Theo đuổi - Chương 05 - 06
5
Trong chuyện tình cảm, buồn nhất trên đời là khi ta yêu một
người mà người chẳng yêu ta. Đến khi người yêu ta thì ta lại nhận ra rằng ta chẳng
còn yêu người nữa.
Tình yêu là một trò đuổi bắt.
*
“Hồi trước chị có một chiếc xe đạp màu xanh, đúng không?”.
“Đúng rồi. Nó đưa chị đi học suốt mấy năm sinh viên”.
Tôi trả lời, và bất ngờ ngẩn người ra. Làm sao Hạc biết tôi
từng có một chiếc xe đạp màu xanh, trong khi tôi chưa từng nói chuyện với cô ấy
quá năm phút và chưa từng nhắc về chiếc xe ấy?
“Sao em biết?”.
Hạc vặn một lọn tóc mượt dài trong những ngón tay trắng xanh
mảnh khảnh.
“Em cũng không biết. Tự nhiên em thấy nó trong đầu. Em thấy
chị đi xe đạp xanh trên đường”.
Trong bữa cơm trưa ở nhà Bến Bình, tôi được giới thiệu làm
quen với ba người đàn ông. Người lớn tuổi nhất là bố chồng Bến Bình. Thoạt nhìn
không ai nghĩ ông ấy là quan chức cấp cao, nổi tiếng hét ra lửa trong tỉnh. Tôi
nghĩ ông giống một cụ ông hiền lành có thú chơi tao nhã là chim cảnh. Trong
khuôn viên nhà họ treo duy nhất một lồng chim cảnh. Cái lồng trống không. Bến
Bình ghé tai tôi nói nhỏ: Bố chồng cô vừa mất đi con chim yêu quý nhất của
mình. Ông ta đau lòng vì mất nó còn hơn đau lòng vì mẹ chết. Từ đó đến nay
không con chim quý nào khiến ông ta nguôi nhớ con chim đã mất. Ông vẫn để chiếc
lồng không, đợi một ngày kia một con chim định mệnh nào đó có phước được hưởng
lộc trời, trở thành hoàng hậu của chiếc lồng quý.
“Chiếc lồng quý nhường nào?”.
Bến Bình cười tít mắt.
“Chị không hình dung được đâu”.
Thôi được, tôi cũng không muốn hình dung, tôi chẳng muốn
quan tâm đến họ. Tôi chỉ muốn mau chóng rời khỏi ngôi nhà của họ. Nghe nói dân
chơi chim tiêu dao thường treo duy nhất một cái lồng chim trong vườn, và chủ của
cái lồng ấy là con chim quý nhất mà họ có thể sở hữu. Treo nhiều lồng chim
trong vườn chỉ có thể là dân chơi chim sành sỏi, vừa chơi chim vừa bán mua trao
đổi. Còn nếu treo quá nhiều lồng chim trong vườn, thì không phải là dân chơi
sành điệu, cũng chẳng tiêu dao, mà là người buôn chim cảnh…
Người đàn ông thứ hai là chồng Bến Bình. Anh ta là giáo
viên, một mẫu người vui vẻ.
Người thứ ba trẻ nhất, là em chồng Bến Bình. Anh ta tên là Tản,
một anh chàng có đôi mắt đa tình.
Trong bữa cơm, tôi có nghe họ nhắc đến Hạc. Hạc là chị gái của
Bến Bình. Họ không phải đã được sinh ra và lớn lên ở Cẩm Xuyên. Bố mẹ họ buôn
bán và tậu đất, xây nhà, định cư ở đó.
