15. Hoàng tuyền không nhà trọ - Phần 02

3

Căn cứ để cho rằng mộ là nơi cư trú của các linh hồn chính
là bởi các linh hồn trú ngụ trong hài cốt. Hài cốt của người chết ở đâu thì
vong hồn của họ ở đó. Nếu người chết không được mai táng, vậy thì linh hồn của
họ cũng sẽ theo hài cốt phiêu bạt khắp nơi. Hiện tượng này xuất hiện rất nhiều ở
thời cổ đại, như trường hợp bị hổ báo, thú dữ ăn thịt, mất tích, chết ngoài chiến
trường, chết trong chiến tranh loạn lạc, bị nhấn chìm bởi những cơn đại hồng thủy
hay bị chôn vùi dưới các lớp đất đá... Đây đều là lý do khiến người chết mà
vong hồn không có chốn nương thân. Còn những người chết mà không được mai táng,
linh hồn sẽ lang bạt khắp nơi giống như những nạn dân đi tha hương cầu thực vậy,
không chỉ làm những người thân trong gia đình cảm thấy bất an mà còn khiến người
đi đường cũng cảm thấy xót thương, trật tự trị an ở nơi đó cũng vì thế mà thêm
phần phức tạp.

Tác gia Đường Dật Danh cũng đã ghi chép về các vong hồn vì
phải phục dịch tòng quân mà chết thảm nơi đất khách quê người, thỉnh thoảng may
mắn kiếm được bữa no nhờ sự thương hại của những người qua đường.

Khai nguyên lục niên, có người bơi thuyền qua sông Hà Mi, thấy
có một xác khô bên bờ sông thì đặt cho ít đồ ăn, sau đó liền nghe văng vẳng bên
tai tiếng cảm ơn, và thơ rằng: “Ngã bản Hàm Đan sĩ, chi dịch tử vu Hà Mi, bất đắc
gia nhân khốc, lao quân hành lộ bi.”[192]

[192] Dịch thơ: Tôi
đây là tráng sĩ Hàm Đan, chết trận trên sông Hà Mi. Không được tiếng khóc tiếc
thương của người thân, vất vưởng nhờ chút lòng thương của người quân tử qua đường.

Đời nhà Tống trong cuốn Triệu Khang Thanh công vấn kiến lục
có ghi lại việc Âu Dương Tu bơi thuyền qua sông Hán Giang, “đêm khuya tĩnh mịch
vẳng nghe có tiếng khóc, tiếng ca làm náo loạn cả khúc sông”, nhưng khi đến gần
thì âm thanh lại im bặt. Hỏi người làng, chỗ này có nghĩa địa không? Đều trả lời
là không. Đi được hơn một dặm thì gặp tòa thành cổ được xây dựng từ thời Chiến
Quốc, có tên là Miện Thành. Những u hồn tử sĩ đã lưu lạc ở đây từ hơn nghìn năm
nay.

Đổng Cốc, người đời Minh đã ghi chép về chuyến đi Nam Kinh của
mình trong cuốn Bích lý tạp tồn rằng: “Trên đường đi có quá nhiều thứ quỷ
quái, khiến người qua đường không dám đi”. Những hồn ma chết trận thời xưa đều
biến thành quỷ hoang, giống như một lũ thổ phỉ, trải qua hàng nghìn năm vẫn
không siêu thoát, ngày đêm quấy nhiễu cuộc sống của người dân. Chu Nguyên
Chương định đô ở Nam Kinh, quyết định này của ông không được sáng suốt cho lắm,
thiết nghĩ đám đại quân tử trận kia khi thấy các tú tài thì khí nóng trong
xương tủy lại càng mãnh liệt, càng quấy nhiễu nhiều hơn.

