Cung – Mê Tâm Ký - Quyển III - Chương 05 - 06
Quyển 3 – Chương 5
Thủy thành Giang Đô tiếng tăm vang lừng
Ngày 26 tháng 6, hoàng thượng tới
Giang Đô. Vì dọc đường rất thuận lợi nên đã khởi hành sớm hơn dự định vài hôm.
Hoài Đông tổng đốc, tuần tra lưỡng hà, tuần lệnh và các quan lớn bé của Giang
Đô phủ đều đứng chờ nghênh giá ngoài cảng Quan Tào ở Giang Đô từ sáng sớm.
Thành Giang Đô xây vào khoảng năm
Phụng Nghi triều đại trước, nằm ở phía đông giao lộ của sông Kinh Giang và Hoài
Thủy. Thanh Đông có hồ Thanh Dương, một trong bốn hồ lớn danh tiếng của Cẩm
Thái, trong thành có nhiều đường sông, ngoại thành có Hoàn Hoài Thủy, một tòa
thành trên nước rất trứ danh, còn được gọi là Thủy Thượng Minh Châu.
Giang Đô có sản lượng lương thực
phong phú, nơi này chuyên cung cấp gạo Trân Châu cho hoàng gia, bàn đào, long
nhãn, hạt dẻ, thạch lựu, mơ ngọt,… tất cả đều rất trứ danh. Giang Đô phát triển
đường biển rất thuận lợi, tất cả thức ăn phong phú của Hoài Đông, Hoài Nam và
những vùng khác trên cả nước đều tập trung ở đây. Và nghề đóng thuyền, dệt may,
đồ gốm cũng rất phát triển ở Giang Đô, kĩ thuật dệt may chỉ đứng sau Tinh Bình
Châu, nghề làm gốm chỉ đứng sau Lạc Ninh, tất cả đều là tiêu chuẩn bậc nhất cả
nước.
Nguyên vùng Quan Tào cảng đã bị
phong tỏa, chừa lối đi cho thuyền lớn của hoàng gia cập bến. Cảng đã dọn sạch
sẽ, Hành Vụ Thuộc đã đóng trại tiên phong để bảo vệ an toàn cho hoàng thượng.
Quan chức địa phương ăn mặc chỉnh tề, nghiêm chỉnh quỳ chờ đại giá ở hai bên
cảng.
Giờ Dậu, hoàng gia đến nơi dưới sự
dẫn đường của đoàn thuyền lớn, từ từ tiến vào, dừng ngay giữa cảng, các thuyền
móc nối vào nhau thành một đường thẳng thông đến bến cảng. Thảm đỏ trải khắp,
tiếng nhạc vang lên. Vân Hi mặc áo bào Cửu Long Bàn Tường, ngồi kiệu rồng có
nóc màu tím, từ từ bước ra trước sự vây quanh của mọi người.
Giang Đô hễ vào hè thì trời mưa rất
nhiều, đã qua tháng 6 mà mười ngày nay trời hầu như vẫn âm u thất thường, thêm
nữa Giang Đô địa hình thấp, mùa hè trong thành thường bị ngập nửa thành. Vì
thế, dân gian có đồng dao: Tháng 6 chớ phơi chăn mùng, tháng 7 áo rơm không rời
thân. Châu Nữ có con chết dưới Hoài Thủy, mỗi mùa sen nở trời cũng khóc thương.
Tương truyền Giang Đô có một người
phụ nữ tên Châu Nữ, con cô ấy chết chìm dưới Thanh Dương Hồ. Mỗi năm cô đều
khóc lóc bi thương khi cúng tế con yêu bên bờ hồ, nên ông trời cũng rơi lệ cùng
cô. Sau này người phụ nữ hóa thành ngọn núi, và cũng chính là ngọn núi Bi Nữ
Phong rất có tiếng ở Thanh Dương Hồ. Mỗi năm hè đến, hoa sen nở rộ, Giang Đông
thường mưa phùn liên miên, và quanh vùng Bi Nữ Phong luôn gợn những tiếng sóng
thảm thiết, hệt như tiếng phụ nữ đang khóc lóc. Đương nhiên, truyền thuyết cũng
không đáng tin, nhưng Bi Nữ Phong thì lại rất trứ danh, còn mưa mùa hè ở Giang
Đô cũng vì thế mà thành một cảnh sắc đáng để nhắc đến.
