Gia tộc ma cà rồng (Tập 4) - Chương 11
Chương Mười Một
Mimi
Bốn Venator chỉ gây ra tiếng động rất khẽ khi họ đáp xuống mái của tòa nhà.
Những bước chân của họ có thể bị nhầm lẫn với tiếng xào xạc của cánh chim hay
tiếng những viên đá cuội lăn xuống sườn đồi. Đây đã là đêm thứ tư của họ ở Rio,
họ đang ở khu phố ổ chuột Rocinha, kiểm tra một cách có hệ thống số dân, từng
dãy nhà, từng khu phố, từng túp lều đổ nát, xiêu vẹo. Họ tìm kiếm tất cả mọi thứ
- những mảnh kí ức, một từ ngữ, một hình ảnh – những thứ có thể giúp làm sáng tỏ
điều gì đã xảy ra với Jordan và cô bé có thể đang ở đâu.
Mimi đã quá rành công việc phải làm đi làm lại này tới mức cô có thể
hành động trong giấc ngủ của mình. Hay đúng ra, là giấc ngủ của họ. Nhìn những
Máu Đỏ này xem, thật ấm áp và an toàn khi họ chìm sâu vào giấc ngủ, cô nghĩ. Họ
không biết rằng các ma cà rồng đang nhón chân nhẹ nhàng đi qua những giấc mơ của
họ.
Kí ức là những điều phức tạp, Mimi nghĩ khi cô bước vào thế giới chạng
vạng của trí tâm thuật. Chúng không ổn định. Chúng luôn thay đổi theo cảm nhận
với thời gian. Cô nhìn thấy cách chúng chuyển động, hiểu được việc thời gian
trôi qua tác động đến chúng như thế
nào. Một người lao động chăm chỉ có thể hồi tưởng lại tuổi thơ như một quãng thời
gian đầy khó khăn và gian khổ, luôn bị dọa nạt bởi những tiếng huýt sáo và điểm
danh của những kẻ chuyên bắt nạt học sinh trong trường, nhưng sau đó đã thông cảm
và độ lượng hơn với những điều bất công trong quá khứ. Những bộ đồ tự may mà
anh ta bắt buộc phải mặc đã trở thành kỉ vật tượng trưng cho tình yêu của mẹ
anh ta, từng miếng vá đường khâu đều thể hiện sự cần mẫn của người mẹ thay vì một
dấu hiệu của sự nghèo khó. Anh ta sẽ nhớ người bố đã thức khuya giúp anh ta làm
bài tập về nhà, nhớ sự kiên nhẫn và cống hiến của ông cụ, thay vì nhớ lại tâm
trạng bực bội của ông ấy mỗi khi trở về nhà muộn từ nhà máy.
Kí ức còn đi theo nhiều hướng
khác nữa. Mimi đã từng nhìn lướt qua hàng ngàn kí ức của những người phụ nữ bị
ruồng bỏ, những người tình đẹp trai của họ, quay sang xấu xí và thô lỗ, mũi của
người Roman có lẽ quá nhọn, đôi mắt trở nên nhỏ và tầm thường, trong khi những
chàng trai bình thường khác – những người trở thành chồng của họ thì ngày càng
hấp dẫn theo thời gian, vì vậy khi được hỏi đó có phải là tình yêu sét đánh
không, họ hồ hởi trả lời là đúng.
Kí ức là những bức tranh
chuyển động, ở trong đó nghĩa là phải thay đổi liên tục. Đó là những câu chuyện
người ta kể cho chính bản thân mình nghe. Sử dụng trí tâm thuật – thế giới ngầm
của kí ức và bóng tối, một không gian mà ma cà rồng có thể tiếp cận để đọc vào
điều khiển trí óc – cũng giống như việc đi vào phòng tối, vào một phòng thí
nghiệm nơi các nhiếp ảnh gia rửa những tấm phim của họ, nhúng chúng vào những
chiếc khay nóng đựng hóa chất, phơi khô chúng với những giá treo bằng nilong.
Mimi nhớ căn phòng tối ở trường Duchesne, cô đã từng trốn ở đó với những người
bạn thân như thế nào. Quay tròn theo cánh cửa xoay, bỏ lại sau lưng thế giới đấy
sắc màu của trường học để đi vào một không gian chật hẹp và quá tối tăm khiến
cô tự hỏi trong giây lát, liệu có phải cô đang bị mù không. Nhưng ma cà rồng có
thể nhìn trong bóng tối, tất nhiên là vậy rồi.
