Bố già trở lại - Phần II - Chương 07
Chương 7
Văn phòng của Phil Orstein nơi tầng bốn mươi mốt được xếp
đầy những đĩa vàng và những bức tranh gia đình Philly, những con người bình
thường, chứ không hề có tranh ảnh của những người tiếng tăm. Đây có thể là một
sự màu mè giả vờ hay là một lí do để yêu mến anh chàng hơn. Anh ta dẫn Johnny
đến chỗ ngồi đằng sau cái bàn inox của mình. “Cứ ngồi bao lâu tùy thích “, anh
nói, mặc dầu anh không có thể muốn nói như thể. Milner đang điều phối ban nhạc
cho tiết mục sắp tới. Johnny quay số về nhà cũ của mình.
Đang nửa chừng bỗng dưng chàng khựng lại. Ginny và các cô
con gái chắc không nghĩ là chàng đang ở Los
Angeles. Nếu chàng không gọi, có lẽ họ sẽ không hiểu
thêm được gì. Anh đang gọi để xin lỗi đã không lại thăm họ trong khi anh ở thành
phố nhưng điều duy nhất khiến cho cuộc gọi trở thành cần thiết là chính cuộc
gọi.
Anh lấy ra mấy viên amphetamine, nhìn nhãn hiệu, rồi lấy ra
một viên, nuốt khô.
Quái quỷ thật. Anh là cái gì, một cậu học trò nhút nhát, e
sợ không dám ngỏ lời mời nữ hoàng của cuộc khiêu vũ ở trường? Anh đã biết
Ginny, cô vợ cũ, từ thưở mới lên mười. Cô bé ở nhà kế bên. Anh gọi lại.
“Anh đây,” chàng nói.
“Hello, cuộc sống của em,” Ginny nói. Nàng tìm phương án để
nói điều đó theo một cách sao cho vừa ngọt ngào lại vừa chua cay châm biếm,
không giống chút gì với bản chất bộc trực của một cô gái Brooklyn.
“Anh đang ở đâu vậy?”
“Lạy Chúa! Thật tuyệt khi nghe giọng nói của em,” Johnny reo
lên. “Em đang làm gì vậy?”
Ba mẹ con vừa trở về từ May Company, nàng bảo chàng. Cô con
gái lớn của anh đã mua chiếc áo nịt vú đầu tiên rồi đấy.
“Em nói nghiêm chỉnh đấy chứ?” Johnny nói.
Anh đã từng có những việc làm được trả lương hậu hĩnh ở
Atlantic City và ở các câu lạc bộ nơi vùng Jersey Palisades và một câu lạc bộ
mà Louie Russo sở hữu bên ngoài Chicago.
Chàng đã làm một phim quay tại hiện trường ở New Orleans. Những cảnh
đầu của bộ phim được quay ở đây. Hình như là Memorial Day thì phải.
“Chỉ là chuyện mĩ từ pháp” nàng nói. “Còn bây giờ anh đang ở
đâu?”
“Nhớ rằng đó là một ngày lễ Lao động, nhưng anh không biết
là năm nào” anh nói. “Chúng ta đã thuê một chỗ ở Cape
May và cả gia đình mình đi dạo chơi trên bãi biển, nấu và ăn hải sản.”
“Tiếc là em lại không nhớ,” nàng nói kiểu ỡm ờ vờ vịt.
“Em cứ đùa!” anh nói. Anh có thể nghe mấy cô con gái đang
cãi nhau chí chóe nơi sân sau.
“Tất nhiên là em đùa. Đấy là những khoảng thời gian ngọt
ngào đáng nhớ nhất trong đời em. Nhưng biết bao giờ tìm lại những hương xưa...”
Les Halley đã kì kèo rằng Johnny nên làm bộ như đang độc
thân để cho các cô nàng choai choai tiếp tục reo hò mỗi khi thấy mặt anh. “Chưa
bao giờ tôi có ý tưởng đó” anh nói.
“Và anh luôn có một cô nàng dễ dãi, hừng hực ham muốn, đợi
anh bên kia phố để mỗi lần anh muốn ra ngoài mua thuốc lá - ”
“Em có nhớ khi anh bị bỏng tay lúc cố nấu món cháo ngô và - ”
“Và rồi lại làm bỏng chúng vì pháo hoa - ”
“Đúng” Anh bật ra tiếng cười.
“Ngày mai có buổi party thân mật,” nàng nói. “Và sẽ có liên
hoan nhẹ. Anh thích đến không?”