Thế nhưng truyền thuyết tuy đẹp,
mùa hè ở Giang Đô lại chẳng dễ thở tí nào, oi bức vô cùng, cứ đến mùa này áo
quần trên người đều nửa ẩm ướt, mồ hôi cũng chẳng tuôn ra được. Vân Hi vừa bước
ra đã cảm thấy nóng bức, càng không phải nói đến quan lại đang nghênh đón ngoài
kia. Nhưng định vào thời điểm này cũng là điều rất cần thiết, hễ Giang Đô bước
sang mùa mưa thì mới có thể thấy được thành quả của công trình thủy lợi.
Nghi trượng ra khỏi cảng lớn, quan
lại kề hai bên quỳ đón. Vân Hi chỉ lộ diện một hồi rồi đoàn người cùng ngựa bèn
quay sang hướng về Phúc Ấm Viên trong thành Giang Đô. Phúc Ấm Viên tọa lạc tại
phía đông thành Giang Đô, cũng là kiến trúc được xây dựng từ tiền triều, ban
đầu vốn chỉ là một tòa vương phủ, sau đó hình thành lâm viên hoàng gia và bắt
đầu biết đến với tên gọi Thúy Phương Viên.
Trong những năm Võ Tông của bổn
triều, Võ Tông đắm chìm trong thanh sắc, thích ngao du sơn thủy, từng ba lần hạ
Giang Đô, và tòa Thúy Phương Viên cũng trải qua nhiều lần trùng tu, đã từng mở
rộng diện tích đến 200 hecta, kiến trúc điêu khắc hoa mĩ vô cùng, ngoài ra còn
nuôi nhiều loài cầm thú quý hiếm, vô số cây cỏ lạ kì. Cho tới thời Xương Long,
tiên đế mới gỡ bỏ một phần kiến trúc, không nuôi thú hiếm lạ, sau đó ban thưởng
vườn này cho Nguyễn Khải Vinh, cũng chính là tổ phụ của Thái hậu Nguyễn Tinh
Hoa. Nguyễn Khải Vinh làm quan cho hai đời triều đình, từng giúp tiên đế chinh
chiến Dạ Dịch Quốc, bảy trận chiến đều thắng vẻ vang ấy đã trở thành một sự
chấn động. Tiên đế vui mừng, đổi tên Thúy Phương Viên thành Phúc Ấm Viên, ban
tặng cho Nguyễn Khải Vinh, lúc ấy cũng chính là thời điểm quyền thế nhà Nguyễn
cao ngút trời.
Cho đến hôm nay, vì hoàng đế hạnh Nam.
Phú hộ Hoài Nam đã xây Thánh Đức Viên ở phía Nam Hoài An, môi trường địa lí hai
bờ sông Hoài đã không thể xây dựng những khu vườn có kiến trúc to lớn, vả lại
nhà Nguyễn nay đã như mặt trời xuống núi, để đảm bảo chu toàn, sau cùng mọi
người bèn chủ động đề nghị trùng tu Phúc Âm Viên để tiếp đón hoàng đế.
Nơi này tuy không còn là cảnh sắc
xa hoa như ngày xưa, nhưng vẫn giữ được núi non trùng điệp, cảnh đẹp không sao
tả xiết. Khu rừng phía Nam
được trồng một cách tinh xảo. Tuy không sánh bằng kiến trúc rộng lớn phương
Bắc, nhưng lại chú trọng đến sự sắp xếp xen kẽ. Phương Bắc khô cằn, mỗi kiến
trúc đều phải xây những chòi gác. Chòi ác tượng trưng cho thủy vị của Long
Vương, đối chiếu theo ngũ hành thì nó thuộc thủy, tức nghĩa là muốn dùng thủy
để trị hỏa.
