08. Xếp Vào Kỷ Niệm (Lê Thị Hoàng Anh)
Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông
Xếp Vào Kỷ Niệm
Lê Thị Hoàng Anh
Thúy đang loay hoay xếp lại
chồng sách báo ngổn ngang trên giường thì nàng nghe tiếng con trai gọi:
- Mẹ ơi! Con làm bài toán đố
này không được, mẹ chỉ cho con đi mẹ!
- Ừ, chờ mẹ một chút.
Cầm quyển vở của con lên tay,
chỉ đọc thoáng qua, Thúy không khỏi cau mày khó chịu khi thấy lối tuyên truyền
rẻ tiền của các cấp lãnh đạo ngay cả trong việc giáo dục trẻ con: “Trong một
trận đánh, ngày đầu quân ta anh hùng giết được bốn tên lính Ngụy. Ngày thứ hai,
giết thêm được tám tên. Ngày thứ ba, giết được hai tên. Vậy ba ngày đánh giặc,
chiến sĩ ta diệt được bao nhiêu tên lính Ngụy cả thảy?”. Thúy thừ người suy
nghĩ. Bé Kiệt thấy mẹ im lặng quá lâu, nó tựa đầu vào bắp vế mẹ, hỏi khẽ:
- Bộ khó quá, mẹ cũng không
làm được hả mẹ?
Thúy cười buồn vì nàng cũng
không biết phải giải thích thế nào với con. Từ biến động Bảy Lăm, chồng đã theo
gia đình di tản,Thúy và hai con còn kẹt lại, lòng Thúy đã nhen nhúm ý nghĩ táo
bạo là sẽ tìm đường để dẫn hai con vượt biên; giờ đây thêm một vấn đề con của
mình với một trí óc non nớt đang bị đầu độc bởi những tư tưởng hèn hạ thế này
thì chuyện lìa bỏ nơi đây chỉ là sớm muộn mà thôi! Nàng chỉ giúp con bằng cách
bảo nó viết ngắn gọn: 4+8+2=14 và cố tình né đi chữ “lính Ngụy” mà nàng biết
chắc con mình khi nộp bài lên cho “giáo viên” chấm sẽ không đạt được điểm cao.
Những đêm thức trắng, ngồi
suy nghĩ đủ phương cách hầu kiếm ra tiền để thực hiện một cuộc vượt biên, cứ
mỗi ngày nghe tên một người quen ra đi, có người thoát, có người bị bắt lại, có
người thì chưa nghe tin gì cả, tức là coi như mất tích, Thúy như ngồi trên lửa.
Phương cách nào để tìm cho ra tiền làm lộ phí, ngày càng đi vào ngõ cụt!
Vào một đêm thanh vắng, Thúy
đang vặn nho nhỏ chiếc radio cassette để lén nghe những lời ca ngọt ngào của
những ca sĩ đã thoát ra nước ngoài mà chế độ mới có lệnh cấm. Tiếng gõ cửa nhè
nhẹ khiến Thúy vội vàng tắt máy, nhét vội cái “đài” xuống gầm giường. Tiếng gõ
cửa lớn hơn. Nàng lên tiếng:
- Ai đó?
- Tui đây! Mở cửa cho tui “dô”
rồi nói “chiện”!
- Nhưng bà là ai?
- Tui là A Múi!
- A Múi là ai, tui đâu có
quen!
- Chời ơi! Mở cửa đi mà! Có
tin dui!
Thúy yên tâm, mở hé cửa ra
nhìn. Một bà xẩm không xấu, không đẹp, mặc chiếc áo hoa nhỏ li ti với quần tây màu
nâu, bà nhìn Thúy một lúc lâu rồi hỏi:
- Cô có phải là Lê Thị Thúy
không?
- Dạ, đúng! Mời bà vào nhà.
Có gì không bà?
- Có phải cô có hai thằng “con
chai”?
Thúy nghi ngờ:
- Có gì nói lẹ lên, hỏi như
điều tra, nghe ghê quá!
- Mà có đúng hông đã?
- Thì đúng!
- Ờ, cô có người “dà” đưa “dàng”
cho cô đây nè! À, mà cô cho tôi coi thẻ chứng minh nhân dân đi!
Thúy lặng người, bán tín, bán
nghi, chỉ sợ đây là một cái bẫy. Nàng dè dặt:
- Thẻ chứng minh của tôi làm
rồi mà công an phường chưa phát, chỉ có giấy tạm đây thôi.
