không thì máy
tắt liền, vì máy đã cũ rồi. Tôi nghe lén thôi, điều này làm tôi hơi ơn ớn.
Trên ghe có hai thanh niên
tên Dũng. Một anh là Dũng quăn, vì anh này có mái tóc xoăn tít. Còn anh Dũng
kia là anh tài công.
Ngày thứ hai thì tôi để ý đến
anh tài công để mắt đến một cô gái khá xinh. Hai người cứ quấn quýt lấy nhau
như “sam”, trò chuyện huyên thuyên. Quả nhiên cái điều tôi ơn ớn vào ngày thứ
ba nó là sự thật. Anh tài công mải nói chuyện với cô gái nên quên châm dầu vào
máy, thế là máy chết! Loay hoay mãi máy cũng không chạy. Mọi người lo sợ không
thể tả được. Có một thanh niên còn đòi phải cho anh ta một gói mì thì anh ta
mới sửa. Anh ta lấy con dao cùn và cái búa trên ghe, vặn vặn, đập đập lia lịa
mà máy cũng chẳng nổ. Lúc đó vào khoảng ba giờ chiều của ngày thứ ba. Mới ba
ngày mà đã có chuyện rủi! Cuối cùng chỉ có anh sửa máy là lời được gói mì.
Ngay lúc đó, có người nhìn
thấy con một tàu từ xa tiến lại gần. Người thì la, người thì hét, người thì vẫy
tay lia lịa. Rồi có thêm hai tàu nữa đến. Nó cứ đảo qua đảo lại rồi bỏ đi. Lúc
đó tôi quá thất vọng. Cổ cứ khô lại, mà miệng thì đắng. Gặp tàu nó không vớt
thì chừng nào mới vớt đây?
Đêm hôm đó họ lại hì hục sửa
máy, nhưng cái máy cũ quá không thể chạy được nữa.
Sang ngày thứ tư, mọi người
cứ nằm dài ra mà chờ tàu đi ngang qua để kêu cứu. Rất nhiều tàu, kể cả tàu có
mang cờ Nhật đi ngang qua mà họ cũng không ngó ngàng tới. Chúng tôi bắt đầu đói
rồi.
Tôi luôn luôn ôm cái giỏ đồ
ăn trong người. Lúc này tôi phải nhấm sâm để cầm hơi. Sức đã bắt đầu kiệt rồi.
Tôi cũng mang theo cả củ thục địa nữa. Có đồ ăn mà không dám ăn. Phải giữ để
thủ thân.
Tới ngày thứ chín, mệt quá
tôi đánh lấy một hộp sữa bò rồi lấy đầu con dao cùn người ta sửa máy hôm trước,
đục hai lỗ nhỏ xíu, mút một hụm sữa. Cái nỗi thèm khát nó dữ dội vô cùng. Ăn
sủa xong thấy trong mình khỏe lên. Tôi cũng cho chị Nguyệt mút một hụm.
Đêm đó mệt lả, tôi ngủ thiếp
đi, chẳng biết trời trăng là gì. Lúc tỉnh dậy, giỏ đồ của tôi mất hết trơn. Chỉ
còn lại có mấy gói mì gói. Tôi la lên rồi xin lỗi mọi người, đi tìm giỏ đồ ăn.
Nhưng có lẽ đói quá, họ ăn mất tiêu rồi. Lúc đó tôi thấy mạng sống của mình bị
đe dọa...
Đến ngày thứ mười tám, mọi
người trên tàu đều sống ngắc ngoải. Không còn cái gì có thể ăn được nữa. Cuối
cùng có anh Ba Phối và một người nữa tình nguyện đi cái xuồng ba lá chở củi mà
lúc đó xuồng đã hở rồi, để đi tìm tàu khác giúp.
Thế là ông chủ tàu và vài
người nữa phải mất một ngày “xàm” lại cái xuồng. Ông cũng yêu cầu ai còn vàng,
còn thức ăn gì thì cho anh Phối và người đi cùng. Tất cả thu được chín chỉ vàng.
Có một người Miên tên là Si-ba dấu được nửa lít cốm dẹp và một ít gạo mốc đã
sắp thành bột đem cho hai anh. Anh Ba Phối nói anh đi để cứu hai đứa con trai
không thì chúng sắp chết đói. Thằng anh rất đuối sức. Một đứa tên
Trung, một đứa tên Kiệt.