Nhưng phương Nam lại nhiều nước, nên lầu các
không xây những ngấn nước nghiêng xuống, mái cong xây đỉnh cao và nhọn, lầu
nhọn và hẹp chứ không bo rộng, tất cả cũng do yếu tố môi trường mà ra. Còn sân
đình thì không theo quy tắc nghiêm ngặt là phải vào mấy ô, ra mấy ô, nó chỉ là
một chiếc đình sỏi nhỏ, sắp xen kẽ với núi đá, những thác nước, dòng suối được
xây lối dẫn đường. Đều do địa thế phương Nam
thấp trũng, chạy dọc theo hướng đại viện có hiện tượng trữ nước, nên không hợp
với phương Nam.
Có rất nhiều vườn nhỏ thiết kế tinh xảo, những chuỗi cầu dài, những đường nước
ngầm, và nhiều đường cống rãnh, trong vườn có hơn trăm chiếc cầu, hình dạng kì
lạ, muôn màu muôn vẻ.
Sau khi đến Phúc Ấm Viên, hoàng
thượng thay y phục nghỉ ngơi một chút, sau đó chính thức gặp gỡ quan địa phương
cùng tông tộc nhà Nguyễn, thiết yến tại Diệu Đình Đài trong Phúc Ấm Viên, quan
chức đi cùng và quan địa phương cùng tham dự.
Còn Phi Tâm thì đến nội uyển hầu hạ
thái hậu, hai hôm nữa thái hậu sẽ gặp mặt tông thân Nguyễn thị, có lẽ hoàng
thượng cũng sẽ thiết yến. Hôm nay vừa đến nơi, đường xá gian lao nên cả người
và ngựa đều mệt nhoài, thái hậu cũng tỏ ra mệt mỏi, nên Phi Tâm cùng thái hậu
vào nội uyển, đích thân sắp xếp ổn thỏa rồi mới quay về chỗ ở của mình.
Lối đi ở đây khó phân biệt phương
hướng, trong vườn có nhiều ao đá, rất khác biệt so với sân vườn trong kinh
thành. Lần này nơi ở của Phi Tâm không xa nơi ở thái hậu, cũng là một khu vườn
độc lập, cách nhau một hòn non bộ. Tên sân vườn này là Bích Hồng Ưu Kính Các,
nấp dưới khu rừng Tương Phi Trúc, đàng sau còn có một chiếc ao sen, hoa sen đỏ
thắm, lá xanh mơn trùng trùng điệp điệp.
Tú Linh sống trong cung nhiều năm,
rất không quen với khí hậu ẩm ướt, oi bức như thế này, lên bờ không lâu thì đã
than ngắn thở dài, sắc mặt đỏ bừng, đôi lúc lại buồn nôn, uống một liều Tịnh
Tâm Lương Kim Tán mà vẫn còn cảm thấy cơ thể lảo đảo. Phi Tâm nhìn bộ dạng cô
ấy, chắc chắn là không thích nghi với khí hậu ở đây, và bị trúng nắng rồi, nên
không để Tú Linh đi theo, cho cô ấy nghỉ ngơi sớm. Tiểu Phúc Tử tuy luôn phụ
trách dò thám tin tức cho Phi Tâm, nhưng dẫu sao cũng ở lâu trong đại nội,
những việc vặt vãnh tuy không linh hoạt bằng Tú Linh, cũng tạm giải quyết ổn
thỏa. Hắn dìu Phi Tâm về nơi ở, đích thân kiểm tra mọi việc, chờ Phi Tâm tắm
gội thay y phục, lại đích thân đốc thúc bày biện bữa ăn. Phi Tâm tuy dọc đường
cũng rất mệt, nhưng lại hoàn toàn không thấy buồn ngủ, trong đầu cô chất chứa
đầy ắp hình ảnh của Hoài An, càng đến gần thì lại càng trở nên phấn khởi.