Họ có còn những căn phòng tối
nữa không nhỉ, trừ những cái ở trong phim nơi bọn họ phải lần theo những tên giết
người hàng loạt? Mimi băn khoăn. Bây giờ tất cả mọi người đều đã có máy ảnh kĩ
thuật số. Những căn phòng tối đã trở thành ra cổ lỗ sĩ. Giống như những bức thư
viết tay và những cuộc hẹn chính thức đầu tiên.
Những căn phòng tối ư,
Force? Em không gây chú ý với tôi khi là một nhiếp ảnh gia đâu.
Nhưng tôi sẽ làm cho anh phải
chú ý, Mimi đáp lại.
Ha ha.
Quay trở lại với đối tượng của
anh đi. Anh sẽ làm người của tôi thức giấc đấy.
Việc Kingsley tạt qua tâm
trí Mimi là vi phạm pháp luật. Bốn Venator có thể cảm nhận lẫn nhau, nhưng họ vẫn
phải ở những luồng cách biệt, theo dõi những giấc mơ khác nhau. Họ đã xâm nhập
vào một phòng ngủ tập thể dành cho nữ trong thành phố, nơi các cô gái ở những
vùng xa xôi hẻo lánh trả một số tiền rẻ mạt để có được một chỗ nằm.
Mimi đang ở trong kí ức của
một cô gái. Cô gái ấy cũng cùng tuổi với cô ở vòng đời này, áng chừng vậy, mười
bảy tuổi.
Cô gái làm công việc của một
nữ phục vụ phòng trong một khách sạn. Mimi đọc lướt qua quãng thời gian ba
tháng trước trong cuộc sống của cô; nhìn cô ấy trải giường và dọn sạch rác, hút
bụi trên thảm và đút túi một chút tiền bo mà những người khách để lại trên chiếc
bạn cạnh giường ngủ; nhìn cô ấy đợi bạn trai mình, một người làm nghề giao báo
bằng xe đạp, sau khi xong việc lại làm ở quán cafe. Công việc, bạn trai, công
việc, bạn trai. Chuyện gì vậy? Giám đốc khách sạn kéo cô gái vào văn phòng của
ông ta và bắt cô ấy cởi áo. Thú vị đấy. Nhưng đó có phải là sự thật không?
Trải qua khóa đào tạo Venator
cũng có nghĩa là Mimi đã được học cách phân biệt hư cấu với hiện thực, khả năng
với thực tế. Cô gái này đã bị lạm dụng bởi ông chủ của mình hay chỉ là cô ấy sợ
điều đó sẽ xảy ra? Có vẻ giống như là một cơn ác mộng hơn. Mimi đặt ra một tình
huống cưỡng ép: cô tưởng tượng cô gái đẩy ông chủ của cô ta ra, đá ông ta trúng
ngay chỗ đáng bị đau. Đấy. Nếu chuyện đó có bao giờ xảy ra, thì giờ cô gái đã
biết phải làm gì rồi đấy.
- Nói đi. Lennox Một? – Giọng
của Kingsley vang lên trong bóng tối.
- Không có gì.
- Hai?
- Không có gì.
- Force?
Mimi thở dài. Chẳng có dấu
hiệu nào của người Giám sát trong suy nghĩ của bất kì cô gái nào.
- Không có gì.
Cô mở to mắt, chớp chớp đôi
mắt rồi mở ra. Cô đang đứng trước cô gái, cô ấy đang ngủ một cách ngon lành dưới
những tấm bìa dùng để đắp. Mimi nghĩ cô gái ấy đang nở nụ cười trên môi. Không
việc gì phải sợ cả - Mimi nghĩ. Một cô gái có thể làm bất cứ những gì cô ấy muốn.
- Được rồi. Đi khỏi đây thôi
– Kingsley dẫn họ đi trong màn đêm, qua những con đường không trải nhựa và những
gò đất dễ sụp dẫn đến những căn nhà tạm bợ ọp ẹp, xiêu vẹo, được ghép thành một
dãy và những căn hộ chung cư ăn sâu vào trong núi.
Cô theo cả đội leo lên đồi,
đi qua những thùng rác đầy tràn ra và những đống phế liệu cũ nát. Không phải tất
cả những thứ đó đều khác biệt so với Manhatta, Mimi nghĩ vậy, mặc dù thật đáng
ngạc nhiên khi thấy con người sống với nhau san sát, chật chội thế nào và hoàn
cảnh của họ đối lập ra sao. Cô đã nhìn thấy những ngôi nhà – thực chất là những
túp lều lụp xụp – không có nước máy và không có nhà vệ sinh, nhưng trong phòng
khách của họ lại khoe chiếc ti vi bốn mươi hai inch màn hình phẳng và những chiếc
ăng ten chảo vệ tinh. Những chiếc ô tô bóng loáng của Đức trong gara tạm bợ
trong khi những đứa trẻ lại chẳng có giày để đi.