Bất luận thế nào thì những hồn ma hoang dại, không nơi nương
tựa cũng luôn là nỗi ám ảnh của những con người chốn dương gian, tuy nhiên vẫn
có một số ít ngoại lệ. Sưu thần hậu ký có ghi chép về đội thuyền nhạc đi
theo chiến quân của Tào Tháo bị chìm ở cửa Nhu Tu, u hồn đội nhạc kỹ từ đó mãi
mãi được ngao du trên sông Giang Phủ, cũng giống như giếng Yên Chi trên núi Kê
Minh ở Nam Kinh, từ đó nơi đây trở thành một thắng cảnh nổi tiếng với cảnh sắc
nên thơ, tráng lệ. Trên mặt sông lúc nào cũng nghe du dương tiếng đàn, tiếng
sáo, lẫn trong mây nước là tiếng chèo thuyền của đoàn quân Tào Công, thỉnh thoảng
lại có tiếng quẫy của người cá, khi hoàng hôn buông xuống hay lúc đêm về thì tiếng
đàn, tiếng sáo nghe lại càng du dương, thánh thót.

Hơn hai trăm năm trôi qua, trải qua bao thăng trầm lịch sử,
thời đại cũng đã đổi thay, nhưng vẫn giữ được kiểu cách “quan thuyền”. Tào Mạnh
Đức thất bại trên cửa sông Nhu Tu, biết bao nhiêu chiến thuyền đã gửi lại trên
sông Trường Giang này, chỉ riêng những tướng sĩ bị nhấn chìm ở nơi đây đã lên đến
mấy nghìn người, và từ đó họ không tan biến vào hư vô, không có những câu chuyện
văn thơ làm chủ đề đàm đạo cho các hương thân phụ lão mỗi khi trà dư tửu hậu. Đều
là những kẻ vô tội phải vùi thân dưới đáy Trường Giang, nhưng cái chết của các
tướng sĩ và đội nhạc kỹ lại có những ý nghĩa khác biệt rõ rệt, thật khiến người
ta cảm khái. Sự đảo lộn giá trị của người đời có lẽ cũng từ đó mà ra. Lại nhớ đến
loạn An Sử, sau khi loạn An Sử nổ ra, hài cốt của người dân và quan binh vẫn
phơi sương phơi gió ngoài đồng hoang, những cung nữ già liền học theo các nghệ
nhân xưa, bắt đầu lưu truyền những câu chuyện kỳ quái nơi tam cung lục viện, những
câu chuyện lấp lánh sắc màu quỷ quái, hư hư thực thực, nhưng dưới con mắt của kẻ
nô tỳ thì tất cả đều vô cùng vĩ đại. Vậy là người nghe liền bị mê hoặc bởi những
câu chuyện kỳ quái, tất cả những đau khổ đều tan biến, trận bạo loạn đảo lộn đất
trời, với hàng ngàn, hàng vạn xác chết cũng bị một bàn tay vô hình che kín. Cho
đến hàng trăm, hàng nghìn năm sau, những câu chuyện như thế vẫn chưa thể kết
thúc.

Nhưng nói cho cùng, nếu chúng ta lo lắng, quan tâm đến các
cô hồn thì hãy an táng hài cốt của họ thật chu đáo, để linh hồn của họ có nơi
an nghỉ, hơn nữa, hầu hết các hồn ma đều mong mình được trở về với đất. Người
xưa sau khi chết đi đều được an táng trong khu mộ riêng của gia tộc mình, còn
những kẻ chiến bại trên sa trường thì đành chôn mình nơi đồng nội, không được
trở về bên cạnh phần mộ của tổ tông, chết mà không ai phúng viếng, nhưng vẫn phải
dùng xe ngựa thô sơ kéo về, kiếm cho họ cỗ quan tài nhỏ làm chỗ an thân, cũng
có nghĩa là không cho họ quyền công dân nhưng cũng không được cướp đi quyền
sinh tồn của họ. Vương Sĩ Trân, đời nhà Thanh có đoạn ghi chép về Lâm Tứ Nương
trong Trì Bắc ngẫu đàm. Lâm Tứ Nương là cung nữ đời nhà Minh, sau khi
triều Minh sụp đổ, vong hồn của cô phiêu dạt trên đất Bắc, đau thương kể lể nỗi
ưu phiền của những u hồn lang thang. Cư sĩ đời Thanh, Thung Nột trong quyển
hai, cuốn Chỉ văn lục có đoạn kể về “Trịnh tú tài”, có người thương nhân
họ Ngô bị bọn cướp giết chết ngoài biển, vong hồn của ông liền hiện về, than thở
rằng: “Tuy hài cốt tôi đã chìm dưới đáy biển sâu nhưng linh hồn này vẫn luôn hướng
về nơi quê cha đất tổ.” Thử hỏi rằng, nỗi lòng nhớ quê hương, nhớ thương người
thân da diết ấy có khác gì với cuộc sống của người trần!