À, tôi còn quên một chi
tiết nữa. Cái con dao cùn mà tôi dùng để đục hộp sữa hôm nọ rất là
được việc. Họ đã dùng con dao này đẽo một cái bơi chèo lấy từ cái
bẹ ván ghe. Hai ông tài công cũng cho họ được ba xị nước. Có một
người còn cho hai anh một tấm nylon để hai anh làm mui che nắng. Nắng
ở biển giống như dầu hắc trải đường.
Tảng sáng ngày thứ mười
tám, chiếc xuống ba lá rời ghe đi tìm tàu để cầu cứu. Lúc đó trăng
sáng cả một vùng biển. Lúc hai người xuống chiếc xuồng, tự nhiên
nước mắt tôi cứ trào ra. Nhiều người khác cũng khóc như tôi. Tôi nghĩ
giữa biển cả mênh mông, mưa gió như vậy, chiếc xuống chịu sao nổi.
Lạ một điều là chiếc
xuống đi được một đỗi là mặt biển lặng như tờ, như một cái hồ. Mặt
biển im phăng phắc như một cái nhà mồ đến ba ngày như thế mà không
thấy chiếc xuống của anh Ba Phối và người bạn trở về. Chúng tôi
đoán chắc là cả hai người đã làm mồi cho cá mập.
Trong ngày thứ mười tám,
khát nước quá, ông chủ tàu đã dùng một cái nồi nhỏ và hai cần xé
củi còn lại nấu nước biển để chưng lấy nước uống. Họ tranh nhau lấy
mấy giọt nước uống còn hơn giật vàng nữa. Tôi liếm nước trên cái
vung đọng hơi nước mà cũng đỡ khô họng. Một người đàn bà không tranh
được nước, thức cả đêm nấu mà được có một chum nhỏ xíu.
Đến ngày mười chín thì trên
tàu còn dầu, nhưng ông chủ tàu không cho ai đụng đến để nấu nước. Ông ta cũng
có một cái vợt cá. Cái vợt mới được lắp cán. Ông giữ độc quyền vớt cá! Ông vớt
được cá là lấy dầu nấu giữ cho bốn người ăn riêng.
Tới ngày thứ hai mươi mốt có
một tàu xuất hiện, nhưng nó cũng đi luôn. Qua ngày thứ hai mươi tư, lại có một
tàu ghe lưới từ xa đến. Chúng tôi lấy quần áo cũ đốt để có khói cho họ nhìn
thấy. Thế là nó táp lại gần. Nhưng nó lại sợ mình là cướp. Thật khổ. Mình cầu
cứu người ta mà người ta lại sợ mình. Thuyền trưởng là người Mã Lai biết nói
tiếng Tàu. May mà trên ghe có anh Thoại, anh ấy biết nói được cả tiếng Anh lẫn
tiếng Tàu. Ông ta nói là chính phủ Mã Lai không cho tàu vượt biên vào. Ông ta
quăng dây xuống biển để truyền nước và thực phẩm xuống ghe.
Dũng quăn nhào ngay xuống
nước, lẹ như một con rái cá. Anh ta kéo cái dây vào sát ghe, rồi truyền hai can
nước bốn mươi lít đổ ngay vào cái khạp làm bằng da bò để trên ghe. Mọi người
tranh nhau uống. Tôi không được uống một giọt nào.
Họ cũng cho hai con cá, mỗi
con đến mười ký, hai thùng nước ngọt. Một thùng đựng hai mươi tư lon nước
chanh. Họ cũng cho thêm một túi gạo nhỏ. Nhưng chủ tàu và Dũng quăn giữ hết. Ai
có đóng tiền cho hai người đi xuồng ba lá hôm rồi thì mỗi người được một lon
nước ngọt. Gạo thì chỉ phát cho mỗi người một chung thôi. Rang lên còn đúng một
lòng bàn tay. Mấy bà có con nít thì cho gạo rang vào nước biển nấu thành cháo
cho con húp. Cá thì họ khía ra từng khía phát cho mỗi người.
Qua ngày thứ hai mươi lăm,
hai mươi sáu, họ mới mang nước ngọt ra bán. Năm phân vàng một lon. Ai không có
vàng thì đành chết khát thôi. Bao nhiêu nhẫn dây chuyền bỏ ra đổi lấy nước hết.
Bán nước ngọt xong họ bán tới nước trong hai cái can mà tàu Mã Lai cho. Thời
gian này anh tài công cũng vớt được cá, anh ta bán hai con cá năm phân vàng.
Tôi và Nguyệt đổi hết một chỉ rưỡi để lấy cá ăn cầm hơi. Ai không có vàng thì
mua chịu. Cứ ăn cầm cự như thế cho đến ngày thứ bốn mươi tư.