- Ờ thì giấy đó cũng được.
Đưa cho tui coi có đúng tên thì tui mới giao “dàng” chớ!
Thúy vẫn cố gắng kiên nhẫn,
mặc dù lòng đã tin tưởng không bị lừa gạt đến bảy tám chục phần trăm.
- Không! Tôi không nhận đâu!
vì tôi đâu có biết ai gửi cho tôi?
- Chời ơi! “Dàng” mà chê! Nè,
ông Đỗ ở Mỹ, chịu chưa hả bà?
Giọng của bà ta thay đổi
tiếng “bà” thay cho tiếng “cô”, Thúy nghe và biết bà ta đang giận. Thúy hồi hộp
vào trong tủ lấy tờ giấy hộ thân đưa cho bà ta xem. Nàng không quên đưa tay chỉ
hai đứa con đang nằm ngủ say trên giường như ngầm cho biết về gia đình của
mình.
- Đó! Hai thằng con của tôi!
Bà xẩm rút trong cái bao vải
lớn ra một bao vải nhỏ, cầm săm soi kỹ rồi mới giao cho Thúy:
- Nè, đếm cho đủ đi, mười tám
cây tất cả!
Thúy run run đón nhận, đặt
xuống bàn, đổ ra, hất từng lượng vàng để đếm. Bà xẩm lên tiếng:
- Mở “da” coi cho kỹ đi, tui
đưa toàn “dàng” tốt không đó!
Thúy lặng người một lúc mới
đếm hết, nàng không dám tin đây là sự thật. Bà đưa cho Thúy quyển sổ và bảo
Thúy:
- Ký “dận” vô đây đi!
- Viết gì bây giờ hả dì?
- Thì ký tên nói mình “dận” đủ
mười tám cây!
Thúy răm rắp làm theo. Bà ta
thấy xong công việc bèn cáo từ, lúc đó Thúy mới hoảng hốt:
- Mời dì uống miếng nước rồi
đi!
Bà ta lắc đầu từ giã, vội
vàng bước đi khiến Thúy áy náy vì sự nghi ngờ lúc ban đầu của mình. Áp bao vàng
vào lòng. Thúy nghe mắt cay cay, nàng muốn đánh thức hai con dậy để nói cho
chúng nghe là ba còn thương nghĩ đến ba mẹ con mình. Nàng thì thầm với chồng ở
nơi xa xôi mịt mùng nào đó: “Bất chấp sống hay chết giữa biển khơi, em nhất
định sẽ tìm anh! Đợi em! Chờ em, nghe anh!”
Cuối tháng ba 1979, Thúy theo
lời chỉ điểm của một người bạn thân nàng móc mối được với một chuyến đi và tin
chắc sẽ tới bến một cách an toàn - đó là con đường Ra Đi Bán Chính Thức do nhà
nước tổ chức.
Ngày hẹn giao nộp vàng, người
anh trai của Thúy đã đi thế, anh ngụy trang trong lon nhôm Guigoz đựng cơm và
để vài miếng cá kho nằm trên mặt cơm. Trong lòng Thúy lúc nào cũng run sợ, có
thể nàng chỉ cần một người nào đó thét lên một câu “Có gì khai thật đi” là nàng
sẽ phun ra tất cả không thiếu một chi tiết nào, nhưng lúc nào nàng cũng im
lặng, không nói không cười với ai và cũng không dám bước ra khỏi nhà.
Đêm cuối, nàng và hai con tá
túc trong nhà người anh để sáng hôm sau ra đi cho được an toàn. Lòng Thúy buồn
rười rượi, nàng cứ cầm tay cha già áp lên má mình mà nước mắt tuôn ra, không
nói được một lời từ giã vì anh nàng đã dặn: “Ba già rồi, cho ba biết rủi ba lẩm
cẩm nói lại với chòm xóm là chết cả lũ đó!” Ba mẹ con ôm nhau ngủ đêm cuối cùng
trên đất Sài Gòn, nhưng Thúy không tài nào chợp mắt được. Hai mắt nàng cứ mở
thao láo. Thấp thoáng bóng ông anh đứng lấp ló nhìn vào, Thúy nhoẻn miệng cười
để anh không ngượng vì Thúy thấy mắt anh long lanh. Thúy tự dặn lòng: “Đến Mỹ,
bất cứ giá nào em cũng tìm cách cho anh thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng này”.