Sau khi dùng bữa khuya, Phi Tâm
cũng tiện thể dùng một ít tổ yến ngân nhĩ, rồi bảo Tiểu Phúc Tử cùng cô ra
ngoài dạo mát. Phi Tâm tuy sống ở phương Nam nhưng cũng chỉ lần đầu đến
Giang Đô. Lúc lên kinh đã từng ghé ngang, nhưng đi theo đường thủy nên cũng
không ghé sang bên này. Song lúc ấy Phi Tâm hoàn toàn không có tâm trí ngao du,
cô cũng chẳng ôm ấp tâm tình để ngắm những cảnh sắc giang hồ. Nói cô là người
thực tế phù phiếm cũng được, nói cô nhìn không thấu cũng được, con người sống
trên cõi đời này đều có những mục tiêu và ý nghĩa sống khác nhau, và ý nghĩa
tồn tại của cô chính là trong cung cấm.
Phi Tâm mặc một chiếc áo ngắn màu
trắng tuyền có tay áo ôm sát và thêu chỉ vàng, phía dưới lót thêm chiếc váy
trắng bồng bềnh, được dệt từ chất liệu tơ tằm lạnh, mỏng nhưng không xuyên
thấu, mềm mại và trơn láng. Cô để Tiểu Phúc Tử đi theo, men theo hàng trúc, đi
dạo trong vườn, tiểu lầu ở đây đều được bao quanh bởi những hòn đá kì lạ, hai
bên toàn là những giàn hoa, lúc ấy đang nở rộ những búp hoa trắng tinh, mùi
hương thoang thoảng, tất cả đều là hoa quỳnh!
Phương bắc chỉ có thể trồng hoa
quỳnh thành những chậu cảnh trong nhà kính, thời tiết ẩm ướt Phương nam thì có
thể trồng dưới đất, nhưng trồng trên những giàn hoa xếp dài hai bên, vây quanh
một cách rầm rộ như vậy thì Phi Tâm cũng chỉ mới thấy lần đầu. Có lẽ trong
khoảnh khắc hoa quỳnh thoáng nở, nhất định sẽ như những hoa tuyết tung bay,
hương thơm phưng phức cả khu vườn. Bây giờ cành lá vẫn còn xanh tươi, nụ hoa căng
phồng, có lẽ nửa khắc, một canh giờ tới sẽ nở rộ hoàn toàn.
Cô đứng trước giàn hoa, thân leo
xanh ngắt cũng bò đầy phía sau bờ tường, những chiếc lá to như bàn tay đang nở
ra, ánh đèn trên tường lầu hắt xuống, dường như đang tỏa ra thứ ảo ảnh.
“Hoa quỳnh sớm nở tối tàn, chỉ vì
Vi Đà.” Phi Tâm không hiểu sao tự dưng nghĩ đến câu nói này, cô nhìn nụ hoa khẽ
thốt nên lời.
Tiểu Phúc Tử bên cạnh đang tất tả
dùng phất trần xua đuổi côn trùng giúp cô. Hoa cỏ ở đây mọc rậm rạp, sau cơn
mưa, tất cả côn trùng nhỏ nhìn thấy ánh sáng, ngửi thấy mùi hương đều lũ lượt
xuất hiện. Tiểu Phúc Tử biết chủ nhân mình da dẻ non nớt nên hắn bận đến toát
mồ hôi, thoáng nghe Phi Tâm cất tiếng thì trở nên sững sờ. Cô ấy vốn không
thích những truyền thuyết như vậy, chỉ cho rằng tất cả đều là những trò đùa mà
người xưa chế ra, sao bây giờ lại có hứng thú như vậy nhỉ?