Đối với những hồn ma phiêu dạt tha hương thì phải đưa họ trở
về quê hương bản xứ, chỉ cần di dời hài cốt của họ trở về quê hương thì vong hồn
của họ tự khắc cũng sẽ trở về với họ tộc. Đây được gọi là “lữ quỷ tùy hài phản
hương”.

Đới Phủ, người đời Đường đã ghi lại chuyến đi cùng cha về nhậm
chức ở Mật Châu trong cuốn Quảng dị ký, trong mơ ông thấy mình làm quen
với một cô gái, ngày hôm sau lại mơ thấy cô gái đến từ biệt, giọng nói đầy vẻ
thê lương: “Thiếp là con gái Trưởng sử trước, chết ở phía đông nam thành. Anh
trai thiếp ngày mai sẽ đến đón thiếp về an táng, ngày cuối cùng đến đây vĩnh biệt
chàng, trong lòng quả thật vạn phần không nỡ!” Hài cốt được đưa về quê hương,
vong hồn cô gái từ đó cũng không quay lại nữa, tuy tình cảm với người thương vẫn
còn bịn rịn không nỡ xa rời, nhưng không còn cách nào khác, không muốn đi cũng
không được.

Những lữ quỷ gửi thân nơi đất khách, mặc dù bị trói buộc bởi
chính hài cốt của mình, không thể tự trở về quê hương, nhưng thỉnh thoảng cũng
có thể về nhà thăm tình hình của cha mẹ, người thân. Những câu chuyện về các
vong hồn có thể vượt ngàn gian khó về thăm gia đình cực kỳ hãn hữu, cho dù minh
giới không có ràng buộc gì, nhưng vẫn có rất nhiều điều bất tiện. Hồng Mại
trong quyển mười lăm Di kiên bính chí có đoạn kể về “thiếu phụ Nguyễn
Lâm Châu”, nói rằng, những hồn ma từ nơi khác đến đều phải chịu sự quản giáo tạm
thời của thổ thần địa phương, giống như thi thể của thiếu phụ họ Nguyễn được
thác gửi nơi cửa Phật, chịu sự quản thúc của hộ pháp trấn giữ cửa chùa, “tuy có
thể về nhà bất cứ lúc nào, nhưng khi có tiếng chuông sớm hoặc chuông chiều đều
phải tức khắc trở về nhận lệnh, khổ cực vô cùng”. Họ được đối xử như phạm nhân
vậy. Vì thế, cho dù có phải hỏa thiêu hài cốt thành tro bụi cũng nên nhanh
chóng đưa họ về an táng tại quê nhà.

Thanh Thành Tử, người nhà Thanh trong tác phẩm Chí dị tục
biên
của mình có đoạn bàn về thuyết “hài cốt là nơi cư ngụ của vong hồn” đã
giải thích rằng, có một điều khá thú vị mà rất ít người biết là, nếu hài cốt
hóa thành hư vô thì âm hồn tự nhiên cũng theo đó mà tan biến.