Tiếng nói chuyện của những đứa
trẻ, cô nghe thấy tiếng chúng trước khi nhìn thấy chúng. Một bầy trẻ nhỏ nhốn
nháo cứ quanh quẩn theo họ suốt một tuần nay. Gương mặt chúng đầy những vết bẩn
bởi nhựa đường, những bộ quần áo rách rưới của chúng in biểu tượng của các đội
tuyển thể thao Mỹ đã bạc phếch, bàn tay chúng chìa ra, lòng bàn tay ngửa lên,
trống trơn. Điều đó khiến cô nhớ đến dịch vụ thông báo thông tin công cộng vẫn
từng được phát vào mỗi buổi tối: “Bây giờ là mười giờ tối. Bạn có biết những đứa
con của bạn đang ở đâu không?”
- Quý cô xinh đẹp, quý cô
xinh đẹp – những đứa trẻ cất tiếng hát, đôi chân trần của chúng giậm xuống con
đường mòn ẩm ướt.
- Xùy! – Mimi rít lên, đuổi
chúng đi như những con ruồi phiền toái – Hôm nay ta không có gì cho chúng bay
đâu. Không có gì đâu. Để cho ta yên! – Đừng làm phiền đến ta.
Sự nài nỉ của chúng khiến cô
đau đầu. Cô không chịu trách nhiệm về những con người này, những đứa trẻ này...
Cô là một Venator đang làm nhiệm vụ quan trọng chứ không phải là người nổi tiếng
đang trong cuộc giao lưu với công chúng. Bên cạnh đó, đây là Brazil, một đất nước
phát triển. Nhiều nơi trên thế giới còn xa xôi hẻo lánh hơn nhiều. Thực chất,
những đứa trẻ bụi đời này không biết rằng chúng vẫn còn may mắn đến nhường nào.
- Cô ơi, cô ơi – Một đứa trẻ
- một cô bé dễ thương với chiếc áo sẫm màu mặc bên trong, búi tóc xoăn đen huyền
– đang túm lấy vạt áo sau của cô. Như những Venator khác, Mimi đang mặc chiếc
áo khoác polime và chiếc quần nilong không thấm nước, đó là trang phục quy định.
Cô đã từ chối đi đôi bốt bất tiện (chúng làm chân cô trông to hơn), và lại đi
đôi bốt cao gót bằng lông ngựa.
- Ôi, được rồi – Mimi nói.
Đó cũng là lỗi của cô khi bọn trẻ cứ luẩn quẩn quanh chân mình. Thay vì cố gắng
làm trái tim mình trở nên cứng rắn hơn, để giữ thái độ bình thản, khắc nghiệt
và thờ ơ lãnh đạm trước những gương mặt thật sự đáng thương vì cảnh nghèo –
Mimi dường như còn coi căn phòng đạt chuẩn của cô ở khách sạn (thậm chí không
phải là một căn hộ!) đã đủ thiếu thốn rồi – cô nhận ra rằng mỗi khi những đứa
trẻ tụ tập xung quanh cô thì cô lúc nào cũng có thứ gì đó cho chúng.
Một viên kẹo. Một dollar.
(Hôm qua là mười dollar cho mỗi đứa) Một thanh socola. Hay thứ gì đó. Những đứa
trẻ gọi cô là Senbora Bonita[36].
[36] Tiếng Bồ Đào Nha, có nghĩa
là “Quý cô xinh đẹp.”
Hôm nay không có gì cho các
em đâu! Thật đấy! Chị hết rồi! – Cô cam đoan.
- Chúng sẽ không bao giờ tin
lời em đâu. Sẽ không đâu vì em đã nhượng bộ ngay từ ngày đầu tiên. Kingsley nói
với vẻ thích thú.
- Cứ như thể là anh khá hơn ấy
– Mimi càu nhàu, với tay lấy chiếc balo sau lưng cô. Cả bốn người đều rất mềm
lòng. Hai người anh em sinh đôi cho chúng những viên kẹo cao su thổi bóng trong
khi Kingsley thì luôn được mong đợi sẽ cho chúng những chiếc bánh nướng kibe
mua từ những chiếc xe chở hàng ở thành phố.