“Đến dự party?”
“Anh đang ở thành phố này, đúng không? Tiếng nói của anh nghe
rất gần.”
Anh kẹp điện thoại vào vai và dùng cả hai tay che mắt. “Ồ
không,” anh nói “Anh không ở gần đâu. Chỉ là nhờ đường kết nối tốt đấy thôi”.
“Ồ, tiếc quá!” nàng nói. “Thế là anh bị thiệt đấy. Em đang
làm mónscarpariello gà đây. Theo đúng công thức chế biến mà má anh
đã chỉ em. Hiện nay thì mấy cô con gái đang ở đây. Nếu như chúng không giết
nhau. Chúng đang ở lứa tuổi ấy.”
Johnny yêu chúng, nhưng trong mức độ mà anh có thể nói, hình
như chúng luôn ở lứa tuổi ấy.
Nàng hỏi chàng có muốn nói chuyện với chúng không. Chàng bảo
muốn, nhưng rồi chỉ có cô bé hơn đến cầm điện thoại. Philly bước vào, vỗ lên
đồng hồ.
“Nói với má con,” Johnny nói, “rằng bố sẽ cố gắng hết sức để
đến dự buổi party ngày mai.”
“Okay,” con bé nói. Nó truyền lại thông điệp, nhưng có một
nốt trong giọng của con bé cho người ta thấy rõ là nó biết tỏng rằng bố nó sẽ
không “trình diện đơn vị” đâu.
Mấy viên thuốc màu xanh lá cây kia đã được kê toa bởi Jules
Segal, cùng tay bác sĩ ấy đã chẩn đoán các mụn cóc trên các thanh quản của
Johnny và gửi anh đến một bác sĩ chuyên khoa để cạo bỏ chúng đi, một phẫu thuật
đã giúp cho Johnny có thể lấy lại giọng hát thiên phú của mình và trở lại với
các studio, một sự chẩn đoán mà hai bác sĩ chuyên khoa khác đã không tìm ra.
Chuyện thông thường hiện nay là có hàng ngàn tay lang băm ở Hollywood mà sự
quan tâm đến cơ thể con người chỉ còn co cụm lại ở những phần đầy đặn nở nang
của các nàng starlets đương thời và những điểm nhạy cảm trên người họ, làm giàu
nhờ bán thuốc ngừa thai hay những loại thuốc gây nghiện và săn sóc cho các cô
nàng lỡ dại để dính bầu. Và rồi có Segal, một bác sĩ cũng có cùng loại tiếng
tăm kiểu đó nhưng hóa ra lại là một tay bác sĩ hạng nhất, đủ tài năng để trở
thành Trưởng khoa phẫu thuật tại bệnh viện mới xây của Gia đình Corleones ở Las
Vegas. Vậy thì tại sao mỗi lần Johnny nuốt một viên thuốc kia - đúng với liều
lượng được chỉ định bên cạnh chai, không bao giờ quá liều - anh lại cảm thấy
choáng váng, mất phương hướng một thời gian?
Johnny lắc đầu xua đi ý nghĩ đó, giống một con chó bị ngứa
ngáy trong lỗ tai. Anh sẽ ổn thôi, thực vậy. Cả dưới sự kiểm soát và không. Thế
thì cũng được thôi và điều đó phù hợp với công việc hiện nay. Anh đang uống bốn
viên mỗi ngày, hai mươi li trà, một bình cà phê, một sandwich, và không ngủ
được. Trong khoảng không gian giữa da đầu và hộp sọ anh cảm thấy muôn vàn con
kiến nhỏ li ti đang nhảy múa rộn ràng như mừng ngày hội lớn. Cảm giác đau đớn
nơi các bắp thịt lớn trên đầu hai đùi anh, dầu gọi bằng cái gì đi nữa, gia tăng
kịch liệt hầu như từng giây phút. Nhưng Johnny vẫn ráng đứng trên đôi chân, quá
mệt lử để còn có thể rơi xuống sàn và chợp mắt một lát. Cùng lúc, anh lại thấy
có quá nhiều năng lượng. Anh không hiểu sao nhưng vẫn cố làm tròn vai của mình.
Lẽ ra anh đã bỏ rơi mọi chuyện dừng lại.
Anh có thể đã bỏ mọi chuyện để làm cho cảm giác này kéo dài
mãi mãi.