Có những ngày hứng nước mưa
cũng rất hào hứng. Chúng tôi hứng nước bằng những mảnh áo mưa đã rách tả tơi.
Tôi lấy ba mảnh áo mưa rách, xoi lỗ bằng cái đầu con dao cắt móng tay, rồi tước
dây nylon khâu từng mũi, ba ngày mới xong.
Có những trận mưa nhỏ trêu
chọc mình. Có rất nhiều mây đen tụ, gió gào thét dữ dội, rồi mây đen bay đi
hết. Chỉ rơi lác đác có vài giọt thế mà mình cũng phải liếm để mà sống sót. Con
nít sáu, bảy tuổi gì cũng lấy mảnh nylon bằng tờ giấy học trò đem ra hứng nước,
trông như một cái lễ đón mưa, vừa ma quái vừa vui. Như một đám thây ma đón mưa!
Sáng ngày thứ bốn mươi tư, có
một thằng bé xin ông chủ ghe cho nó một tí nước. Ông không cho và mắng: “Mày
làm biếng chết ráng chịu. Không chịu hứng nước như người ta. Mày mà lạng quạng
tao đạp mày xuống biển.”
Nó sợ lắm, vì ông ta đã từng
đạp vài người xuống biển rồi, may mà có người vớt lên.
Đến khoảng ba giờ chiều lúc
đó, tôi đang lim dim ngủ phía sau buồng lái, chợt tôi bật dậy như cái lò xo,
khi nghe thấy người ta la lên: “Thằng Hưng chết rồi!” Con bé Năm nó tưởng thằng
Hưng ngủ, nhưng sao đầu nó chấm xuống nước, mà kêu hoài nó cũng không dậy. Nó
đã tắt thở lúc nào cũng chẳng ai biết.
Cả ghe cùng khóc, tại vì
người ta thấy cái số phận của họ rồi cũng như Hưng thôi. Ông chủ ghe kêu hai
người đàn ông nữa khiêng Hưng lên phía trước khoang ghe. Thằng Hưng chỉ còn da
bọc xương. Hai hố mắt nó sâu hoắm. Trông nó như một khúc cây mục. Bây giờ tôi
vẫn bị khuôn mặt nó ám ảnh.
Người ta xin một bộ quần áo
cũ choàng cho nó. Ông chủ ghe đem một chung nước với một cái đuôi cá đã nấu
chín để cúng Hưng. Tôi nghe ông khấn vái: “Hưng ơi! Bây giờ mày đói mày khát,
cũng là lỗi tại tao. Mày sống khôn thác thiêng phù hộ cho tụi tao, đẩy chiếc
ghe này vào bờ. Nếu mày không đẩy thì tụi tao chết hết mất!”.
Cúng xong ông kêu mọi người
đến vuốt mắt cho Hưng. Mắt nó cứ mở trừng trừng. Tôi chỉ dám sờ nhẹ vào chân nó
và lắc lắc. Tôi khấn nó trong bụng như thế này: “Hưng ơi! Lỗi cũng tại chị. Chị
không cho em uống nước. Nhưng cũng vì sự sống mà chị phải thủ thân thôi. Em bỏ
qua cho chị. nếu em phù hộ cho ghe này đến nơi an toàn, chị sẽ cúng em một mâm
chị nguyện như thế!”.
Rồi người ta khiêng xác Hưng
ném tùm xuống biển. Nhưng thật rùng rợn! Cái đầu nổi lên mặt biển cứ theo sát
sau đuôi ghe hoài. Ông Tư bảo: “Cái thằng Hưng này kỳ cục thật! Nó sợ ở trên
biển một mình chắc?” Cái xác cứ theo ghe đến mấy tiếng đồng hồ, cho đến lúc có
một bầy cá heo nhào đến ghe, quần cái xác. Cá nhào lên nhào xuống. Tôi không
biết nó có ăn thịt người không... Nhưng mấy tiếng đồng hồ sau cái xác cũng mất
tiêu theo đàn cá heo. Có lúc tưởng ghe muốn lật vì đàn cá đó.
Trời tối sập xuống thật lẹ.
Hết thấy đường rồi. Mặt biển như một màn sương dầy đặc. Cũng đôi khi tôi lãng
mạn là đằng khác. Đói khát như thế mà thấy trời sao thật thơ mộng. Lúc đó có cả
vạn con cá táp vào hai mạn ghe loang loáng bạc dưới ánh sao đêm, trông giống
như cá rô biển lắm. Mỗi con đến nửa ký. Sao, nước biển, cá, cái đói khát, cái
chết... đan vào nhau thành một thứ ảo giác lạ.
