Bản chúc thư - Chương 09 - 10

Chương chín

Cuộc đấu đá nội bộ ngày càng ác liệt khi những người thừa kế
nhà Phelan ít dành thời gian để nó chuyện phải trái với nhau hơn là dành thời
gian để bàn mưu tính kế với đám luật sư thầy dùi của họ. Một tuần trôi qua vẫn
chưa có phương án nào thỏa đáng. Với những phần tài sản đã thấy trong tầm mắt
nhưng vẫn còn ngoài tầm tay, những người thừa kế càng bị kích động và càng nôn
nóng. Nhiều vị thầy cãi đã bị sa thải và nhiều vị khác được chiêu tập để thế
vai.

Mary Ross Phelan Jackman sa thải luật sư của mình bởi vì
người này không làm trọn khoảng thời gian vàng ngọc cho mỗi giờ được trả công
của mình. Chồng của cô là một bác sĩ giải phẫu chỉnh hình với bao nhiêu những
bận tâm về công việc. Hàng ngày anh ta phải tiếp xúc với luật sư. Tay thầy cãi mới của họ là một quả cầu lửa có tên Grit,
đã sôi nổi lao vào cuộc với giá sáu trăm đô la/giờ.

Trong khi chờ tiếp quản tài sản, những người thừa kế cũng
gây thêm những món nợ khổng lồ. Những hợp đồng mua tư gia, biệt thự. Những
chiếc xe mới được giao trước, đợi trả tiền sau. Những nhà tư vấn được thuê để
làm những việc linh tinh như thiết kế hồ bơi trong nhà, quy hoạch bãi đáp cho
máy bay riêng hay cho lời khuyên về việc nên mua con ngựa nòi nào. Những lúc
không đấu đá nhau thì họ đi mua sắm. Ramble là một ngoại lệ, chỉ vì cậu ta còn
vị thành niên. Cậu ủy nhiệm cho luật sư của mình, vị này đang rước nợ nhân danh
thân chủ của ông ta.

Cuộc tranh tụng giống như quả bóng tuyết càng lăn càng lớn
thường bắt đầu với cuộc chạy đua tới pháp đình. Với việc Josh Stafford từ chối
tiết lộ chúc thư đồng thời lại cho rò rỉ vài lời xầm xì bí hiểm về tính bất túc
năng lực làm chúc thư của Troy, đám luật sư của những người thừa kế nhà Phelan
cuối cùng phát hoảng.

Mười ngày sau vụ tự tử, Hark Gettys đi đến tòa án Circuit
của quận Fairfax, bang Virginia nộp một Thỉnh Nguyện Buộc Công Bố
Chúc Thư của Troy L. Phelan. Với tất cả sự tinh tế của một luật sư đầy tham
vọng muốn được người ta nể mặt, anh ta lo lót cho một phóng viên của tờ
Washington Post. Họ tán dóc với nhau cả tiếng đồng hồ sau khi nộp thỉnh nguyện
thư, người bình luận về tác dụng to lớn của báo chí, kẻ tâng bốc vinh quang của
nghề luật sư. Một phóng viên ảnh chụp vài tấm hình để chuẩn bị lăng-xê…

Một cách rất chướng, Hark nộp thỉnh nguyện thư này nhân danh
tất cả những người thừa kế nhà Phelan. Và anh ta liệt kê tên tuổi địa chỉ của
họ, cứ như toàn bộ cả đám đều là thân chủ của anh ta. Anh ta fax cho họ những
bản sao thỉnh nguyện thư đó khi anh ta trở về văn phòng. Chỉ trong vòng vài
phút sau, đường dây điện thoại của anh ta rực cháy lên…

Câu chuyện của anh trên tờ Post ngày hôm sau được kèm theo
một bức ảnh lớn của luật sư Hark đang nhíu mày và vân vê bộ râu. Ảnh và bài
chiếm diện tích trên báo lớn hơn anh ta mơ tưởng. Anh ta đọc ngốn ngấu, đọc đi
đọc lại bài báo đó, ngắm nghía mãi hình của mình từ lúc mới sáng sớm tinh mơ,
trong một quán cà phê ở Chevy Chases, sau đó vội vã phóng xe đến văn phòng mới.