Anh đã đến đây vừa nghĩ rằng anh sẽ nằm xuống trong một nửa
khoảng thời gian của cuộc ghi âm kéo dài. Vài phút trước khi bắt đầu, anh nhận
ra rằng tốt hơn anh nên kết thúc bài hát để anh và cả Cy Milner đều hài lòng.
Tuy vậy, mấy phút trước khi anh bắt chuyến bay về Vegas, anh cảm thấy mình hát
bài thứ ba trong ngày quá hay đến độ anh làm một mạch cho đến kết thúc mà không
dừng lại hay bị dừng lại.
Dứt bài hát, anh mở mắt và thấy Jackie Ping-Pong và Gussie
Cicero đứng bên trong cánh cửa đằng kia của studio. Họ đã ở đây bao lâu rồi thì
Johnny chẳng có ý niệm gì.
Milner đã rút ra một xấp giấy. Trong tư cách nhạc trưởng,
anh nói ngắn gọn và trôi chảy nhưng anh viết các bè rất tỉ mỉ, chỉn chu. Anh
quên đi mọi chuyện khác, ngay cả người phục vụ đứng bên cạnh với một chai soda
và một nắm bút chì.
Johnny ngồi lên ghế đẩu và đốt một điếu thuốc. “Cha mẹ ơi!”
Johnny kêu to, lúc đầu nhìn vào Milner rồi đến Orstein, rồi chỉ vào Ping-Pong
và Gussie. “Phần ứng tác của tôi là đây. Đừng thức chờ tôi nhé.” Hai chân
anh thấy nặng kinh khủng. Cuối cùng anh nhìn lên và vẫy tay chào Ping-Pong và
Gussie.
“Bạn quý của ta!” Jackie Ping-Pong reo lên, vừa lạch
bạch tiến về phía anh. Lão ta mập núc ních, đúng là chỗ thân tình, thật vậy.
“Trông bạn bảnh như cả một triệu đô. Giọng ca của bạn lại càng trên cả tuyệt
vời!”
Riêng Johnny tự biết rằng mình trông như... một tử thi đang
cụng li! “Này, nói nghe coi, cái gì tốt hơn một triệu đô hở?”
“Vẫn là một triệu đô nhưng thêm một cuộc đánh trống thổi kèn
đến tê lê mê!” Gussie Cicero nói theo cái giọng bồ tèo thân thiết từ lâu.
“Bậy!” Johnny nói. “Nếu một nàng mái tơ mà biết là bạn đang
nắm một triệu đô nàng sẽ gióng trống thổi kèn rộn ràng vi vu cho đến khi bạn
ngu đi thấy rõ! Và hoàn toàn miễn phí!”
“Ở “lâu” có? Chỉ ngộ, ngộ cho tiền cò!” Jackie xen vào.
“Làm gì có chuyện miễn phí. Sạch ví thì có! Đừng có mà
nằm mơ!” Gussie”đế” thêm.
Cuộc tán nhảm giúp Johnny vui hẳn lên. Anh vỗ vào lưng
Cicero. “Ờ, nếu mình trông giống một triệu đô,” Johnny nói, “thì hai cậu trông
giống cái của nợ mà mình định vất đi nhưng lại tiếc nên cứ mang theo hoài!”
Johnny đứng lên và để cho Ping-Pong và Cicero ôm hôn mình.
Trong nhiều năm Johnny đã tưởng rằng cái hỗn danh Ping-Pong của Jackie đến từ
đôi mắt lồi của anh ta, nhưng không lâu trước đây Frank Falcone bảo với chàng
rằng thật ra không phải vậy, mà cái hỗn danh này chính là do cái tên gốc tiếng
Ý của anh ta, Ignazio Pignatelli. Gussie Cicero làm chủ một câu lạc bộ thanh
lịch nhất ở Los Angeles. Johnny đã không xuất hiện ở đó trong suốt thời gian
anh mất giọng và tờ Variety tung chuyện lên như đó là một cơ
hội cho toàn bộ ban nhạc bùng nổ ở Crown Royal và nhảy múa trên huyệt mộ còn
chưa xanh cỏ của Johnny.
Dầu thế Gussie và Johnny vẫn là bạn bè với nhau.
“Frank Falcone gửi lời chào,” Gussie nói. Gussie được cho là
một tay quan trọng trong tổ chức Los Angeles, có quan hệ trong một số lãnh vực
với Chicago.
“Anh ta không đến à?” Johnny hỏi.