Khi đưa tôi về nhà, Hải Đường cho biết thêm: Năm hai mươi tuổi,
Hạc yêu một chàng trai ở bên kia biên giới. Mối tình rất mãnh liệt nhưng không
thành, và từ đó cô ấy luôn nghĩ mình là chim. Sau tai nạn từ trên cây rơi xuống,
gia đình để cô ấy sống một mình trong căn phòng của dãy nhà trên đồi, nơi tôi vừa
đến ở trong căn phòng bên cạnh. Dãy nhà này trước đây thuộc về quyền quản lí của
một lâm trường. Nay lâm trường giải thể, nó được địa phương cho thuê, vì nó khá
xa với trung tâm thị trấn, nên khách du lịch có lai vãng xứ này thì cũng ít biết
đến nó.
“Để cô ấy sống một mình như vậy có ổn không?”.
Câu hỏi của tôi có vẻ thừa. Nếu không ổn thì họ đã đưa cô
gái về từ lâu. Sau cú sốc tình yêu tan vỡ, ngoài việc nghĩ mình là chim ra thì
hiện giờ Hạc khá bình thường. Cô sống một mình và phụ thuộc hoàn toàn vào sự
chu cấp của bố mẹ. Hải Đường nói gia đình Hạc là một trong số những người ít ỏi
giàu có nhất Cẩm Xuyên. Ở xứ núi, nhưng sự giàu có của họ có thể sánh với đại
gia ở thành phố. Họ có thừa khả năng gả chồng cho cô ấy. Nhưng Hạc không hề mở
lòng.
Tôi, vì ý nghĩ do Hải
Đường gieo vào đầu, nên đinh ninh rằng một cô gái tâm thần như thế, ngoài việc
trồng hoa hồng và xem kiến chạy ngoài hiên thì cuộc sống thực sự rất u ám.
Nhưng khi bước chân vào căn phòng ấy theo lời mời của cô, tôi hoàn toàn ngạc
nhiên. Căn phòng sạch sẽ, tiện nghi, với những bức tranh phong cảnh thơ mộng
trên tường, bình hoa tươi trên bàn và từ giàn stereo một bản nhạc hiện đại đang
buông một giai điệu trữ tình.
Chính tại căn phòng, với chén trà xanh veo, Hạc đã hỏi tôi vể
chiếc xe đạp.
“Chị Hàm Yên, tại sao chị không lấy chồng?”.
Tôi không nghĩ Hạc lại đề cập đến vấn đề hôn nhân trong buổi
nói chuyện thân mật đầu tiên giữa hai chúng tôi như vậy.
“Không. Chỉ là chị chưa gặp người nào đem lại cho chị cảm
giác về một sự gắn bó lâu dài”.
“Chị phụ thuộc vào cảm giác à?”.
Tôi hơi sững vì câu hỏi đó, nhưng nó rất thật.
“Chị sống phụ thuộc vào cảm xúc. Chị có một trực giác rất đặc
biệt. Nó luôn đúng trong những trường hợp cần phải báo trước một tin xấu. Chị
không bao giờ tin mình hạnh phúc. Vì thế, đối với chị, hạnh phúc rất mong
manh”.
Hạc tiếp tục vuốt mái tóc suôn dài. Lâu rồi tôi chưa gặp người
con gái nào có mái tóc dài và đẹp như thế.
Tôi chưa bao giờ để tóc dài. Một mái tóc dài luôn gợi tôi
nghĩ tới sự ràng buộc. Song Hào, người yêu cũ của tôi nói cậu ấy yêu tôi chính
vì mái tóc chấm vai rất trẻ con của tôi. Sau này, khi đã chia tay nhau, tôi và
Hào vẫn chơi với nhau như những người bạn tốt. Rồi Hào có người yêu mới. Một cô
gái có mái tóc dài. Có phải vì mái tóc dài đó mà Hào say mê cô ấy không? Tôi
không quan tâm đến điều đó. Nếu cậu ấy yêu tôi vì mái tóc ngắn chấm vai, thì tình
yêu đó sẽ chết khi tôi để tóc dài hơn, hay cắt ngắn hơn. Nhiều khi nghĩ lại điều
đó, tôi không sao khiến mình không thể cười thầm. Tình yêu không có lí do để đến,
cũng chẳng cần lí do để ra đi. Niềm vui mà tình yêu mang lại rất ảo, nhưng nỗi
buồn thì rất thật. Nỗi buồn ở lại lâu hơn những thứ khác trên đời.