Quyển 3 – Chương 6
Hoa quỳnh nở rộ làm tri âm
Phi Tâm nheo mắt nhìn Tiểu Phúc Tử,
thoáng che miệng cười: “Mấy hôm trước bổn cung xem kịch, vừa đúng ngay vở Vi Đà
bái phật tổ làm sư phụ và sau đó diệt ma, nên tự dưng nhớ tới mà thôi.”
Tiểu Phúc Tử khom lưng xuống, cũng
cười. Trên đường đi, Quý Phi bị hoàng thượng lôi đi nên đã xem không ít vở
kịch, đoàn thuyền lớn trong lần Nam tuần này, ngoại trừ thuyền lớn của hoàng
thượng có thiết kế những sân khấu kịch thì ở phía sau cũng còn một thuyền hoa
rộng lớn, trên thuyền lầu kịch cao ba tầng. Mấy hôm trước hoàng thượng cao
hứng, kéo sang đó xem, vừa khéo ở đó đang hát vở Vi Đà, lại còn do kép ưu tú
của Khánh Phong đoàn diễn, thật sự khiến họ có dịp mở rộng tầm mắt!
Hai người đang nói chuyện, bỗng
dưng phía sau có tiếng ai đó vang lên: “Xem ra Quý Phi có tiến bộ rồi, cũng
biết được hoa quỳnh chờ đợi Vi Đà!” Âm thanh vừa thốt lên, Phi Tâm và Tiểu Phúc
Tử giật mình, Phi Tâm vừa quay sang vẫn chưa kịp quỳ xuống thì Vân Hi đã tiến
tới. Hai bên có hai thái giám xách đèn, Uông Thanh Hải vẫn đứng kề bên.
Vân Hi mặc thường phục, không búi
tóc. Áo bào phất phơi, bước đi nhẹ nhàng, trên người tỏa lên mùi rượu nhàn
nhạt, âm thanh cũng có chút phiêu bồng, dường như đang say ngà ngà. Phi Tâm khẽ
liếc nhìn, thấy ánh mắt long lanh như hai vì sao, nào có chút men say, tự dưng
trong lòng rung động, cúi đầu bái chào: “Thần thiếp tham kiến hoàng thượng.”
Y nhìn xung quanh rồi nói: “Nơi này
của nàng tốt hơn nơi trẫm nhiều. Trước có cành trúc, sau có ao sen, hai bên còn
có giàn hoa. Không giống bên trẫm, chỉ toàn là sỏi đá và sỏi đá, mấy hôm nay
trẫm sẽ ở lại đây!” Y nói rồi nhấc chân bước vào.
Phi Tâm ngẩn người một hồi, chợt
nghe Uông Thành Hải quay lưng vẫy phất trần, một đám nô tài phía sau đã tiến
vào, khiêng khiêng vác vác đủ thứ đồ đạc, hì hục từ cổng nhỏ hai bên nối đuôi
nhau bước vào. Phi Tâm há hốc miệng nhìn bọn người đó.
Hoàng thượng sống ở Long An Các,
tuy Phi Tâm chưa bước chân đến đó, nhưng trước kia cũng từng nhìn thấy án họa.
Trong đó có một thác nước, có sông có núi, có hoa thơm cỏ lạ, còn có cả Thất
Chiết Kiều, rõ ràng cảnh sắc và bài trí bên đó đều hơn hẳn nơi này, lại còn có
cả hai sân vườn, và các gác lửng, hai bên đều có lầu cao. Giờ đây y lại bắt đầu
trợn mắt nói xằng, khiêng cả đồ đạc sang, rõ ràng muốn dọn sang đây trong những
ngày dừng chân ở nơi này.