Vài giờ sau - chính xác là sau chín giờ sáng - văn phòng lục
sự tòa án ở quận Fairfax
đã đầy luật sư, đông hơn bình thường rất nhiều. Họ đến từng nhóm nhỏ, nói những
câu cộc lốc với đám thư kí, chăm chú vào công việc, không cần để ý đến nhau.
Thỉnh nguyện của họ có khác nhau nhưng tất cả đều muốn cùng những chuyện như
nhau - thừa nhận mình có liên quan đến vụ Phelan, và được nhìn vào bản chúc
thư.

Việc thụ lí vụ án ở quận Fairfax được giao ngẫu nhiên cho một trong
mười hai thẩm phán. Vụ Phelan đáp xuống trên bàn giấy của Ngài Parr Wycliff, ba
mươi sáu tuổi, một luật gia ít kinh nghiệm nhưng nhiều tham vọng. Ngài sướng
run lên khi vớ được mối bở bất ngờ.

Văn phòng của Wycliff đặt ngay tại Pháp đình quận Fairfax và suốt buổi sáng
ngài thẩm phán điều lí việc thu hồ sơ ở phòng lục sự. Thư kí của ông ta vơ hết
mọi thỉnh nguyện và ông ta xem xét ngay tất cả.

Khi đám đông chộn rộn bên dưới đã ổn định chỗ ngồi, ông ta
gọi Josh Stafford lên trình diện. Họ trao đổi với nhau một cách lịch sự trong
vài phút những khai từ pháp lí theo thông lệ, ngắn gọn và thận trọng, bởi vì
nhiều vấn đề nặng kí hơn đang đến. Josh chưa từng nghe nói về thẩm phán
Wycliff.

“Có chúc thư không?” cuối cùng Wycliff hỏi.

“Vâng, thưa Ngài. Có chúc thư.” Josh cẩn ngôn đúng mức. Theo
luật lệ của bang Virginia,
giấu chúc thư là một trọng tội. Nếu viên Thẩm phán đang thụ lí vụ án yêu cầu
được biết chúc thư, thì Josh chắc chắn phải cộng tác.

“Ở đâu rồi?”

“Thưa đang để trong văn phòng tôi”

“Ai là người được ủy nhiệm thực hiện?”

“Tôi”

“Anh định khi nào công bố chúc thư?”

“Thân chủ tôi yêu cầu tôi chờ đến ngày 15 tháng giêng”.

“Hưừm… có lí do đặc biệt gì không?”

Lí do thì đơn giản thôi. Troy muốn những đứa con tham lam
của mình thích thú hưởng thụ cuộc sống tiêu xài phung phí lu bù cuối cùng trước
khi ông giật phăng tấm thảm khỏi chân họ cho họ té bò lê bò càng cả đám. Thật
đê tiện và độc ác.

“Tôi cũng không rõ,” Josh nói. “Chúc thư được viết tay, thủ
bút của chính ông Phelan - Và ông đã kí vào đó mấy phút trước khi ông nhảy
lầu”.

“Một bản chúc thư viết tay?”

“Đúng vậy”.

“Anh vẫn thường ở bên cạnh ông?”

“Vâng - Đó là một câu chuyện dài.”

“Có lẽ tôi nên nghe chuyện đó.”

“Vâng, tôi cũng nghĩ vậy.”

Josh qua một ngày bận rộn. Wycliff chẳng có gì bận lắm, thế
nhưng ông làm ra vẻ như thể mỗi giây phút vàng ngọc của ông đều đã được lên
lịch sít sao. Họ thỏa thuận gặp nhau vào bữa ăn trưa - một bữa ăn đơn giản,
nhanh gọn, bánh mì sandwich và cà phê nóng - nơi văn phòng của Wycliff.

*

* *

Sergio không thích chút nào ý tưởng về cuộc du hành của Nate
đến Nam Mỹ. Sau gần bốn tháng ở một nơi được cơ cấu hóa cao như Walnut Hill,
nơi các cửa và cổng đều được khóa cẩn thận và một lính gác vô hình với khẩu
súng, luôn trông chừng con đường dài một dặm dẫn xuống chân núi, và nơi đó TV,
phim ảnh, trò chơi, tạp chí cả điện thoại nữa, đều được kiểm soát kĩ, việc tái
hội nhập vào xã hội bình thường, quen thuộc thường gây nên lo ngại. Ý niệm tái
hội nhập qua con đường đến Brazil
lại càng gây lo lắng nhiều hơn nữa.

Nate không ngán chi chuyện đó. Anh đến Walnut Hill đâu phải
theo lệnh tòa án. Josh đã đưa anh đến đó và nếu Josh yêu cầu anh chơi trò cút
bắt trong rừng rậm thì anh cũng sẵn sàng OK thôi. Sergio có la lối cằn nhằn gì
thì cũng thây kệ ông ta.