Trời bắt đầu đổ cơn mưa tiếp theo của mùa mưa đằng đẵng xứ Cẩm
Xuyên. Cửa sổ căn phòng của Hạc mở to. Những bụi nước mưa bắn vào, đậu kín trên
mặt bàn, trên thân những chiếc cốc sứ trắng muốt và những bông hồng trong lọ. Đồi
thông phía sau nhà chìm trong mưa.
Kí túc xá trường đại học của tôi nằm tít trên đồi thông. Một
đồi thông thơ mộng. Đó là một trường đại học đào tạo nhiều chuyên ngành, và
chúng tôi học về Lâm nghiệp, một chuyên ngành chủ đạo của trường. Tôi không biết
ai có sáng kiến trồng trên ngọn đồi ấy toàn thông. Có lẽ thông là một loài cây
đẹp. Vì thế, trường đại học của tôi nổi tiếng với đồi thông. Vì đồi thông rất đẹp,
con đường trải nhựa từ chân đồi lên đến đỉnh đồi cũng rất đẹp, nên chất chứa
trong lòng nó cũng rất nhiều chuyện tình đẹp thời sinh viên. Hết thế hệ sinh
viên này đến thế hệ sinh viên khác, họ yêu nhau.
Nhưng rồi những cái
chết, những cái chết mỗi năm một nhiều lên, cho đến khi con đường lên đồi thông
chính thức bị khóa lại.
Tôi và Song Hào yêu nhau chính vào lúc nhà trường quyết định
cho khóa cánh cổng của con đường dẫn lên đỉnh đồi. Kí túc xá của Hào nằm lưng
chừng đồi, ngay sát cánh cổng bị khóa ấy. Vào những ngày làm việc nhóm, chúng
tôi ngồi trong phòng nhìn ra đồi thông. Đồi thông là nơi duy nhất trong thị trấn
luôn tỏa mù sương sau những cơn mưa, bất kể là mưa mùa nào. Bọn sinh viên đàn
anh đàn chị bảo đó là vì đồi thông chứa quá nhiều oan hồn của những người chết
trẻ. Chết vì tình.
Không ai thắc mắc rằng trước khi những người trẻ lên đồi
thông treo cổ tự tử, sương mù có xuất hiện sau những ngày mưa gió.
Tôi mười chín tuổi, không hiểu vì sao người ta lại có thể chết
vì tình. Tình yêu ghê gớm đến thế, sao người ta luôn tìm cách để yêu và được
yêu?
Tôi không còn trầm lặng như khi còn nhỏ. Nhưng không một cuộc
vui nào níu chân tôi lâu được. Những dịp sinh nhật, những đêm hội diễn hay bất
kì một cuộc vui nào, tôi cũng không thể để mình chịu đựng lâu. Bạn tôi thường
thấy tôi trở về nhà trước khi cuộc vui tàn, thậm chí nó mới chỉ bắt đầu, hoặc
còn dang dở.
“Sao cậu về sớm thế?”.
Họ hỏi và tôi trả lời: “Tớ nhớ sự yên tĩnh”.
Song Hào thường trộm vuốt tóc tôi mỗi khi cậu ấy đi ngang
qua. Thế hệ sinh viên những năm đó không chuộng mốt tóc ngắn chấm vai. Hầu như
tất cả các cô gái đều cắt tóc đuôi cá rồi buông xõa. Khi họ đi từ khu kí túc
trên đồi xuống học đường, những mái tóc ấy bay nhẹ như mây. Trường đại học của
chúng tôi lúc nào cũng rất nhiều gió.