Ba năm anh đi “cải tạo” về, anh đã đi mòn không biết bao nhiêu đôi dép vẫn
không tìm được việc làm bởi lý lịch Sĩ Quan Chế Độ Cũ!
Tập trung tại một ngôi chùa
Tàu tại Bạc Liêu, đêm đầu tiên Thúy vô cùng vui sướng và tưởng chừng mình chỉ
còn gang tấc thôi là đến Mỹ vì đây cũng là nơi tập trung của đám người Hoa cùng
cảnh ngộ: Muốn ra khỏi Việt Nam để có một cuộc sống khác ở nước ngoài. Thúy
nghĩ chỉ tới khuya là sẽ được gọi lên xe, ra tàu vì tiền vàng đã đóng cho “chính
phủ”, ba mẹ con nàng mười sáu lượng. Có sự bao che của nhà nước thì cầm chắc
cái thắng trong tay! Thế mà... đã bốn tuần trôi qua, tiền cầm theo đi đường của
ba mẹ con đã gần cạn. Hai hôm nay, hai con còn được ăn cơm để cầm hơi, còn Thúy
thì ăn bánh mì không xịt xì dầu, ăn để cốt cầm hơi. Đêm ấy, vừa thiu thiu ngủ
thì tiếng la hét ầm ầm cách mùng của ba mẹ con chừng một chiếc chiếu. Đèn bật
lên. Một bà xẩm tay túm một thanh niên, tay còn lại đập lia lịa thật mạnh vào
mặt cậu ta bà la bài bài:
- Ngộ lang ngủ mà mày dám mò
ngộ hả?
Một tay bị nắm quá chặt, tay
kia xá lia lịa, chàng thanh niên nói:
- Cháu không phải mò bác đâu!
Cháu hết tiền rồi định ăn cắp của bác để ăn chờ ngày đi thôi. Chờ tàu lâu quá
cháu hết tiền rồi!
Nghe câu giải thích rõ ràng
của cậu ta, bà xẩm dịu bớt, xô hắn ngã sấp xuống nền gạch và bà la lên:
- Cái lồ chó lẻ! Lụng tới tao
lần nữa, tao quýnh bỏ mẹ mày!
Tiếng cười xen lẫn tiếng thở
dài của mọi người khi vở kịch kết thúc; nhìn mặt mũi chàng thanh niên sưng vù
lên, Thúy bặm môi quay đi hướng khác không bật cười nổi. Nàng chạnh nghĩ đến
mình mai mốt đây, trong tình trạng này, sẽ biết xoay sở làm sao? Căn phòng này,
mỗi ngày bao nhiêu tấn kịch vui buồn diễn ra một cách bất đắc dĩ. Đã có lần chủ
tàu cho biết là được công an báo tin rằng vì quốc tế lên án chế độ “nhà nước” phải
tạm ngưng, chờ lệnh mới sẽ cho đi ngay. Ai cũng hy vọng có tin ra đi đến một
cách bất ngờ, nên không người nào dám rời khỏi ngôi chùa, chỉ ra tiệm mua vài
món đồ dùng lặt vặt rồi lại về ngay điểm tập chung!
Hôm sau, mặt cậu thanh niên
sưng mọng lên, cậu vừa mượn được ít tiền của bà sư cô người Hoa để làm lộ phí
về lại Sài Gòn xin thêm tiền mẹ già ăn chờ ngày đi. Có lẽ ni cô cũng biết chắc
chắn tiền tàu chàng ta đóng đủ rồi thì thế nào cũng phải quay trở lại nên mới
yên chí mà cho mượn. Nhưng định mệnh thật trớ trêu! Ngay đêm ấy đoàn người đi
cùng chuyến với mẹ con Thúy có lệnh rời chỗ đến chỗ mới sẵn sàng lên “con cá
lớn”. Tất cả đều vui mừng nhưng không khỏi xót xa cho cậu thanh niên bất hạnh
ấy...
Ba ngày vật lộn với tử thần
vì biển động bất ngờ, mọi người chen chúc ngồi trong tàu, vừa đói, vừa khát...