4

Mộ phần tuy có quy mô và kiểu cách khác nhau, nhưng tất cả
các ngôi mộ đều có một điểm chung là, đều phải đào một cái hố trên mặt đất, đặt
quan tài người chết vào đó, rồi lấp đất chôn. Đối với người sống, ngôi mộ đó dù
là xây dựng nguy nga như cung điện dưới lòng đất, hay công trình thế kỷ đi nữa,
thì nó cũng chỉ có một chỗ có tác dụng, đó là phần giữa ngôi mộ, nơi cất giữ
thi thể người quá cố.

Đới Tác, đời nhà Tấn có ghi chép một câu chuyện, một lần đi
đêm bị lạc đường, ông nhìn thấy phía xa xa có đốm lửa sáng, dường như có nhà
dân, liền chạy thục mạng về phía đó, quả thật là có một ngôi nhà, nhưng đến
ngày hôm sau khi tỉnh dậy, bước ra khỏi nhà mới phát hiện đó chỉ là một ngôi mộ.
Những câu chuyện tương tự như thế được lưu truyền rất nhiều trong dân gian. Cẩn
Đào Tiềm trong Sưu thần hậu ký cũng ghi lại rất nhiều những câu chuyện
như thế, như huyện sử đời Hán, Ngô Tường vì không chịu nổi những phục dịch hà
khắc chốn quan trường liền tìm cách bỏ trốn vào núi sâu. Đi đến một con suối
thì trời tối. Đến đây ông gặp một thiếu nữ, liền theo cô về nhà, ngôi nhà chỉ
là một túp lều nát. Hôm sau, khi tỉnh giấc chỉ thấy một mình nằm giữa nghĩa địa.
Trong Pháp uyển chu lâm cũng ghi một câu chuyện tương tự, Chu Mỗ người
Nghĩa Hưng, đời nhà Tấn cưỡi ngựa ra ngoài dạo chơi, chưa về đến nhà thì trời
đã tối, thấy bên vệ đường có một ngôi nhà cỏ nhỏ, một cô gái từ trong nhà bước
ra. Những túp lều rách nát hay những căn nhà nhỏ đơn sơ bên đường đều do những
ngôi mộ nhỏ của những người dân lao động khốn khổ, hay những thiếu nữ bạc mệnh
hóa thành.

Nếu như bạn lạc vào một khu nghĩa địa lớn, thì những ngôi mộ
ở đó tự nhiên sẽ mọc thành những tòa nhà nguy nga tráng lệ. Lưu Nghĩa Khánh
trong U minh lục có ghi chép, có một thương nhân sống ở thời nhà Ngô,
tên Trần Tiên đi đêm, qua một ngôi nhà trống, cổng rộng tường cao, sáng hôm sau
nhìn lại hóa ra chỉ là một khu nghĩa địa. Thái bình quảng ký có dẫn một
câu chuyện rằng, Hoằng Môn dẫn Trương Vũ đi qua Đại Trạch Trung, trời sẩm tối
chợt thấy một ngôi nhà lớn cổng mở toang. Trương Vũ liền lên trước thăm dò, thấy
có một nữ tỳ ra hỏi, ông ta liền ngỏ ý muốn ngủ nhờ qua đêm. Nữ tỳ vào báo
xong, liền kêu Trương Vũ vào. Vào nhà, ông ta thấy có một phụ nữ tuổi trạc ba
mươi đang ngồi trong màn, xung quanh có đến hai mươi người hầu hạ, y phục vô cùng
diêm dúa. Người phụ nữ đó là con gái của thái thú Trung Sơn nên mới được sống
trong ngôi nhà nguy nga với hơn hai mươi kẻ hầu người hạ như thế.