Cô bé với mái tóc xoăn kiên
nhẫn chờ đợi khi Mimi mang ra một chú chó đồ chơi bằng len đặc biệt dành riêng
cho cô mà vừa mua từ cửa hàng lưu niệm sáng nay. Con thú bằng len ấy có khuôn mặt
khiến cô nhớ về chú chó cũ của cô. Cô đã ước chú chó xù ngoan ngoãn đó sẽ luôn ở
bên cô, nhưng mong muốn bảo vệ chú chó thân thương ấy đã giảm dần trong những
năm thực hiện phép biến đổi vừa rồi.
- Đây. Cho tất cả các em
chia nhau đấy – cô nói khi giơ ra một hộp kẹo to – Bây giờ thì đi đi!
- Cảm ơn cô! Cảm ơn quý cô!
– Chúng hô vang khi chạy đi với chiến lợi phẩm dành được.
- Em có vẻ thích chúng –
Kingsley nói với nụ cười nửa miệng khiến Mimi tức điên lên vì nó khiến anh ta
trông đẹp trai hơn.
- Không đời nào – Mimi lắc đầu,
không nhìn vào mắt anh ta. Có lẽ cô đã uống quá nhiều nước ngọt Coca-cola của
Mexico mà họ mang đến đây. Hoặc có thể chỉ là do cô đã quá mệt mỏi, đơn độc và
phải xa nhà. Từ nơi nào đó sâu thẳm trong trái tim đen tối của Azrael, có một
thứ gì đó đang tan chảy.
MẤT TÍCH
- Cháu phải hỏi Charles.
Cháu phải hỏi hắn ta về những cánh cổng... về sứ mệnh của dòng họ Van Alen và
những con đường chết chóc.
Đó là những lời cuối cùng của
ông ngoại cô.
Nhưng Charles Force đã bỏ đi
ngay khi Schuyler trở về New York. Qua những người quen biết với ông ấy ở
Kho lưu trữ, Oliver biết được rằng vào một buổi chiều Charles vẫn đi bộ thong
dong qua công viên như mọi ngày nhưng không thấy quay trở về nữa. Việc đó đã xảy
ra từ một tuần trước. Vị cựu Rigis đã bỏ đi không một lời nhắn nhủ, không một lời
giải thích. Và hiển nhiên, ông ta để lại một mớ hỗn độn. Công ty Force đã mất một
nửa giá trị của nó trong vụ khủng hoảng thị trường chứng khoán, các ban ngành kịch
liệt phản đối: công ty của họ đang chìm dần và thậm chí không có thuyền trưởng
chèo lái con tàu.
Nhưng chắc hẳn phải có ai đó biết ông ta đang ở đâu, Schuyler nghĩ, và
vào một buổi sáng cô đã chờ Trinity Force ở thẩm mỹ viện nơi bà ta vẫn tới nhuộm
tóc. Người lãnh đạo cấp cao của xã hội New York đang mặc chiếc áo choàng lụa và
ngồi dưới chiếc đèn nhiệt.
- Ta biết là cháu đã nghe tin tức – Trinity lạnh nhạt nói rồi đặt cuốn
tạp chí xuống khi Schuyler ngồi cạnh bà ta – Charles ắt phải có lí do chính
đáng cho hành động của ông ấy. Ta chỉ ước giá như ông ấy có thể chia sẻ điều đó
với ta.
Schuyler kể cho bà ta về những lời trăng trối của ông Lawrence lúc còn ở
trên đỉnh núi, hi vọng Trinity có thể làm sáng tỏ lời nhắn nhủ đó.
- Sứ mệnh của dòng họ Van Alen – Trinity nhắc lại, soi mình trong gương
và vỗ về chiếc hộp nhựa đựng đồ nữ trang của bà ta – Cho dù nó có là gì đi
chăng nữa, Charles đã quay lưng lại với tất cả những thứ mà ông phải làm cho
“gia đình của ông ấy” từ lâu rồi. Lawrence luôn lỗi thời giống như ông ấy vốn vậy.
- Nhưng ông Lawrence khẳng định
Charles chính là chìa khóa.
- Lawrence đã kết thúc rồi –
Cái cách Trinity nói như thể ông Lawrence chỉ đơn thuần là một diễn viên đã kết
thúc vai diễn của mình trong một vở kịch. Không phải đã qua đời. Không phải đã
mất. Không phải đã ra đi mãi mãi.