Thời Tiền-phóng-thích biến thành một tuần lễ địa ngục. Chế
độ ăn uống đổi từ không mỡ đến ít mỡ, với những phụ gia không thể thiếu như
muối, tiêu, phô mai và ít bơ để tái khởi động hệ thần kinh và gân cốt hòa nhập
lại với bao chuyện linh tinh đủ thứ các cái trên đời ở ngoài kia. Bao tử của
Nate nổi loạn phản đối và anh sụt cân thêm mất ba pound.

“Chính là một dấu ấn của những gì đang chờ đợi cậu ở dưới
kia”, Sergio nói một cách tự hào.

Trong thời gian trị liệu, họ đã từng quần thảo nhau kịch
liệt - một sinh hoạt bình thường ở Walnut Hill. da cần tập cho dày hơn, các góc
cạnh thân thể cho sắc nét. Sau đó, Sergio bắt đầu xa cách dần với người bệnh.
Thường khi người ta thấy nặng lòng lúc nói lời từ biệt và Sergio rút ngắn các
buổi tập và trở nên hờ hững, lạnh nhạt.

Với đoạn kết đã nhìn thấy được, Nate bắt đầu đếm từng giờ.

*

* *

Thẩm phán Wycliff căn vặn về nội dung bản chúc thư và Josh
khéo léo từ chối tiết lộ cho ông ta. Họ ăn loại sandwich cực ngon ở một cái bàn
nhỏ nơi văn phòng nhỏ của Ngài Thẩm phán. Luật pháp không đòi hỏi Josh phải
tiết lộ nội dung chúc thư, ít ra là vào lúc này. Và Wycliff hơi vượt quá quyền
hạn khi hỏi như vậy, thế nhưng ta hoàn toàn có thể thông cảm cho sự hiếu kì của
ông ta.

“Tôi có phần thông cảm với những người thỉnh nguyện”, ông ta
nói. “Họ có quyền biết nội dung chúc thư chứ. Sao ông trì hoãn?”

“Tôi chỉ làm đúng theo ý nguyện của thân chủ tôi”, Josh trả
lời.

“Sớm hay muộn rồi anh cũng phải công bố chúc thư thôi.”

“Dĩ nhiên rồi.”

Wycliff lật sổ hẹn, nhìn vào với đôi mắt hơi lé đi, qua
tròng kính cận. “Hôm nay là ngày hai mươi tháng mười hai. Không thể tụ tập mọi
người trước Giáng sinh được. Theo anh, ngày hăm bảy được không?”

“Ngài nghĩ đến điều gì vậy?”

“Việc đọc di chúc”.

Ý tưởng đó đập mạnh vào Josh và anh như bị xiên lên đầu ngọn
giáo. Tập hợp tất cả bọn đó lại, vợ con của Phelan, cùng với đám tùy tòng bám
theo voi ăn bã mía, đám luật sư đục nước béo cò…, nhét tất cả vào phòng xử án
của Wycliff. Ngoài ra đám phóng viên báo chí, truyền thanh, truyền hình, và bao
kẻ hiếu kì khác nữa, sẽ đổ xô tới. Anh cố trấn tĩnh, tự chủ để kìm hãm một cái
nghiến răng. Anh có thể dự tưởng mình nghe những tiếng lầm bầm, tiếng la lối,
những lời ngờ vực, cả những tiếng chửi thề, những cái mím môi, trợn mắt, siết
chặt bàn tay, những luồng sóng phẫn nộ ập vào bờ đá, vỡ tung ra. Rồi có lẽ
những tiếng sụt sịt, thổn thức, cả những tiếc nấc, khi vợ con Phelan cố nuốt
trôi những gì mà chồng, cha họ đã “ưu ái” di tặng lại cho họ.

Đó sẽ là một thời điểm duy nhất vô tiền khoáng hậu, trong
lịch sử pháp chế Hoa Kì, và Josh bỗng thấy không thể chờ đợi lâu hơn được nữa.
“Ngày hai mươi bảy cũng được đấy”, anh nói.

“Tốt. Tôi sẽ thông báo các bên hữu quan ngay. Có nhiều luật
sư lắm.”

“Xin ngài nhớ rằng có sáu đứa con và ba bà vợ, như vậy sẽ có
chín đám luật sư chính.”