Những câu chuyện trích dẫn ở trên đều là truyện được những
người của Lục triều ghi chép lại. Chuyện xảy ra dưới các đời Hán, Tấn, Tống...
đều là các thời đại xa xưa không thể khảo cứu, nhưng có nguồn gốc dân gian đại
thể vẫn có những giá trị nhất định. Những câu chuyện như trên đã trở thành một
mô típ, vẫn được người đời sau kế thừa như những tiểu thuyết truyền kỳ, quái dị
từ Lục triều đến nhà Đường, nhà Thanh. Như Lục Huân, người đời Đường trong Chí
quái lục
có ghi chép về câu chuyện Tôn Thiệu Tổ gặp một nhà dân ven đường,
chợt nghe trong nhà văng vẳng tiếng đàn. Đoàn Thành Thức trong cuốn mười ba Tây
dương tạp trở
kể về câu chuyện Thôi La Thập, người Thanh Hà, đêm khuya đi
qua mộ phần của một vị phu nhân, thấy châu môn phấn bích, lầu son gác tía. Qua
một đêm tình cảm mặn nồng, trời sáng mới phát hiện, hóa ra đây là khu nghĩa địa
của một gia đình danh gia vọng tộc. Minh thế vốn dĩ là cảnh tượng của người trần,
là nơi diễn lại tất cả những gì xảy ra nơi trần thế. Địa vị, đẳng cấp của các
linh hồn được thể hiện rõ ở việc ăn ở. Ở cõi nhân gian có nhà cao cửa rộng, lầu
son gác tía, nhưng cũng có những nhà tranh vách đất, lều cỏ đơn sơ, ở cõi âm
cũng vậy. Thân phận cao sang hay nghèo hèn lúc sinh thời của các linh hồn vẫn
được giữ nguyên ở cõi âm, vì thế mộ phần của họ cũng có những ranh giới, đẳng cấp
khác nhau, thậm chí còn có quy định nghiêm ngặt hơn việc xây nhà ở cho người
dương thế gấp bội phần. Những quy định cụ thể về việc xây mộ phần đều được ghi
chép rất tỉ mỉ trong thể chế lễ pháp của các thời đại. Kích cỡ, chiều cao, chiều
dài, số lượng tượng đá, ngựa đá đứng canh mộ đều được quy định rõ ràng, thậm
chí cả những vật muốn chôn theo người chết xuống âm tào địa phủ cũng không được
tùy ý sắp đặt.

Những điều này đều không đáng để quan tâm, nhưng người ta vẫn
cứ bắt mình phải tin, mộ phần được xây dựng nguy nga hay chỉ là một đám cỏ,
không chỉ có mối liên hệ chặt chẽ đến người chết, là ngôi nhà của các linh hồn,
mà cũng khiến cho tâm hồn người sống được thoải mái hơn phần nào. Những quan niệm
hoang đường này cũng là kết quả của sự bất lực về mặt tâm lý. Người ta không thể
xây cho người chết một tứ hợp viện dưới lòng đất, nhưng cũng không đành lòng
nhìn người thân của mình bị chôn vùi trong sáu mảnh gỗ, vì thế họ đành dằn
lòng, tưởng tượng cỗ quan tài kia là một khu tứ hợp viện cho người chết, để yên
lòng người quá cố cũng là để an ủi bản thân mình. Vì thế, trong Duyệt vi thảo
đường bút ký
có đoạn, có người khi mai táng cho người chết, lỡ chân đạp vỡ
một mảnh ván, đêm mộng thấy bị Thành Hoàng giải đi, nói có người kiện anh ta
phá hỏng nhà của họ. Minh chứng thuyết phục nhất cho điểm này là câu chuyện vào
thời Ngụy Tấn, kể về việc người sống có thể đến thăm nhà của người đã khuất, thậm
chí có thể sống thử một đêm để tìm hiểu cuộc sống cõi âm.