Cảm giác bàn tay vuốt nhẹ lên mái tóc mình luôn đọng lại
trong tim tôi rất lâu. Tôi không hiểu tại sao Hào không vuốt mái tóc ngang lưng
của những cô gái khác, và tôi không biết rằng cái cảm giác bàn tay vuốt nhẹ
trên tóc đọng lại rất lâu ấy chính là khởi đầu của thứ tình cảm rất đẹp, mà sau
này người ta gọi nó chung chung là tình yêu.
Tại sao Hào yêu tôi, một cô gái thích chìm thật sâu trong nỗi
buồn, trong khi đó Hào lại rất sôi nổi, năng động và luôn có rất nhiều cô gái cả
thầm lặng lẫn công khai thương nhớ. Tôi luôn hỏi câu đó trong lòng, nhưng chưa
bao giờ hỏi Hào.
“Mình yêu cậu. Yêu mãi mãi”.
Để chính thức mối tình đầu, Hào đã nói như vậy. Lúc đó, ý
nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu tôi chính là: “Tình yêu à? Thứ đó liệu có
thuộc về ta”.
Tại sao ý nghĩ đó lại xuất hiện trong đầu tôi vào chính giây
phút ấy. Tôi không sao hiểu được. Đến khi hiểu được thì tôi đã chìm rất sâu xuống
đáy của nỗi buồn.
Mối tình đầu kéo dài suốt bốn năm đại học. Trong vòng bốn
năm đó, một lần mẹ Hào lên chơi và Hào giới thiệu tôi với bà ấy. Người đàn bà
thành thị không quá giàu nhưng hiện đại nhìn tôi như thể con trai bà ấy yêu tôi
là cái phước tôi phải tu bảy đời mới có được. Tôi cười nhạt trong lòng. Tôi chỉ
tu được có sáu đời rưỡi thôi. Nên có chăng chỉ là kiếp trước chúng tôi đã nợ
nhau và kiếp này phải trả, đến một quãng nào đó là hết nợ. Tôi không có một cảm
giác về sự gắn kết lâu dài nào với Hào, dù tôi yêu cậu ấy.
Mẹ Hào hỏi tôi rằng hai đứa đã làm chuyện vợ chồng bao giờ
chưa. Tôi lắc đầu. Bà nhìn tôi như muốn nuốt sống. Tại sao? Bây giờ chuyện đó
không có gì ghê gớm cả. Nếu không làm chuyện đó khi còn thanh xuân và với người
mình yêu thì thật là ngu xuẩn. Rồi sau đó bà trách con trai ngốc nghếch.
Hào dĩ nhiên muốn làm chuyện đó từ lâu rồi. Khi cậu ấy chuyển
nụ hôn từ môi xuống cổ tôi, bàn tay cậu ấy lần tìm, lập tức ý nghĩ về sự thiếu
ràng buộc, về sự mong manh của hạnh phúc, về sự mơ hồ của cảm giác gắn bó dài
lâu, về những cái chết trẻ trên đồi thông lại tràn vào tâm trí tôi, ngốn ngấu
trái tim tôi, và quả thực là một hình ảnh khác nữa, tôi nghĩ đó mới là sự quyết
định: hình ảnh Phố ngồi chơi một mình với đàn kiến trong sân, lần đầu tiên tôi
nhìn thấy cậu ấy, với đôi vai bé nhỏ, cái gáy đáng yêu đó. Lập tức tôi đẩy Hào
ra, dứt khoát và mạnh mẽ. Tôi không giải thích gì cả, và dĩ nhiên Hào rất buồn.
Tại sao tôi luôn nghĩ
về Phố, với hình ảnh lần gặp đầu tiên như đóng đinh vào kí ức ấy mỗi khi Hào muốn
làm chuyện vợ chồng với tôi, và vì thế tôi đã từ chối, hết lần này đến lần
khác.