“Hi vọng phòng xử án của tôi đủ rộng để chứa tất cả”

Có lẽ phòng đứng hợp hơn, Josh suýt buột miệng nói. Người ta
sẽ chen chân nhau, im lặng như tờ khi phong bì được mở, bản chúc thư được cầm
đưa lên ngang tầm mắt và những lời lẽ không thể nào tin nổi được đọc lên. “Tôi
đề nghị Ngài đọc chúc thư”, Josh nói.

Chắc chắn Wycliff đã có ý định đó. Ông ta đã nhìn thấy cùng
cảnh tượng như Josh. Sẽ làm một trong những thời khắc đáng ghi nhớ nhất trong
đời quan tòa của ông, khi ông đọc bản chúc thư phân chia cái gia tài mười một
tỉ đô la. Ông thấy mình cũng quan trọng và vĩ đại hẳn lên với con số đó.

“Tôi nghĩ chắc chúc thư sẽ gây tranh cãi”, viên Thẩm phán
nói.

“Một bản chúc thư rất lạ lùng”

Ngài Thẩm phán chỉ gật gù mỉm cười.

Chương mười

Trước lần tái nghiện gần nhất, Nate đã sống trong một căn hộ
chung cư cũ kĩ gần Georgetown
mà anh đã thuê sau lần li dị cuối cùng. Nhưng giờ đây chỗ ở khiêm tốn đó cũng
không còn, nạn nhân của cuộc phá sản. Như vậy, nói theo sát nghĩa đen, Nate
hiện là kẻ không nhà để qua đêm tự do đầu tiên của mình, khi rời khỏi Walnut
Hill.

Như thường lệ, Josh đã vạch kế hoạch cẩn thận cho cuộc phóng
thích. Anh đến Walnut Hill vào ngày đã hẹn với một túi xách đựng đầy quần áo
hiệu J. Crew mới toanh là phẳng nếp, cho cuộc du hành phương Nam sắp tới của
Nate. Anh chàng đã có passport và visa, đầy đủ tiền mặt, nhiều sách chỉ dẫn và
vé, một kế hoạch trò chơi. Và cả một bộ dụng cụ cấp cứu.

Nate không có gì để phải xao xuyến. Anh nói tạm biệt với một
số người nơi văn phòng, nhưng phần lớn họ đều bận ở nơi khác vì tránh cảnh chia
li. Anh đi một cách tự hào qua cánh cửa lớn, sau 140 ngày sống điều độ, sạch
sẽ, khỏe mạnh với một thể hình hoàn hảo.

Josh lái xe, và trong năm phút đầu tiên không ai nói với ai
tiếng nào. Tuyết phủ trắng các đồng cỏ, nhưng mỏng dần khi họ rời khỏi Blue Ridge. Đó là ngày hai mươi hai tháng mười hai. Chiếc
radio phát ra những bài thánh ca dịu dàng, với âm lượng thật trầm.

“Anh cho tắt cái đó đi được không?” cuối cùng Nate lên
tiếng.

“Cái gì?”

“Tắt đài đi”

Josh nhấn một cái nút và tiếng nhạc tắt luôn.

“Cậu cảm thấy thế nào?” Josh hỏi.

“Anh có thể ghé vào một cái shop nào gần đây nhất không?”

“Dĩ nhiên. Để làm gì?”

“Tôi muốn mua một thùng sáu lon Coca-cola”

“Ý tưởng hay đấy”

Họ mua nước giải khát nhẹ và hạt dẻ rang nơi một tiệm tạp
hóa đồng quê. Bà chủ tiệm ngồi ở quầy thu tiền vui vẻ chào “Chúc Giáng sinh vui
vẻ”, nhưng chàng Nate chẳng buồn trả lời. Quay về trong xe, Josh hướng đến
Dulles, trong hai giờ sẽ đến.

“Chuyến bay sẽ đưa cậu tới São Paulo,
cậu sẽ nghỉ ngơi tại đó trong ba giờ trước khi lên một chuyến bay khác đến một
thành phố gọi là Campo Grande.”

“Dân chúng ở đó có nói tiếng Anh không?”

“Không - Họ là dân Brazil và họ nói tiếng Bồ Đào Nha.”

“Hẳn nhiên là thế”

“Nhưng ở sân bay bạn sẽ gặp tiếng Anh”

“Campo Grande
lớn cỡ nào?”

“Nửa triệu dân, nhưng đó chưa phải là điểm đến của bạn. Từ
đó, bạn bắt đầu một chuyến bay con thoi đến một nơi gọi là Comrumbá. Các thị
trấn dần dần nhỏ hơn.”