Theo lẽ thường, nơi ở của quỷ là chốn người phàm không thể
vào được, cũng như người sống thì không thể vào trong mộ của người đã khuất, vì
thế chỉ có phần hồn của người dương mới có thể đến được cõi âm, mà người ta thường
gọi là quỷ sống. Như trong Quảng dị ký có phần Hà gian Lưu Biệt Giá,
kể rằng Lưu Biệt Giá trên đường đi gặp một người đẹp, liền theo cô gái về nhà.
Trằn trọc canh thâu, anh ta bất giác cảm thấy có điều gì đó khác lạ, nửa đêm nằm
trong chăn ấm đệm êm mà toàn thân lạnh toát, cơ thể rã rời, trong lòng thầm
nghĩ về những việc kỳ quái đã xảy ra. Sáng sớm hôm sau, vừa tỉnh dậy, cả cô gái
và lầu ốc đều tan biến, còn mình đang nằm trong một khu vườn hoang.

Trằn trọc cả đêm, chắc chắn Lưu Biệt Giá không chỉ lăn qua
lăn lại trên chiếc giường nhỏ, nhưng cho dù chàng đã thăm thú những đâu trong
ngôi nhà ma quái đó thì ngôi nhà ấy cũng chỉ được gói gọn trong không gian sáu
mảnh ván của cỗ quan tài, và thể xác chàng Lưu thực chất vẫn nằm trên bãi cỏ
hoang, không thể vào trong ngôi nhà âm đó được. Vậy thì cái “chăn ấm đệm êm” mà
chàng Lưu cảm nhận được chẳng qua là đám cỏ hoang (ở đây có lẽ là do yêu khí biến
thành), nên chàng mới cảm thấy lạnh lẽo, buổi sáng tỉnh giấc, thấy mình đang nằm
giữa khu vườn bỏ hoang.

Chương thứ mười lăm trong Duyệt vi thảo đường bút ký
ghi chép việc Mỗ Ất dẫn vợ đến Cam Châu, đi được khoảng mười dặm về phía đông
thì bị lạc đường, đành trú lại ở một trấn nhỏ. Đường xa mệt mỏi, vừa đặt lưng
hai người liền thiếp đi ngay. Sáng hôm sau tỉnh dậy, giật mình phát hiện mình
đang ở giữa một cánh đồng hoang. Còn người vợ ngủ trong căn phòng khác, không
ngờ nửa đêm bị ma nam cưỡng hiếp, sáng ra thấy trên mình không mảnh vải che
thân, đầu tóc bù xù, quần áo bị mắc hết lên cành cao. Đây cũng là một minh chứng
chứng tỏ rằng cơ thể người phàm không thể vào trong mộ phần của người đã khuất.
Trong truyện Liêu trai có kể câu chuyện về Trương Hồng Tiệm. Trong truyện
có ngôi nhà của gia đình hồ tiên chỉ hiện hình lúc đêm xuống, thực chất cũng là
viết theo quy luật này mà thôi. Khi Trương Hồng Tiệm muốn ra ngoài dạo chơi, hồ
tiên dặn đi dặn lại rằng, đợi khi trời tối mới được quay về. Chàng Trương nghe
lời, đi sớm về muộn, trong vòng nửa năm cảm thấy mọi việc đều suôn sẻ. Nhưng một
hôm, chàng về nhà sớm hơn bình thường thì chẳng thấy nhà cửa, làng xóm đâu.
Đang trong cơn hoảng hốt thì nhà cửa bỗng chốc mọc lên như có phép màu, bản
thân chàng không hề nhấc bước mà đã ở trong nhà từ lúc nào không hay. Dường như
sự thoắt ẩn thoắt hiện của ngôi nhà hồ tiên chẳng qua chỉ là sản phẩm của sự
hoang tưởng, nhưng đối với con người mà nói, đây chính là một vật thể có thật.
Ngôi nhà cõi âm từ hư thành thực, rốt cuộc là sự biến đổi do yêu khí tạo ra khi
trời tối, hay chính là sự thể nghiệm đặc biệt của người dương sau khi bị rơi
vào trạng thái của các linh hồn? Hư hư thực thực, huyền huyền ảo ảo, cái ranh
giới mong manh đó quả thực khó mà vạch ra rõ ràng được.