Những cơn sóng dữ... đập vào hông tàu khiến tàu bị nứt một đường nhỏ, nước từ
từ chảy vào khiến cả tàu náo loạn. Nhiều người thay phiên nhau múc nước chuyền
lên boong tàu đổ nước ra ngoài trong lúc tiếng cầu kinh vang lên rì rầm trong
hầm tàu nhỏ bé, chật chội. Cuối cùng thì tàu của Thúy cũng may mắn gặp được tàu
của Mã Lai vớt và cho vào bờ, một hòn đảo nhỏ vô danh.
Đêm đầu tiên kinh hoàng với
những lính Mã Lai về việc chúng lục lọi tìm vàng và... tìm gái. Đêm thứ hai, cả
hoang đảo chìm đắm trong im lặng nặng nề đến nghẹt cả thở khi những tiếng bước
chân của lính Mã nghe xào xạo trong đêm. Bỗng một tiếng thét vang dội cả khu
vực. Thì ra một cậu bé bị bò cạp... kẹp! Những ngày đói khát, những đêm hãi
hùng khiến ai cũng lơ láo như là bị đói khát lâu năm. Ngày nóng như thiêu đốt,
đêm thì lạnh buốt xương. Cuối cùng... một dịp tình cờ vì có người đói quá. Trèo
lên trộm dừa, gặp lúc máy bay Hồng Thập Tự bay ngang qua, ông ta đánh liều vẫy
tay cầu cứu. Thế là người trên máy bay phát giác ra được tàu vượt biển của Thúy
bị đám lính Mã Lai giam lỏng để làm tình làm tội. Chiều đó, một chiếc tàu của Hồng
Thập Tự đến đảo, thương lượng với đám lính Mã chúng mới chịu cho đoàn người
khốn khổ rời đảo để vào đảo khác: đảo Pulau Bidong!
Đến đây rồi, mọt người lại
trực diện với những kinh hoàng mới: Không có tiền để dựng lều thì không thể nào
có chỗ trú mưa, tránh nắng. Ba mẹ con núp tạm dưới mái hiên của Trạm Y Tế, nhìn
vào những căn lều có giường, ghế đóng bằng gỗ thô sơ mà thèm thuồng một chỗ đặt
lưng! Ngày cũng như đêm, đi đâu, Thúy cũng đều ôm kè kè cái bao đựng quần áo
của ba mẹ con, đó là gia tài duy nhất của mẹ con Thúy!
Đứa con trai lớn đột ngột hỏi
mẹ:
- Mẹ nói tới đây gặp ba mà
sao con chẳng thấy ba?
Thúy im lặng vì nàng cũng
đang lo âu không biết phải tìm chồng bằng cách nào? Vì lúc Thúy còn ở Việt Nam
thì chồng nàng còn có địa chỉ nàng để nhờ người đem “quà” đến, Thúy chỉ biết mù
mờ rằng chồng “ở Mỹ”, không rõ ở đâu trên nước Mỹ. Nhìn con thơ cứ ngước mặt
lên chờ câu trả lời, Thúy đành phải trả lời bừa đi cho xong:
- Thì phải vài ba bữa nữa
người ta mới cho mẹ con mình gặp ba chứ con!
Đứa con của Thúy đưa tay lên
gãi đầu và càu nhàu:
- Sao ai cũng có nhà mà mình
không có nhà hả mẹ? Con không muốn ở đây, nắng quá hà!
Nhìn tấm lưng trần đen đủi
của hai đứa con ốm tong ốm teo, Thúy cố nén xúc động, bảo:
- Các con mặc áo vào để che
nắng thì bớt nóng!
Danh sách tàu của Thúy đã
được Cao Ủy Tị Nạn chấp thuận. Lần đầu tiên cả tàu được phát lương thực. Thúy
vui thật sự khi nghe hai đứa con nói với nhau:
- Bữa nay mẹ nói mình được ăn
no!
Đứng dưới cái nắng gay gắt
của Mã Lai, hơi nước biển tỏa lên không đủ cho mọi người một chút mát mẻ nào,
thêm chứng kiến chuyện một thanh niên lớn tuổi cứ trần truồng ngớ ngẩn đi lang
thang, nhiều lần cảnh sát Mã Lai túm lại lôi vô lều mặc quần áo cho, vài giờ
sau người vẫn y như cũ! Hỏi thăm mới biết anh ta vượt biển cùng gia đình, khi
tàu ra khơi bị ngu phủ Thái Lan giở trò hải tặc xáp vào tàu anh và đàn bà, con
gái trên tàu hầu như không thoát khỏi bàn tay hung bạo của chúng. Trong số đó
có vợ anh, có em gái anh! Anh đã chống lại và anh bị chúng ôm ném mạnh vào
khoang tàu va đầu quá mạnh nên bây giờ ra nông nỗi thế! Vợ anh, em gái anh bị
bọn hải tặc hành hạ xong ném xuống biển cùng với trẻ con, trong đó có đứa con
nhỏ của vợ chồng anh. Không phải chỉ có hai người đàn bà xấu số, còn nhiều nữa!