Đầu năm học cuối thời đại học của tôi, không hiểu sao nhà
trường lại cho mở cánh cổng đi lên đỉnh đồi thông. Tôi lần đầu tiên cùng Hào
lên đồi thông sau khi cánh cửa được mở, trong khi những sinh viên khác đã từ
lâu lén lút lên đó chơi rồi. Con đường trải nhựa rất đẹp, uốn rất mềm theo thế
đất. Mặt đường ngập lá thông rụng. Tôi và Hào tay trong tay ngắm hết thân cây
này đến thân cây khác ven đường. Cây thông nào cũng bị cạo nhẵn vỏ ở một vài
nơi trên thân. Và trên khoảng thân cây đã cạo lớp vỏ xù xì ấy, người ta, những
đôi tình nhân đã khắc tên nhau lên đó. Những cái tên được khắc trong những
khung hình trái tim. Rất nhiều… rất nhiều…
“Không biết những người này giờ có hạnh phúc không? Họ có được
ở bên nhau mãi mãi như đã khắc tên lên cây này không nhỉ?”.
Ý nghĩ về những người đó thực sự ám ảnh tôi. Họ hẳn là tin
vào sự vĩnh cửu của tình yêu lắm nên mới tự tin khắc tên nhau lên cây như một lời
thề nguyện như thế chứ. Nhưng tại sao người ta vẫn treo cổ để chết?
Đám sinh viên bảo, trước khi cánh cổng lên đồi thông bị khóa
theo lệnh của hiệu trưởng, đã có nữ sinh treo cổ chết trên cây thông ven đường,
cây thông ấy khắc đầy những lời thề hẹn yêu đương. Rất có thể cô ấy treo cổ
trên chính cái cây cô và người yêu đã khắc tên thề hẹn đó.
“Mình không biết. Chắc là cũng có người được ở bên nhau. Cậu
có muốn khắc tên chúng ta lên đây không?”.
Hào hỏi tôi, và cậu ấy nhanh tay lôi con dao nhỏ ở cái bấm
móng tay ra, nhanh nhảu chạy đến bên một cây thông to gần sát với con đường.
“Đừng”.
Tôi thốt nhiên ngăn.
Hào khựng lại, nhìn gốc cây thông chăm chú, rồi nói rất nhỏ.
“Ừ nhỉ, biết ngày mai thế nào mà thề hẹn. Nhỡ mai mình chết
thì sao”.
Khi Hào nói câu đó, đột nhiên tôi cảm thấy trái tim mình
nhói đau. Lúc đó tôi hiểu rằng, ngày mai sẽ không còn giống như ngày hôm nay nữa.
Kì thực tập bắt đầu. Trong những câu chuyện xa xôi người ta
bóng gió nói cho tôi biết về một cô gái rất xinh thầm yêu Hào. Hào luôn được những
cô gái xinh trong trường trộm yêu. Cậu ấy là một chàng trai nổi bật. Hào có
thích cô ấy không? Hình như có, nhưng vì không nỡ làm tôi tổn thương, nên…
Tôi không có cảm giác về một sự gắn bó dài lâu với Hào, nhất
là sau chuyến đi chơi trên đồi thông ấy. Tôi nghĩ không nên ràng buộc nhau bởi
sự lo lắng giống như lòng thương hại. Lòng tự tôn không cho phép trái tim tôi yếu
mềm. Và tôi nói chia tay.
Tôi rất buồn. Cách duy nhất để quên đi nỗi buồn là lao vào học.
Một cách rất cổ điển nhưng khá hiệu quả với tôi. Không một lần tôi viết thư cho
Hào. Không một lời hỏi thăm xa xôi về Hào. Không một lần nghe lại những bài hát
kỉ niệm của thời yêu nhau. Tôi không một lần ngoảnh lại.
Ngày chúng tôi bảo vệ tốt nghiệp. Trong đêm liên hoan chia
tay, Hào tìm tôi.
“Yên ơi. Cậu có còn
muốn đi cùng mình đến hết con đường hạnh phúc không?”.