Tôi cũng nghiệm thấy trong
chuyến đi này, cứ có một cái rủi sau đó lại có một cái hên, như có một bàn tay
nào trên cao sắp xếp mọi chuyện. Sau khi thằng Hưng chết ông Tư lại vớt được
đến bốn mươi con cá rô biển. Không chừng nó phù hộ cho mình!
Đêm đó trên ghe, người ta làm
cá vui như ngày hội. Mọi người đều thức làm cá, chẳng ai ngủ. Cũng có lúc người
ta hồi tâm. Ông chủ ghe lấy ra mười bảy con cá làm thịt phát không. Mỗi người
được một cục thịt cá. Ông cũng phát cho mỗi người một ít nước ngọt. Nhưng sau
đó thì ông ta lại bắt đầu bán cá. Một chỉ vàng mua được hai con. Có một anh tên
Thanh nhờ tôi bảo đảm mua cá chịu, khi nào lên đảo sẽ trả bằng đô la! Ông chủ
rất ghét anh này. Tôi có uy tín trên ghe lắm ông mới bán chịu.
Trên ghe có một cô tên Hồng.
Cô này đi chung với chồng nhưng ghe lạc nên bị bỏ lại Việt Nam. Cô ấy mang giày
dép quần áo của chồng đưa cho ông Tư đổi lấy cá ăn. Một đôi giầy chỉ được cái
đầu cá!...
Đến ngày thứ bốn sáu, trên
ghe lại có thêm người chết nữa. Đó là một cô gài người Trung Hoa, tên cô là
Lừng. Trước đó một tuần, cô ta mê sảng như người bị quỷ ám. Cô ấy có một cái áo,
lạnh cũng mang đổi cá để ăn. Lúc chết mình mẩy cô ta lạnh cóng và thâm tím.
Trên ghe chúng tôi cúng bái cô rồi thả xác xuống biển như lần Hưng chết.
Sau khi cô Lừng chết thì thấy
có một cái máy bay xuất hiện. Nó thả một thùng gì to lắm xuống biển. Mọi người
đoán có lẽ nó tiếp tế thực phẩm. Ông Tư bảo ai tình nguyện bơi ra kéo cái thùng
vào ghe, nhưng chẳng ai dám liều mạng, rồi thì chiếc máy bay cũng bỏ đi.
Sáng ngày thứ bốn tám, độ
khoảng sáu giờ chiều, có một cái tàu tiến đến ghe. Chiếc tàu đó tắp vào ghe.
Toàn công an Mã Lai. Họ kiểm soát ghe xem có vũ khí không rồi họ mới phát cơm,
nước, tôm khô, trứng tráng. Lúc đó mừng quá chẳng thấy đói. Những người đói quá
thì nằm liệt không ăn nổi.
Họ cột chiếc ghe vào tàu của
họ rồi kéo đi đến sáng ngày thứ bốn mươi chín, rồi họ ngừng lại tiếp tế nước,
bắp cải, đậu xanh hộp, dưa leo ăn một ngày không đủ. Cuối cùng họ tháo dây ròng,
bỏ ghe lại ở biển. Lại tiếp tục đói, lại tiếp tục chờ đợi, tiếp tục sống trong
kinh hoàng đe dọa.
Sang ngày thứ năm mươi, trời mưa
tầm tã. Lạnh khủng khiếp. Tôi mặc hai cái áo, lạnh mà răng vẫn đánh bò cạp.
Trên biển lúc đó có những đám rong to bằng cái nhà đang nổi lềnh bềnh. Thấy
rong biển trôi ai cũng mừng. Ông Tư thấy một cái cây bám đầy hến. Ông vít lấy
và dùng con dao cùn gạt một đống xuống sàn ghe. Người ta vớt rong ăn. Tôi ăn
thử nhưng nuốt không nổi.
Chợt có con bé tên Thoa la
lớn: “Tàu đến! Tàu đến!” Lúc ấy khoảng mười giờ sáng. Nhưng ngay lúc trông thấy
cái tàu thì một thằng bé trúng gió nặng. Người ta đánh gió cho nó. Cổ nó bầm
đen. Nhưng muộn quá rồi, tôi thì cũng gãn cạn dầu gió nên phải giữ để phòng
thân. Thằng Taxi đã tắt thở khi tàu Hy Lạp tới.
Mọi người quơ chân quơ tay
lia lịa ra hiệu cho chiếc tàu. Lúc đó tôi vốc hai vốc đầy hến biển cho vào túi
áo. Tôi cũng bốc một nắm ăn sống. Tanh mà ngọt không thể tả được. Ăn xong vốc
hến, tôi như được truyền một sức sống kỳ ảo, một phép lạ. Vỏ hến mềm nên tôi
nhai cả vỏ.