Người thanh niên này khi được cứu vớt (cùng với những người khác) thì trở
nên... vô hồn, khi thì nhớ, nhớ mang máng, khi thì quên, lắc đầu lia lịa và
nước mắt ngập mặt! Anh ta có lúc thấy thật hiền, có lúc tự dưng hung dữ, la hét
om xòm! Anh điên rồi! Anh thật sự là một người điên! Cũng may cho anh, anh
không biết mình cô đơn! Anh không biết mình đang ở trên đất lạ, anh vẫn tưởng
mình còn ở trong trại Cải Tạo, nhiều lúc anh gào tên “Bác Hồ” và hát bài quốc
ca của nhạc sĩ Văn Cao “Thề phanh thây xác quân thù...”.
Qua tuần lễ sau, cũng trong lúc
chờ đợi để lãnh phần rau tươi, Thúy thấy hai thanh niên gầy gò đang dìu một cô
bé đến trạm Y Tế với nét mặt đau đớn. Nàng tò mò hỏi han thì biết cô bé ấy mười
ba tuổi, trên đường vượt biển bị đám hải tặc Thái Lan gồm năm tên thay phiên
nhau hãm hiếp. Vì cô còn quá nhỏ, từ tuổi tác đến vóc dáng nên chúng đã dùng
dao xẻ ra cho rộng hỏng thỏa mãn thú tính. Thúy chỉ biết im lặng dõi mắt nhìn
theo từng bước chân của những người đồng bào mình mà lòng còn hơn bị ai xé rời
ra từng mảnh!
Một buổi sáng, Thúy đang dùng
sức để kéo hai đứa con lên con dốc để đến nhà một người quen hứa cho Thúy một
ít sữa bột bồi dưỡng cho hai con. Bỗng một trong hai thằng bé hét toáng lên.
Thúy hoảng hốt bế thốc nó đến trạm Y Tế. Thằng nhỏ út thì không biết chuyện gì,
thấy mẹ bế thằng anh thì cứ cắm đầu chạy theo mẹ, vừa vấp vừa khóc, rồi lại lật
bật ngồi dậy, đứng lên lảo đảo chạy theo như cái bóng... đến trạm Y Tế. Bác sĩ
khám, mới biết: bệnh thòng ruột của nó bị tái phát.
Đợi tin chồng từ hy vọng đến
tuyệt vọng, Thúy mệt mỏi với bao nhiêu áp lực đè nặng. Thúy đã gửi đi ba mươi
lá thư nhờ người mang đi khi họ rời đảo với địa chỉ ghi ở Pháp trên họ của
người em chồng (cô ta có chồng là người Ấn Độ). Bức thư thứ ba mươi ba, câu
cuối cùng, Thúy nhớ hoài nàng đã viết trong đau đớn: “Nếu anh đã có gia đình
cũng xin cho em biết để em định liệu đời em và hai con - Thúy.” Bức thư này
Thúy nhờ hội Hồng Thập Tự chuyển hộ với địa chỉ KBC 3750 dưới họ tên cấp bậc
của chồng chớ không với cái địa chỉ tại Pháp. Lá thư viết trên giấy bạc của một
gói thuốc lá Thúy nhặt được trên bờ biển Bidong. Thư đi, gặp lúc phái đoàn Úc
dến nhận thêm một số người di dân gọi là “Hốt Rác” (tiếng lóng có nghĩa là
ai-không-có-thân-nhân, hai chữ “hốt rác” từng lọt vào tai phái đoàn Mỹ, họ đã
giải thích nghe rất cảm động: “Chúng tôi làm việc nhân đạo và các anh chị không
phải là rác rến!”). Các phái đoàn không biết có cảm thông trước tình trạng số
người vượt biển phải ở trại ngày càng đông, ngày càng lâu, tự họ đã cảm thấy
mình chẳng khác nào đồ bỏ rồi! Thúy nản lòng lắm, nàng xin đi Úc và được phái
đoàn Úc gọi lên phỏng vấn. Chỉ hôm sau là có người tới đón số người nhập cư Úc.