Lúc ấy Phi Tâm cũng chẳng biết nói
thế nào, đành cúi đầu đi theo. Vân Hi bước chân lên lầu. Tầng một là sảnh đường
có mười sáu cột trụ, không có cửa, tất cả được bao bọc bởi những màn lụa mỏng,
dọc bên ngoài có xây những chiếc bục, chính giữa trải thảm lụa màu xanh lam,
trong sảnh đường cũng xây thêm bình phong điêu khắc để che chắn, lò hương bằng
đồng rực rỡ cao ba tầng, còn có một chiếc ghế Quý Phi lót đệm êm. Hai bên là
hai thang cuốn, bước lên trên đó chính là nơi ở của Phi Tâm. Uông Thành Hải cho
Trần Hoài Đức chỉ huy bọn nô tài, không theo vào trong, mà leo lên cầu thang
bên ngoài để sắp xếp đồ đạc trên đó. Vân Hi ngả người xuống ghế Quý Phi, nhận
lấy cốc trà Phi Tâm dâng đến, chậm rãi hớp một ngụm rồi nói: “Ngày mai trẫm vi
phục xuất tuần, nàng đi cùng trẫm.”
Mấy hôm nay Phi Tâm đã quen với
việc bị y dắt mũi, huống hồ hoàng thượng Nam tuần, vi phục xuất tuần ra ngoài
xem xét là lẽ đương nhiên, nên cô cũng không có gì bất ngờ, nhỏ nhẹ đáp lời.
Chỉ trong thoáng chốc, đồ đạc đều được sắp xếp ngăn nắp, nô tài kéo đến tuy
đông, nhưng động tĩnh lại rất nhỏ. Uông Thành Hải đến gần bẩm: “Hoàng thượng,
nô tài đã sắp đặt xong cả rồi. Trong này giữ vài người, những kẻ khác cho về
thì hơn.” Dẫu sao không gian nơi này cũng có hạn, huống hồ vẫn còn nô tài của
Phi Tâm ở phía sau. Nếu tăng thêm một đoàn người như vậy thì cũng rất khó sắp
xếp.
Vân Hi hừ một tiếng xem như trả
lời, ngẩng đầu nhìn giàn hoa bên ngoài: “Hoa quỳnh ở đây trồng rất hay, không
như trong cung, không cần giở những trò đánh tráo để khiến hoa nở vào ban ngày,
uổng phí đặc trưng của hoa!”
Phi Tâm nghe thế bỗng thờ thẫn, bất
giác dõi theo ánh mắt của y. Có không ít truyền thuyết về hoa quỳnh, nhưng nổi
tiếng nhất chính là mối tình kết thúc không có hậu của Hoa Tiên và Vi Đà. Vi Đà
bái Phật Tổ để tu hành, mỗi ngày đều ra ngoài lúc nửa đêm để hái sương sớm cho
Đức Phật. Và lúc ấy, hoa quỳnh đã vì y mà nở, hi vọng y có thể nhớ lại ân tình
năm xưa.
Còn Hoa Quỳnh trong cung, để hoàng
thượng cùng các phi tần có thể ngắm nhìn được phong thái của nó, các hoa trượng
đã dùng phương pháp “Thâu thiên hoán nhật” để làm cho những nụ hoa căng phồng
được soi rọi vào ban đêm và ban ngày thì che khuất ánh sáng. Phương pháp này đã
giúp hoa nở rộ vào ban ngày, ngoài ra còn dùng những cách khác để khiến đất đai
màu mỡ nhằm kéo dài tuổi thọ của hoa, vì thế Vân Hi mới nói rằng đã hủy đi đặc
trưng của hoa!
Ngẫm kĩ lời nói này, Phi Tâm cũng
thấy đồng cảm. Truyền thuyết đa phần đều là những lời nói hàm hồ, nhưng hoa
quỳnh ung dung nở rộ vào ban đêm, vì lẽ đó mới thể hiện được vẻ đẹp của nó, đảo
ngược đặc trưng khiến chúng nở rộ vào ban ngày, dưới ánh sáng chói chang của
mặt trời, đúng là đánh mất vẻ đẹp kiều diễm trong màn đêm tĩnh lặng.