“Ông Falcone bị ốm,” Ping-Pong nói. Bàn tay mập mạp của anh
ta nắm chặt một cái cặp trông còn mới. Anh ta là phó tướng. Cho đến nay Johnny
vẫn không biết một phó tướng thì làm cái gì. Về những chuyện loại này Johnny cố
gắng không biết hơn những gì mình cần biết. “Ngoài những lời thăm hỏi, ông còn
gửi cái này.”
“Đẹp quá,” Johnny thốt lên.
“Tôi sẽ gửi tặng bạn một cái,” Ping-Pong nói, “Nhanh
như tôi có thể đặt hàng và gửi bằng tàu thủy từ Sicily đến đây. Ở đó tôi có một
thuộc hạ làm việc cật lực nhưng cũng chỉ làm ra được mười cái như thế này mỗi
năm. da thuộc nguyên si, loại tốt nhất. Bạn muốn mình gửi nó đến Lâu Đài Trên
Cát hay đến nhà bạn? Chỗ nào?”
“Té ra cái này không phải cho tôi?”
“Cứ từ từ. Tôi sẽ đặt cho bạn một cái, mới toanh”
“Anh đùa tôi đấy à, Jack?”
“Không phải tôi đang chào hàng, mà tôi đang bàn công chuyện
với bạn. Hiểu chứ? Nhưng cái này đây,” anh ta nói và đưa nó
choJohnny, “là để cho MikeCorleone, rõ chứ?”
Hàm ý là: Thôi đùa thế đủ rồi và Dầu
gì đi nữa, này cậu, chỗ thân tình nói thật, khôn hồn thì đừng có mà táy máy mở
ra.
Cái gói được buộc chặt, nặng như một quả bóng bowling.
Johnny cầm lắc thử mấy cái, giống như một em bé vào dịp lễ Noel, rồi đưa nó lên
tai, làm bộ như xem nó có kêu tích tắc không.
“Chú mày buồn cười thật!” Ping-Pong nheo mắt lại trong khuôn
mặt phì phị của mình và đứng yên đó, cho đến khi lão ta ra vẻ thỏa mãn là
Johnny đã “ngộ” ra cái thông điệp vô ngôn nhưng lại rất hùng hồn kia. “Tôi cũng
xin rất lấy làm tiếc mà nói rằng,” cuối cùng lão cũng phát ngôn. “Tôi còn phải
xem xét một vài công việc riêng của gia đình.”
“Không có gì,” Johnny đáp lời. Vậy ra tôi phải biến
thành kẻ mang tiền hối lộ cho anh? Nghĩ là nghĩ vậy nhưng chàng vẫn
đứng yên, nuốt nhục xuống, như acid ăn mòn vào xi - măng rẻ tiền.
“Lâu quá không gặp bạn quả là thiệt thòi cho chúng tôi,”
Ping-Pong nói. “Bạn hát hay tuyệt, John à”.
Milner tiếp tục viết. Các nhạc công đi thành hàng một ra
ngoài. Johnny nói lời từ biệt và quay đầu ra cùng với Gussie và Ping-Pong. Một
chiếc Rolls - Royce màu xám bạc đang chờ ở cửa sau.
“Nữ hoàng ở đâu?” Johnny hỏi.
“Xin lỗi?” Ping-Pong nhíu mày như thể anh ta nghĩ rằng mình
đang bị gọi là một tên bóng và cảm thấy... quá nhột!
“Anh ấy muốn nói của nước Anh ấy mà!”
Gussie đỡ lời. “Đùa tí mà!”
Ping-Pong lắc đầu, hơi sượng với phản ứng có phần quá đà của
mình.
“Xe của tôi đó, Johnny,” Gussie nói.
Một chiếc Lincoln màu đen trờ tới. Ping-Pong và đám thủ hạ
của ông ta chui vào và chiếc xe phóng vù đi.
Khi họ làm thế, Johnny bắt gặp một ánh chớp của kim loại nơi
khóe mắt và anh giật nảy mình, chệch ra khỏi đường. Anh trượt chân và đi loạng
choạng dọc theo chiếc Rolls.
Không phải là viên đạn.
Johnny phân vân không hiểu tại sao mình lại nghĩ có thể đó
là viên đạn.
“Hú ba hồn chín vía em bé!” Gussie nói kiểu nhại đùa. “Cưng
không sao chứ?”
Johnny cúi người xuống để nhặt lên chùm chìa khóa xe của
Cicero. “Ngày dài thật,” Johnny nói giọng uể oải.
“Tất cả những gì bạn cần nói,” Gussie bảo, “chỉ là, không
cám ơn”
“Không cám ơn cái gì chứ?”