Thúy không còn tin tưởng ở số may của mình nữa (nàng có đi coi bói ở Việt Nam,
bà thầy bói nói Thúy có số may, chao ôi!). Điều duy nhất lúc này nằm trong đầu
Thúy là làm sao cho hai con lên được một lục địa văn minh, vào một bệnh viện
xin chữa bệnh thòng ruột cho thằng con lớn. Hai đứa con của nàng ngày một héo
hắt, tiều tụy, trông thương quá là thương.
Nhưng cái thư viết trên tờ
giấy thuốc lá thế mà may mắn! Hội Hồng Thập Tự đã làm phóng ảnh nó và gửi đi
các hội thiện nguyện nhờ tìm hỏi giùm người sĩ quan có họ tên đó, từng ở KBC đó
và trời ơi... chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa thì ba mẹ con Thúy lên tàu đi Úc,
loa phóng thanh vang dội tên nàng gọi lên văn phòng trại nhận một điện tín
khẩn! Thúy đâm đầu chạy lên phòng thông tin! Nàng run rẩy đón nhận tờ điện tín,
mở ra đọc liền: “Em vẫn là dâu nhà họ Đỗ. Anh luôn yêu và chờ em cùng hai con. Anh
sẽ làm thủ tục bảo lãnh gấp”. Nàng lao đầu chạy thẳng vào chỗ phái đoàn Mỹ và
Úc, may mắn gặp một người Mỹ biết nói tiếng Việt, người đó chận Thúy lại, hỏi: “Bà
cần gì?”. Thúy chìa tờ điện tín và nàng nói, nói thật nhiều, bao nhiêu uẩn khúc
trong lòng nàng tuôn ra hết, không cần biết người trong phái đoàn Mỹ có hiểu
hay không...
Không lâu sau đó, ba mẹ con
Thúy đoàn tụ với chồng, với gia đình chồng thì đúng hơn. Tới Mỹ, Thúy vỡ lẽ ra
là người em bà con bên chồng nàng không ở Pháp nữa, lâu rồi, cả gia đình dọn
qua Mỹ trước khi thư nàng từ đảo tị nạn gửi đi. Ba mươi hai bức thư không được
phát hoàn, cũng đúng thôi vì phương tiện ở đảo thủa ấy thật khó khăn.
Đi về phía mặt trời mọc,
nhiều khi Thúy bồi hồi nhớ lại câu của người tài công chiếc tàu vượt biển đã
nói: “Cứ nhắm hướng mặt trời mọc mà đi tới, tới đâu cũng được, càng xa Việt Nam
Xã hội Chủ nghĩa càng tốt”. Chiếc tàu của Thúy tắp vào Mã Lai có lẽ vì xuôi
dòng nước và con sóng. Từ năm 1979 đến nay, năm 2002, Thúy nhớ lại, giật mình,
tưởng mình vừa tỉnh một cơn mơ...
Chuyến đi của Thúy có gian
nan thật đó, nhưng cũng nhiều may mắn là đã tới bến bờ, trong khi bao chuyến
khác, cái may thật ít, cái rủi thì nhiều. Mấy câu thơ của ai làm ra trong thời
dân mình bỏ nước, đơn sơ, mộc mạc mà thâm thúy lạ lùng: “Một là con nuôi má,
hai là con nuôi cá, ba là má nuôi con!”.
Ai cũng hiểu rằng nếu đến
vùng đất tự do an lành thì con sẽ gửi tiền về để đền ơn công lao sinh thành
dưỡng dục của mẹ, nếu chẳng may gặp phong ba bão táp giữa biển khơi thì xác con
làm mồi cho cá. Là nếu bất hạnh hơn cả cái chết là bị công an biên phòng bắt được
thì... “Má ơi! Con đang bị tù tội đây, má hãy bán... bán máu để nuôi con!”.
Những cuộc hành trình trên
biển Đông là một niềm đau của dân tộc Việt. Hầu như ai cũng muốn quên đi để
sống, hôm nay có người khơi lại, Thúy nghe nhức nhối như muôn vàn mũi kim châm
vào tim, và Thúy viết - một lần sau cuối rồi vĩnh viễn... và vĩnh viễn nàng xếp
vào kỷ niệm.
Lê Thị Hoàng Anh