Đã kết thúc rồi.
Vẫn còn một điều nữa – một
điều gì đó rất lạ ông cô đã từng nói mà Schuyler muốn xác nhận lại. Cô không chắc
liệu bà Trinity có biết gì về việc đó không, nhưng cô cần phải hỏi.
- Ông cháu còn nói rằng cháu
có một người chị gái, rằng chị ấy sẽ là... chị ấy sẽ là tử thần của chúng ta –
Schuyler cảm thấy mình thật ngớ ngẩn khi cứ lặp lại câu nói một cách xúc động –
Cháu có một người chị gái chứ?
Trinity không trả lời cô một
lúc lâu. Âm thanh của chiếc máy sấy và những lời tán gẫu của khách hàng với nhà
tạo mẫu tóc của họ đã lấp đi sự yên lặng. Cuối cùng khi bà ấy lên tiếng, giọng
bà ấy rất khẽ và thận trọng.
- Về khả năng rằng mẹ cháu
có một người con gái khác, đúng là như vậy. Nhưng chuyện đó đã lâu lắm rồi, rất
lâu trước khi cháu được sinh ra, ở một vòng đời khác, trong một thế kỉ khác. Cô
gái đó đã được chăm sóc. Lawrence và Charles đã chăm lo cho nó. Lawrence... Một
lí do khiến ông ấy phải chịu sự đày ải là vì ông ấy không bao giờ từ bỏ những ý
nghĩa kì quặc của mình. Ông ấy đã chết rồi, Schuyler, và cháu cần phải hiểu...
ông ấy chỉ đang hoài công vô ích, cố gắng để giải quyết hậu quả. Thậm chí ông ấy
có thể mất hết lí trí rồi.
Vậy là Lawrence đã nói sự thật.
Cô có một người chị gái. Đó
là ai? Từ bao giờ? Cô ấy đã chết chưa? Được chăm sóc ư? Điều đó có nghĩa là gì?
Nhưng Trinity từ chối trả lời kĩ hơn.
- Ta đã nói cho cháu quá nhiều
rồi – Bà ta nói với vẻ khó chịu.
- Hội Kín yêu cầu cháu xác
nhận những điều đã xảy ra ở Rio vào ngày mai. Bác sẽ đến đó chứ? – Schuyler hỏi
với vẻ đượm buồn. Bỗng nhiên điều này khiến cô cảm thấy cô cần mẹ trong cuộc đời
biết nhường nào. Trinity chưa bao giờ cố gắng thay thế vai trò ấy, nhưng bà có
cách sống thực dụng và thẳng thắn khiến Schuyler nhớ tới bà Cordelia. Điều đó
chẳng có gì là tốt đẹp.
- Ta xin lỗi, Schuyler,
nhưng ta không thể đến đó được. Như thường lệ, Máu Đỏ đã để lòng tham kiểm soát
hệ thống tài chính. Charles đã bỏ đi, ta bị buộc phải tham gia vào ban điều hành
để làm những gì có thể, dù là rất nhỏ để kìm hãm cuộc tắm máu. Ta sẽ đến
Washington vào tối nay.
- Không sao đâu ạ - Schuyler
không mong muốn gì nữa.
- Schuyler? – Trinity nhìn
cô đầy vẻ sắc sảo, giống như những bà mẹ thường biểu hiện mỗi khi trừng phạt đứa
con gái bướng bỉnh của mình – Từ khi cháu trở về, phòng của cháu vẫn trống
không.
- Cháu biết – Schuyler đáp lại
một cách đơn giản – Cháu không định sẽ sống với gia đình bác nữa.
Trinity thở dài.
- Ta sẽ không ngăn cản cháu.
Nhưng cháu nên biết rằng một khi cháu rời khỏi ngôi nhà của chúng ta, cũng có
nghĩa là rời khỏi sự bảo vệ của chúng ta. Chúng ta không thể giúp cháu.
- Cháu hiểu. Cháu sẽ chấp nhận
rủi ro đó – Dù không phải thói quen, Schuyler và Trinity trao nhau những chiếc
hôn gió lên má và nói lời tạm biệt. Schuyler rời khỏi chiếc ghế bọc ấm áp dễ chịu
và bước đi trên những con phố New York, một mình.
Charles Force đã đi rồi.
Charles Force là manh mối cuối cùng. Ông ta đã biến mất, mang theo những bí mật
đi cùng.
Cô sẽ phải tự mình khám phá
sứ mệnh của dòng họ Van Alen.