“Không cám ơn bạn không muốn lái chiếc Rolls - Royce cà tàng
của tôi.”
Johnny ném trả lại cho anh ta chùm chìa khóa. “Không cám ơn
tôi không muốn lái chiếc Rolls - Royce cà tàng của bạn.”
“Nào, chuyện có trầm trọng đến thế không?”
“Coi như tôi không nghe bạn nói gì, nhứt trí như vậy đi.
Mình kiệt sức rồi, người anh em à.” Mặt trời sắp lặn. Johnny không thể xác định
là đã từ bao lâu rồi kể từ khi anh có được một đêm ngon giấc không phải trằn
trọc thao thức.
Gussie ôm siết Johnny và nói rằng quả là một đặc ân khi nghe
anh hát. Họ ngồi vào xe và quay về hướng sân bay. Johnny bắt đầu xoay vặn chiếc
radio của Gussie. Vặn đến đài nào, băng tần nào cũng là những sở thích thời
thượng. Rock-and-roll. Những chàng disk-jockeys nói liến thoắng. Rồi nhạc nhảy
Mambo: một thời thượng khác. Những nữ ca sĩ sướt mướt đẫm nước mắt: lại một
thời thượng khác nữa. Johnny chưa bao giờ thử một lần nghe lại chính giọng
mình. Có lẽ các hãng thu âm khác đã có lí. Có lẽ loại thu âm mà Johnny Fontane
đang thử sản xuất không có được cơ may của anh chàng Trung Quốc gặp hên. Anh
tiếp tục dò đài. Gussie đã phải suy đoán thần kinh của Johnny căng thẳng đến
thế nào và trong phần lớn cuộc hành trình anh ta đã cố gắng nghiêm túc để không
nói điều gì cho đến khi họ ra khỏi đường cao tốc để đi vào đường đến sân bay.
“Đâu là sự khác biệt,” Gussie nói, “giữa Margot Ashton và
chiếc Rools-Royce?”
Margot từng là đời vợ thứ nhì của Fontane và là đời vợ thứ
nhất của Gussie. Fontane đã bỏ Ginny để theo Margot. Chiếm hữu trái tim chàng
vẫn chưa là đủ, Margot còn lấy đi mọi thứ, luôn cả lòng tự trọng của chàng. Có
lần, chàng chường mặt ra nơi phim trường nàng đang đóng và viên giám đốc sản
xuất sai chàng đi nấu spaghetti. Không một lời phàn nàn, Fontane đeo chiếc khăn
làm bếp lên và xăng xái vào bếp. Tình yêu mà! Thứ tình yêu sao mà ranh ma quỷ
quái! “Không phải mọi người đều từng ngồi trong một chiếc Rolls - Royce,”
Johnny phát biểu.
“Bạn nghe nói thế?”
“Mọi người đều nghe nói thế. Bạn biết đấy, với những chiếc
xe sang trọng khác nhau và với những cô ả dâm đãng phóng túng khác nhau”
“Các cô ả dâm đãng phóng túng cũng không khác nhau nhiều lắm
so với Margot Ashton đâu”
“Đó là chỗ bạn nhầm đấy, bạn thân mến của ta ơi. Mỗi dâm nữ
là một dâm nữ với bản sắc độc đáo rất riêng, không thể trộn lẫn vào nhau
được. Thế nên mới khiến cho Anh hùng nan quá mĩ nhân quan chứ!
Nếu em nữ dâm tặc nào cũng giống với bất kì em nữ dâm tặc nào, thế thì... chán bỏ
mẹ, và làm sao còn khiến cho Anh hùng ẩm hận đa được!”
Gussie cua nhầm một vòng, hướng đến các chuyến bay thương
mại.
“Bạn bẻ cua nhầm rồi đấy,” Johnny nói, vừa chỉ tay về phía
con đường đi đến các hangars để máy bay riêng.
Gussie lắc đầu. “Thực sự ra,” anh ta nói, “tôi chẳng đi nhầm
đường đâu. Frank không hề muốn làm tổn thương bạn, nhưng, bạn hiểu cho, sử dụng
nguyên cả một chiếc máy bay chỉ cho mỗi một người, e rằng...”
Anh ta đưa tay vào túi ngực. Rút súng chăng? Ồ không, không
phải súng. Johnny đã nhầm. Gussie lôi ra một phong bì. “Vé thương mại, nhưng là
hạng nhất.”