Lúc cái tàu Hy Lạp tiến đến
gần cái ghe, ông Tư nảy ra một ý kiến. Ông bảo khiêng xác thằng Taxi và ông Long
lúc đó đã kiệt sức lắm rồi lên sàn ghe để họ biết trên ghe có người sắp chết,
may ra họ cứu chăng...
Trên tàu họ chụp hình chiếc
ghe lia lịa. Tàu đi vòng đến ba mươi phút mà cũng không động tĩnh gì. Mọi người
lại thất vọng. Chắc nó lại bỏ đi như tàu của Mã thôi.
Cuối cùng chiếc tàu cứu chúng
tôi thật! Họ thả thang dây xuống cho những người khỏe lên trước. Lại tranh nhau
lên! May mà không có ai rớt xuống biển.
Những người yếu như tôi lên
sau. Tôi là người lên gần cuối chót. Những người không đứng dậy được thì phải
nhờ vào mấy cái cần xé đựng củi rồi kéo lên sau cùng.
Xác thằng Taxi và chiếc ghe
bị chiếc tàu dùng cái cần cẩu cẩu lên rồi đập xuống. Lúc chiếc ghe chìm, tôi và
nhiều người ứa nước mắt khóc không thành tiếng.
Lên tàu, những người thủy thủ
phải bế từng hai người như bế con nít đi tắm. Lúc đó đầu tóc tôi như rơm rạ.
Tôi sụt còn hai mươi chín ký! Mặt mũi cháy đen đúa như quỷ, đau có trắng trẻo
như bây giờ. Tắm xong họ phát cho phụ nữ những chiếc áo đầm rộng thùng thình,
trông tức cười mà chẳng ai còn hơi để mà cười. Họ sát xà bông cho mình và kỳ
lưng cho mình nữa! May mà họ không nhìn thấy chí bò trên đầu mình. Mà có thấy
thì chắc chẳng ai còn mắc cỡ gì. Mệt muốn chết.
Làm vệ sinh thân thể xong, họ
phát cho mỗi người một cục xà bông, bánh kẹo, mà đâu có ăn nổi. Chỉ khát nước
thôi. Khát đến khô họng. Mà bây giờ không cần có vàng mới có nước!
Khoảng tám giờ đêm hôm đó,
lại có một phụ nữ chết. Thật tội! Chị mang theo hai đứa con tám hoặc chín tuổi
gì đó. Bố chúng thì đang sống ở Mỹ, chờ vợ con sang đoàn tụ. Thế mà lại có thêm
một người nữa bị ném xuống biển. Hai đứa bé khóc mẹ trông thảm thương vô cùng.
Tới nơi rồi mà còn chết.
Tới mười giờ sáng ngày thứ năm
mươi hai tàu cặp bến Mã Lai. Nhưng tàu này nghèo quá không đủ tiền đóng cho
chúng tôi. Lằng nhằng thủ tục giấy tờ mãi tới bảy giờ tối mới lên được bờ. May
mà bà đại diện Cao Ủy Tị Nạn bảo lãnh nói sẽ đóng tiền sau. Tiền do chính phủ
Thụy Điển cấp.
Lên đến đất liền chúng tôi
mới biết là cái xuồng ba lá của ông Ba Phối, bố của em Trung và em Kiệt cuối cùng
đã trở về Việt Nam an toàn. Ông viết thư cho hai con nói họ phải lênh đênh trên
biển cả đến chín ngày mới gặp tàu đánh cá ở Thuận Hải vớt. Có bao nhiêu vàng
nộp hết lại còn phải theo tàu đánh cá hơn mười ngày nữa mới được thả. Thế mà
chúng tôi cứ tưởng cá mập ăn hai người rồi. Số không chết là không chết.
Bây giờ tới bến tự do, tôi
lại phải vượt biển lần nữa. Cái biển ESL, cái biển công ăn việc làm, biển hôn
nhân, biển nhớ gia đình, bạn bè, quê hương.
Nguyễn Tiến Đức
* Sinh ngày 9 tháng 3 năm 1937 tại Lạng Sơn.
* Tốt nghiệp đại học Sư Phạm Sài Gòn
* Giảng viên Anh Ngữ trường Sinh Ngữ Quân Đội
* Viết chuyện ngắn, phiếm luận và thơ trước năm 1975
tại Sài Gòn và sau năm 1990 tại Hoa Kỳ
* Đã xuất bản hai tập truyện ngắn và một tập thơ.