Vì vậy, hầu hết các câu chuyện ma quỷ đều không có mối liên
hệ chặt chẽ với các thực thể, những ngôi mộ đó không chỉ có người dương mà cả
các loài vật thân thiết với con người như lừa, ngựa cũng có thể đăng đường nhập
thất, cùng con người trải nghiệm cuộc sống dưới cõi âm. Những câu chuyện như thế
ở thời Hán - Ngụy nhiều không kể xiết, cho đến đời Thanh, dân gian đều cho rằng
đó là việc đương nhiên, hợp với lẽ thường. Liêu trai chí dị có một phần
kể về Ái Nô, viết rằng, chàng thư sinh được quỷ mời về làm thầy dạy, chàng mơ hồ
không biết mình đang sống cùng quỷ trong một ngôi mộ hoang. Trong một lần tức
giận, chàng bỏ ra ngoài lúc trời sắp sáng. Vậy là phu nhân liền sai người hầu
“tiễn chàng thư sinh rồi khóa chặt cửa nhà, cánh cửa vừa khép, chàng ta đi được
mấy bước thì mặt trời chiếu rọi, mới thấy mình vừa bước ra từ bãi tha ma. Chàng
nhìn quanh tứ phía, toát mồ hôi lạnh, chỉ thấy sau lưng là một ngôi mộ cổ”. Một
ngôi mộ cổ mà người dương lại có thể tự do ra vào, tuy cũng có cửa đóng then
cài, nhưng điều này vẫn không hợp với lẽ tự nhiên. Tuy nhìn bên ngoài, đó chỉ
là một ngôi mộ cổ, nhưng khi bước vào trong, ngôi mộ lại biến thành phủ đệ gia
thế nguy nga, đêm xuống hiện nguyên hình một phủ đệ tráng lệ với cánh cửa lớn
khắc hình hai con sư tử ở giữa, khi mặt trời lên thì lại kín cổng cao tường, điểm
này thật khiến người ta khó mà lý giải. Có lẽ trong con mắt của người đương thời,
điểm này cũng không bị coi là chi tiế́t vô lý, nhưng câu chuyện vốn dĩ không
nên diễn ra theo hướng đó. Đối với ma quỷ, mộ phần chính là nơi ở, chính vì thế
mà những đồ gốm sứ được mai táng theo người chết thường là đồ dùng gia đình.

Những câu chuyện ma quỷ ở các đời sau ít nhiều đã có những đổi
khác, chú trọng nhiều hơn đến mối liên hệ nghiêm ngặt giữa các tình tiết truyện.
Có những truyện với tình tiết diễn ra trong những giấc mơ của người dương thế,
có truyện thì đào một lối đi riêng trong hầm mộ để tiện cho sự giao lưu giữa
hai thế giới... Mặc dù các câu chuyện có những tình tiết gần gũi hơn với đời
thường, nhưng dù thế nào cũng vẫn là những câu chuyện hoang đường, không thể trọn
vẹn được. Nhàn Trai Thị trong chương ba, Dạ đàm tùy lục kể về câu chuyện
của Thiến Nhi: “Thiến Nhi mời chàng thư sinh về tệ xá chuyện trò, hai người đi
xuyên qua rừng cây tùng một quãng thì đến một huyệt mộ. Chàng thư sinh bị Thiến
Nhi kéo vào trong đó, chỉ cảm thấy cơ thể mình như bị thu nhỏ lại còn một tấc,
vào trong mộ cơ thể chàng lại trở lại như bình thường, thấy bốn bức tường đều
làm bằng gỗ, sơn tinh xảo, đẹp mắt.” Có thể thấy trí tưởng tượng của tác giả
cũng thật phong phú, để chàng thư sinh có thể chui vào huyệt mộ, tác giả liền để
cơ thể chàng thoắt nhỏ rồi thoắt trở lại hình dáng cũ. Thực chất điều này cũng
do tác giả vẫn chịu lệ thuộc của các sự vật hiện hữu trong thực tế, vì thế có
những tiểu tiết chưa hợp lý cũng là điều dễ hiểu.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3