Johnny cầm lấy vé máy bay. Chuyến bay sẽ cất cánh trong vòng
mười lăm phút nữa. “Thực sự bạn không đi à?”
“Thực thế,” Gussie nói. “Mình đâu có được mời.”
“Dĩ nhiên là bạn được mời. Mình mời bạn đây.”
“Được rồi,” Gussie nói. “Gina và mình đã có những kế hoạch.” Gina
là cô gái anh đã cưới sau khi anh bị Margot Ashton bỏ rơi. Ashton đã kết hôn
với một tù trưởng Á rập sau đó và rồi chẳng bao lâu cũng đã li dị lão này để ẵm
được một số tiền chia của khơ khớ. “Chúng tôi đang chuẩn bị lễ kì niệm ngày
cưới lần thứ năm, nếu bạn có thể tin vào điều ấy,” anh ta nói, vừa dừng xe lại.
Những nhân viên tạp vụ nhanh nhẩu chạy đến để đỡ đần tay chân, khi thấy một
chiếc Rolls, hình dung rằng có những hành lí to nặng hơn và tiền boa ắt cũng
khá hơn. “Tuy nhiên, cuối tuần tới, nàng và tôi sẽ lấy vé đến đó và hội ngộ với
bạn.
“Hẹn tái kiến, bạn thân mến.”
Có một đám đông, chừng độ hai mươi người, tất cả ở độ tuổi
khác nhau. Johnny bảo đám nhân viên tạp vụ sân bay rằng anh không có túi xách
nào ngoại trừ cái túi nhỏ ở đây, nhưng dầu sao anh cũng boa cho bọn họ, mỗi em
hai mươi đô. Hai người trong áo khoác thể thao màu xanh da trời ùa đến để gặp
anh và giúp anh đi qua đám đông, điều này gây sự chú ý của mọi người, ngay cả
tại một nơi chốn như Los Angeles. Đám đông nở phình ra như khối cầu tuyết, nhấp
nhô phía sau anh khắp đường đi đến cổng. Làm ngược lại với sự phán đoán tốt hơn
của mình, Johnny trao cái túi xách cho một trong những nhân viên hàng không để
mình có thể rảnh tay kí tên cho nhanh, những chữ kí không đọc ra được, kể cả
cho một bà muốn anh kí tên ngay lên mặt bà ta. Anh boa cho hai nhân viên hàng
không năm mươi đô.
Khi anh bước lên máy bay, tiếng vỗ tay vang lên rào rào. Anh
vẫy tay, cười chào nhưng không gỡ mắt kiếng ra. Anh vào chỗ ngồi. Anh đặt cái
túi xách lên sàn giữa đôi chân mình. Trong những tình huống khác có lẽ anh đã
tán tỉnh cô tiếp viên hàng không tóc đỏ với đôi vú to trông thơm ngon như hai
trái táo chín kia rồi. Thế nhưng giờ đây tất cả những gì anh yêu cầu ở cô chỉ
là một chiếc gối, một li buốc - bông có đá, và một li trà nóng pha mật. Anh
liếc nhìn vào cái túi. Giá như người khác có lẽ đã mở cái túi ra lúc này. Nhưng
Johnny không thể phạm một lỗi khinh suất ngớ ngẩn.
Phải mất một hồi lâu cô tiếp viên mới mang thức uống lại.
“Chúng tôi không có mật” cô nói.
“Hình như trà cũng không”
“Em đi nấu nước ngay bây giờ”
Cô xoay người một vòng. Anh nhìn xuống chiếc túi. Anh mở nó
ra.
Nó được nhét đầy tiền mặt, dĩ nhiên rồi. Trên cùng là một
bức thư ngắn đánh máy, không chữ kí, vỏn vẹn mấy chữ, “Đã bảo là đừng nhìn vào
trong.” Bên dưới là một nụ cười treo ngược.
Johnny chèn bức thư lên. Anh thấy cô tóc đỏ đi đến với li trà
và anh uống một hơi hết nửa li bourbon. Anh nhai đá lúc cô đặt li trà xuống.
Anh xếp bàn tay trái thành một khẩu súng ngắn, chỉa vào cô, nháy mắt, và tạo ra
một tiếng tạch nhỏ. Cô đỏ mặt.
Lúc cô tóc đỏ đi qua buồng nhân viên, thu xếp mọi thứ đâu
đấy để chuẩn bị cho máy bay cất cánh, thì chàng đã dứt điểm li bourbon, cạn li trà
và đi vào giấc ngủ.