“Và những chiếc máy bay cũng thế”.

“Đúng vậy, cũng như ở đây thôi”.

“Ý tưởng về một chuyến bay con thoi ở xứ Brazil coi bộ
không mấy hấp dẫn. Giúp tôi về khoản này đi Josh, chứ tôi thấy hơi rối đấy”.

“Hoặc là vậy hoặc là cậu đi xe buýt trong sáu tiếng”

“Xin anh trình bày tiếp”

“Ở Corumbá, cậu sẽ gặp một luật sư có tên Valdir Ruiz. Anh
ta nói tiếng Anh khá lắm”

“Anh đã nói chuyện với anh chàng ấy bao giờ chưa?”

“Rồi”

“Anh hiểu anh ta được không?”

“Vâng, phần lớn. Một anh chàng rất dễ thương, làm việc với
giá khoảng 50 đô/giờ, hình như vậy”.

“Comrumbá lớn cỡ nào?”

“Chín chục ngàn dân”

“Vậy đồ ăn thức uống và chỗ ngủ chắc cũng không đến nỗi nào”

“Đúng đấy, Nate à. Cậu sẽ có một căn phòng. Còn tiện nghi
hơn căn phòng cậu vừa rời đi nữa đó.”

“Ối chà”

“Xin lỗi. Hay là cậu muốn quay về nơi đó hơn?”

“Ừ. Nhưng sắp tới đây thì chưa đâu. Hiện nay mục tiêu của
tôi là vù khỏi xứ này trước khi nghe lại bài “Jingle Bells” vang vang khắp nơi.
Tôi thà ngủ trong bất kì xó xỉnh tăm tối nào, còn hơn ở đây nghe mấy bài ca Giáng
sinh trong suốt cả hai tuần liền.”

“Không phải một xó xỉnh hay mương rãnh nào như cậu nghĩ đâu.
Mà là một căn phòng khá tiện nghi trong một khách sạn xinh xắn.”

“Tôi sẽ làm gì với tay Valdir kia?”

“Anh ta đang tìm một hướng dẫn viên để đưa cậu vào cùng
Pantanal”

“Bằng phương tiện gì? Máy bay? Hay trực thăng?”

“Có lẽ bằng thuyền. Theo như tôi biết, thì đó là một vùng
toàn đầm lầy và sông rạch.”

“Và mãng xà, trăn khổng lồ, cá sấu”

“Cậu trở nên nhát gan từ lúc nào vậy? Tôi cứ nghĩ là cậu
thích mạo hiểm kia chứ”

“Tôi vẫn thích ấy chứ. Chạy nhanh hơn chút”

“Nhẩn nha tí đã nào.” Josh chỉ vào một cái cặp đàng sau ghế
ngồi hành khách. “Mở nó ra đi” anh bảo. “Túi hành trang của cậu đấy”

Nate kéo cái túi lên và làu bàu “Nặng cả tấn. Cái gì trong
đó vậy?”

“Hàng xịn đó”

Cái túi được làm bằng da nâu, mới nguyên nhưng lại được chế
tác để trông như đã được dùng từ lâu, và khá rộng đủ chứa cả một tủ sách pháp lí
nho nhỏ. Nate dặt cái cặp lên đầu gối và mở ra. “Những thứ đồ chơi”, anh reo
lên.

“Cái dụng cụ màu xám nhỏ xíu kia là điện thoại số kĩ thuật
cao loại mới nhất đấy”, Josh nói, tự hào về những đồ vật mà anh ta đã thu thập
được. “Valdir sẽ thu xếp dịch vụ địa phương cho cậu khi cậu đến Corumbá.”

“Ở Brazil
người ta cũng xài những loại đồ chơi kĩ thuật cao này à?”

“Vô khối. Ngành viễn thông đang bùng nổ ở nơi đó. Ai cũng có
điện thoại di động hết.”

“Thế mà người ta cứ bảo họ là dân nghèo. Còn cái này là cái
gì đây?”

“Một máy vi tính”

“Để làm quái gì?”

“Loại mới nhất đấy. Cậu thấy nó nhỏ đến cỡ nào?”

“Nhỏ đến độ tôi không đọc được các kí tự và kí hiệu trên bàn
phím”

“Cậu có thể móc nó vào điện thoại và nhận được e-mail nữa
đấy”

“Ái chà chà. Và tôi dùng cái này giữa vùng đầm lầy cho rắn
và cá sấu trổ mắt chiêm ngưỡng?”