Cô đờ đẫn nhìn ngắm, chợt cơ thể
căng lại, lúc định thần thì nhận thấy y đã đứng phía sau cô từ lúc nào, ôm chặt
cô vào lòng. Trước mặt bọn nô tài, cô cảm thấy ngượng ngùng và không thoải mái,
cô cứng đờ người một lát rồi khẽ cất tiếng: “Hoàng thượng, thần thiếp hầu hạ
người nghỉ ngơi nhé.”
“Vừa uống rượu, để tỉnh rượu một tí
rồi ngủ.” Y khom lưng cúi đầu, chiếc cằm kề lên bờ vai cô, khi nói chuyện khiến
cô hơi nhồn nhột.
Hai người lặng thinh một lúc, Vân
Hi sai người mang chiếc ghế dời lên bục gỗ có rèm lụa vây lại ngoài kia, nơi
này hoa cỏ xum xuê, nên giữa các cột nhà đều phải đốt huân thảo phòng muỗi và
côn trùng. Chiếc ghế được khiêng ra ngoài, bên cạnh đốt một lò hương cỏ ngải,
và kê một chiếc bàn nhỏ để đặt ít trái cây, nước trà. Y tựa lưng vào ghế, bảo
cô ngồi bên cạnh, hai người cũng chẳng nói năng gì, nhưng Phi Tâm trông bộ dạng
y có vẻ như là đang ngồi chờ hoa quỳnh nở.
Suốt dọc đường đi, kể từ sau khi
Phi Tâm thẳng thắn bày tỏ tâm sự với y, giữa họ dường như đã nảy sinh một sự
thay đổi lạ lùng. Tuy ở bên nhau vẫn chưa tìm ra đề tài chung, nhưng cũng bớt
ngượng ngùng như trước đây. Có những lúc ngồi im phăng phắc như bây giờ thì Phi
Tâm cũng không cảm thấy khó chịu. Có lẽ gần đây hành vi của y quá ư kì quặc, cứ
hay lôi cô đi lại trên thuyền một cách táo tợn, nên những lúc im lặng bên nhau
như vậy lại khiến cô trở nên thoải mái hơn.
Cô lẳng lặng ngồi bên y một hồi,
nhận thấy mí mắt trở nên nặng trĩu, mơ mơ màng màng cho đến khi cảm thấy có ai
đó đã đẩy cô, cô giật mình mở mắt lên thì thấy y đang cười, nụ cười thuần khiết
ngây thơ, trong suốt không vương bụi bẩn như thủy tinh pha lê, nụ cười khiến
khuôn mặt y trở nên long lanh giữa ánh đèn heo hắt ban đêm. Y đưa tay véo mặt
cô: “Nhìn kìa, hoa nở rồi, nở rộ cả!”
Phi Tâm giật mình nhìn theo hướng
chỉ tay của y, đập vào mắt cô chính là một biển hoa trắng như tuyết. Cô chưa
bao giờ nhìn thấy hoa quỳnh đồng loạt nở rộ nhiều như thế, dưới màn đêm tăm
tối, những đó hoa băng thanh ngọc khiết trên giàn thật sự chấn động lòng người,
mùi hương thơm ngát tản ra trong không khí, khiến nhiệt độ nóng ẩm bị ngưng
đọng và trở nên thông thấu. Cô bất giác giương to đôi mắt, thậm chí quên khuấy
đi rằng lúc này cô đang ngồi trên đùi y.
Đêm đầu tiên đặt chân tới Giang Đô,
lần đầu trong đời cô nhìn thấy hoa quỳnh nở rộ trong đêm, cánh hoa còn đọng
những giọt sương sớm cùng mùi hương khiến tâm trí điên đảo, một màu trắng xóa
độc nhất vô nhị trong màn đêm thăm thẳm đã áp đảo tất cả những sắc màu rực rỡ.
Hoa quỳnh chỉ nở rộ vào đêm nên mới có thể kiêu ngạo như vậy. Và nếu muốn
thưởng thức vẻ đẹp vô song của nó thì nên lặng lẽ chờ đợi.