“Tùy cậu thôi. Cậu vừa tưởng tượng ra một ‘xen’ ngoạn mục
đấy”

“Josh này, ngay ở văn phòng tôi cũng không sử dụng e-mail
mà”

“Cậu không cần nhưng tôi cần. Tôi muốn giữ liên lạc thường
xuyên với cậu. Khi cậu tìm thấy cô nàng, tôi muốn biết ngay”

“Còn cái này?”

“Món đồ chơi tuyệt nhất trong hộp đấy. Một điện thoại vệ
tinh. Cậu có thể dùng nó bất cứ nơi nào trên mặt đất. Cứ sạc pin đầy đủ thì lúc
nào cậu cũng liên lạc được với tôi”

“Anh vừa nói họ có hệ thống điện thoại tốt lắm mà?”

“Nhưng ở vùng Ngũ Giác Nê Địa thì không. Pantanal là một
vùng sình lầy rộng một trăm ngàn dặm vuông, không có thị trấn nào, dân cư rất
thưa thớt. Cái SatFone (điện thoại vệ tinh) đó sẽ là phương tiện truyền thông
duy nhất của cậu, một khi cậu rời khỏi Corumbá.”

Nate mở cái hộp plastic cứng và săm soi cái điện thoại nhỏ
xíu. “Cái này làm anh tốn hết bao nhiêu?” anh hỏi Josh.

“Tôi chẳng phải tốn xu nào”

“Ừ, nhưng phải trích ra từ tài sản Phelan hết bao nhiêu?”

“Bốn ngàn bốn trăm đô. Nhưng đáng đồng tiền bát gạo lắm”

“Dân da đỏ ở đó có điện không?” Nate vừa hỏi vừa lật xem
sách hướng dẫn sử dụng.

“Dĩ nhiên là không rồi”

“Vậy thì tôi làm sao sạc pin cho được?”

“Có thêm lố pin dự trữ. Ngoài ra cậu còn phải nghĩ cách xoay
sở.”

“Cho một cuộc đi xa lặng lẽ, thế là cũng hơi nhiều đấy”

“Sẽ rất lặng lẽ. Cậu sẽ cám ơn tôi về mấy món đồ chơi này
khi cậu đến nơi đó.”

“Tôi cám ơn bây giờ được chứ?”

“Vội gì”

“Cám ơn Josh. Về đủ mọi chuyện”

“Đừng khách khí thế chứ”

Nơi trạm cuối đông đúc, ngồi ở một bàn nhỏ nơi một cái bar
đông khách, họ nhâm nhi cà phê hơi espresso và đọc báo. Josh biết rõ về bar
này, Nate có vẻ không để ý lắm. Cái Logo bằng neon kia của bia Heineken thật là
bắt mắt, khó lờ đi được.

Một Ông già Noel đang rảo đi tìm trẻ con để chúng lấy những món
quà rẻ tiền nơi túi ông. Elvis Prestley hát bài “Blue Christmas” từ cái máy hát
tự động của bar. Việc lưu thông bằng đi bộ dày đặc, tiếng ồn râm ran không dứt,
ai nấy tấp nập về nhà cho những ngày lễ.

“Cậu bình thường chứ?” Josh hỏi.

“Vâng, khỏe thôi. Sao anh chưa đi đi? Tôi chắc rằng anh còn
nhiều việc cần hơn để làm.”

“Tôi sẽ còn ở lại”

“Này Josh, tôi khỏe mạnh mà. Nếu anh nghĩ tôi chờ an đi để
tôi có thể nhào vô bar và nốc vodka, thì anh lầm đấy. Tôi chăng thấy thèm nốc
rượu tí nào đâu. Tôi khỏe mạnh, sáng suốt và rất tự hào về điều ấy.”

Trông Josh hơi sượng sùng vì Nate đã đọc được ý nghĩ trong
đầu anh. Những cuộc chè chén lu bù của Nate đã trở thành truyền thuyết. Nếu anh
ta nổi cơn ghiền thì cả cái sân bay này e rằng không đủ rượu để anh ta uống cho
thỏa. “Tôi không lo lắng chuyện đó đâu”, Josh nói dối.

“Vậy thì anh còn chờ gì mà không biến đi. Tôi lớn rồi mà, có
phải là trẻ vị thành niên cần người giám hộ đâu.”

Họ chào tạm biệt ở cổng, ôm nhau thắm thiết và hứa sẽ gọi
nhau hàng giờ. Nate hơi lo âu để yên chỗ nơi cái tổ dành cho anh trong khoang
máy bay. Josh còn bao nhiêu việc chờ anh ở văn phòng.

Josh đã sắp xếp hai bước dự phòng kín đáo cho chuyến bay của
Nate. Trước tiên, hai chỗ ngồi kế cận đã được mua trước cho chuyến bay. Nate sẽ
ngồi ghế sát cửa sổ, hai ghế gần lối đi sẽ bỏ trống. Để đề phòng trường hợp có
người bạn đồng hành ngồi cạnh cũng lại là một “ẩm giả đại cao thủ”, trao đổi
vài câu với Nate thấy “hợp gu” thì công việc sẽ hỏng bét. Mỗi ghế ngồi như vậy
tốn bảy ngàn đô la một vé khứ hồi, thế nhưng tiền bạc không thành vấn đề.

Thứ nhì, Josh đã nói chuyện khá lâu với một quan chức hàng
không về trường hợp phục hồi của Nate. Sẽ không phục vụ rượu cho anh ta, trong
bất kì trường hợp nào. Một bức thư của Josh cho hãng hàng không được để sẵn trên
máy bay trong trường hợp cần trưng ra để thuyết phục Nate.

Một tiếp viên mang đến cho anh nước cam vắt và cà phê. Anh
quấn người trong chiếc chăn dày, nhìn vùng mở rộng của thủ đô biến dần phía
dưới khi máy bay Varig xuyên vào trong mây.

Thật là nhẹ nhõm khi vù đi, thoát khỏi Walnut Hill và
Sergio, thoát khỏi thành phố với sinh hoạt đều đặn tẻ nhạt, thoát khỏi những
rắc rối quá khứ với bà vợ cũ và vụ phá sản và khỏi vụ rắm rối hiện nay với cơ
quan điều tra. Ở độ cao ba mươi ngàn bộ, Nate đã quyết định không bao giờ quay
lại với chuyện cũ nữa.

Nhưng mỗi cuộc tái hội nhập đều gây căng thẳng. Sự sợ hãi
trượt ngã lại vẫn luôn còn đó, ngay bên dưới bề mặt. Cái phần đáng sợ bây giờ
là đã có quá nhiều lần tái hội nhập khiến anh cảm thấy mình giống một cựu binh.
Giống như các bà vợ và những phán quyết của tòa, anh không thể so sánh chúng.
Sẽ luôn luôn có những cái “rắc rối sự đời” khác nữa chăng?

Trong bữa ăn trưa anh nhận ra rằng Josh đã âm thầm làm việc
ở hậu trường. Rượu không bao giờ được dâng. Cho đến mấy ngày trước đây anh còn
phải ăn kiêng: không mỡ, không bơ, không phô mai, không đường. Bây giờ bao tử
của anh phải tái-thích-nghi với những bữa ăn bình thường và lúc đầu anh thấy
hơi buồn nôn.

Anh đánh giấc ngủ ngắn nhưng anh đã chán ngủ. Là một luật sư
bận rộn, lại là kẻ hay đi chơi đêm rất khuya, anh đã học cách sống nhiều ngủ
ít. Tháng đầu tiên anh nhập trại ở Walnut Hill họ đã phải cho anh uống thuốc
ngủ và anh đã ngủ mười giờ mỗi ngày. Cho anh ngủ mê mệt để anh không đánh họ
được những lúc bị con ghiền vật vã.

Anh bày các món đồ chơi lên chiếc ghế trống ở bên cạnh và
bắt đầu đọc mấy quyển hướng dẫn sử dụng. Đặc biệt cái điện thoại vệ tinh làm
anh bận tâm nhiều, mặc dầu khó tin rằng anh sẽ bắt buộc phải dùng đến nó.

Một chiếc điện thoại khác làm anh để ý. Đó là một dụng cụ kĩ
thuật mới nhất trong ngành du hành hàng không, một món đồ nhỏ kiểu dáng đẹp gần
như được giấu trong tường sát chỗ anh ngồi. Anh chộp lấy nó và gọi về nhà
Sergio. Sergio đang ăn trưa muộn nhưng sung sướng được nghe anh gọi.

“Cậu đang ở đâu vậy?” Ông ta hỏi.

“Trong một bar rượu”, Nate trả lời giọng trầm xuống vì đèn
trong khoan tàu đều cùng lúc mờ đi.

“Ngộ quá hả?”

“Đùa tí thôi. Tôi đang bay ngang Miami và thấy chiếc điện thoại này trên tàu,
tôi muốn gọi thử cho anh”

“Nghe rõ lắm. Cậu khỏe chứ?”

“Khỏe. Anh nhớ tôi không?”

“Chưa đâu. Còn cậu có nhớ tôi?”

“Anh đùa đấy à? Tôi đang là một người tự do, bay đến rừng
rậm vì một chuyến phiêu lưu kì diệu. Tôi sẽ nhớ anh sau, OK?”

“OK. Và cậu sẽ gọi cho toi nếu cậu gặp chuyện rắc rối, nhé?”

“Lần này thì chẳng có gì rắc rối đâu, Serge à.”

“Hoan hô chú lính chì dũng cảm!”

“Cảm ơn, Serge”

“Đừng khách khí thế. Thỉnh thoảng gọi cho mình nhé”

Một bộ phim được chiếu trên màn hình nhưng chẳng ai buồn
xem. Tiếp viên hàng không mang thêm cà phê. Cô thư kí của Nate, tên Alice, đã làm việc với
anh gần mười năm. Cô sống với em gái trong một căn nhà cũ kĩ ở Arlington. Anh gọi cô tiếp theo. Trong bốn
tháng qua họ chỉ nói với nhau một lần.

Cuộc đối thoại kéo dài nửa tiếng. Cô tỏ vẻ vui mừng khi nghe
giọng nói của anh và biết anh đã “hạ san”. Cô không biết gì về cuộc du hành đến
Nam Mỹ của anh, điều này có vẻ hơi lạ bởi bình thường cô vẫn biết mọi chuyện.
Nhưng, qua điện thoại, cô có vẻ dè dặt, quá dè dặt là khác. Nate ngửi thấy mùi
phản bội và tấn công như đang làm một cuộc kiểm tra chéo.

Cô vẫn lo về hồ sơ tranh tụng, vẫn ngồi ở bàn giấy đó, làm
cùng những công việc tương tự như trước, nhưng cho một luật sư khác. “Ai vậy?”
Nate hỏi.

Một tay mới. Một luật sư mới. Lời cô cẩn trọng và Nate biết
rằng cô đã được chính Josh dặn dò kĩ. Dĩ nhiên Nate sẽ gọi cho cô ngay khi anh
ra khỏi trung tâm.

Tay mới này ở phòng nào? Ai
làm trợ lí cho y? Y từ đâu đến? Y đã đảm nhận bao nhiêu chuyên án y khoa? Cô sẽ
làm tạm thời với tay ấy hay sẽ làm hẳn với y?

Alice
chỉ trả lời lửng lơ.

“Ai đang ở văn phòng tôi?” anh hỏi.

“Đâu có ai. Mọi thứ ở đó đều y nguyên, chẳng ai đụng đến”.

“Kerry đang làm gì?”

“Đang bận đủ chuyện. Vẫn chờ anh đó”. Kerry là trợ lí thân
cận nhất của Nate.

Alice
biết rõ hết nhưng chỉ tiết lộ chút chút. Cô đặc biệt kín tiếng về tay luật sư
mới.

“Thôi được”, anh kết thúc khi thấy cuộc đối thoại đã hụt
hơi, rơi vào chỗ gượng gạo. “Đã đến lúc trở về.”

“Có lẽ vậy, Nate” cô nói theo không mấy sốt sắng.

Anh chậm rãi gác ống nghe, và nhẩm lại những lời của cô. Đã
có điều gì hơi khác đi. Josh đã âm thầm sắp xếp lại công ty. Có lẽ Nate đã bị
xóa sổ trong cuộc cải tổ đó? Chắc là không đến nỗi vậy, nhưng anh sẽ không còn
đứng trước tòa để biện hộ nữa.

Anh quyết định thôi để chuyện đó tính sau. Có rất nhiều
người anh cần gọi tới để trao đổi bao nhiêu việc. Một quan tòa chuyên về các vụ
án tệ nạn rượu chè, ma túy muốn được nghe tường trình của anh về trung tâm cai
nghiện. Bà vợ đầu của anh dáng một cuộc gọi. Và anh muốn gọi cho cả bốn đứa con
để hỏi sao chúng chẳng gọi cho anh hay viết cho anh lấy một dòng.

Thay vì thế, anh lấy ra một cặp hồ sơ và bắt đầu đọc về Troy
Phelan và công việc anh phải làm. Đến nửa đêm, Nate mơ màng trong giấc điệp, lơ
lửng trên vùng trời của biển Caribê.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3