Tôi im lặng rất lâu. Hào chờ đợi rất lâu dưới gốc ngọc lan tỏa
hương thơm ngào ngạt. Có thể tôi không cần mất nhiều thời gian như thế để trả lời
câu hỏi đó. Dù câu trả lời chỉ đơn giản là: “Mình rất muốn. Nhưng không thể được”.
Hào khóc. Và tôi, chỉ khi về nhà trọ, vùi mặt vào gối, tôi mới
biết lẽ ra mình nên khóc thật nhiều.
Mãi một năm sau tôi mới coi Hào như một người bạn bình thường,
và chúng tôi đã đối với nhau rất tốt. Rồi Hào có người yêu. Cô gái có mái tóc
dài. Tôi vẫn để mái tóc ngắn chấm vai, như cả đời tôi sẽ không bao giờ thay đổi
nó.
6
Đã bao nhiêu lần tôi đi chơi cầu Long Biên, nhưng chưa hề
có một bức ảnh nào ở đó. Bao nhiêu lần tôi muốn trở lại cầu Long Biên, nhưng
không một lần quyết tâm trở lại. Tôi chẳng biết mình sợ gì. Có lẽ sợ bờ lau hút
gió, sợ sông thản nhiên trôi, sợ người sợ ma, sợ cả những chiếc khóa tình yêu
trên thành cầu rỉ sét.
*
Phố bảo: “Chị Hàm Yên, tại sao nhiều người lại coi chuyện
tình yêu phức tạp đến vậy. Yêu, rồi toan tính, toan tính rồi yêu. Cuối cùng, chẳng
biết có được ở bên nhau suốt đời suốt kiếp”.
Không phải tất cả, nhưng hầu hết những người trẻ tuổi luôn tự
đặt một câu hỏi như thế, hoặc tương tự thế.
Dòng sông thản nhiên trôi trước mặt, rong tóc tiên và cá bảy
màu, cá chép và trắm cỏ, chúng trôi thản nhiên theo dòng nước.
“Sao chị không trả lời em?”.
Bến bờ dần lùi xa, dòng sông vẫn xanh trong như trước, cá vẫn
thản nhiên bơi, rong vẫn thản nhiên trôi.
“Chị Hàm Yên. Tại sao tình yêu lại phức tạp đến thế? Chị có
yêu em không? Có yêu em không?”.
Tiếng Phố nhỏ dần, như hụt hơi, như tan loãng. Tôi không thể
nào trả lời Phố được, sương mù từ đâu đó tràn về, che mờ bóng hình Phố, lấp đầy
cổ họng, khiến không một từ nào tôi có thể thốt lên.
Tôi chỉ muốn trả lời Phố một từ thôi: “Có”.
Buổi sáng yên tĩnh sau giấc mơ hoang hoải. Hương thơm từ những
đóa hoa hồng của Hạc bay vào trong giấc mơ của tôi, có thể chúng đã hóa thân
thành sương mù. Trời không mưa, và nắng vàng hoan hỉ reo ngoài sân, trên những
cánh hoa hồng còn đẫm nước.
Giấc mơ ấy, tôi và Phố đứng ở hai bên bờ một dòng sông, và
dù cố gắng đến đâu cũng không có cách nào chạm vào tay nhau được.
Tôi mở cửa căn phòng. Không khí mát đậm hơi nước và hương
thơm của hoa, của cây cỏ, của thác nước và rêu trên đá lạnh úm bên ngoài từ
lâu, lập tức ùa vào phòng. Tôi bước ra hiên nhà. Một đàn kiến hối hả chạy trên
khe tường, cứ như cả tỉ năm rồi chúng mê mải chạy và sẽ không bao giờ dừng lại.
Hạc đang đứng bên những bông hồng đẫm nước nhưng vẫn tỏa hương
thơm mát lạnh, như mọi buổi sáng tôi gặp cô bên những bông hoa như thế, với
thân hình mảnh mai trong bộ đồ ngủ lụa hoa tím nền trắng tao nhã, mái tóc dài
sóng mượt phủ trên lưng. Mái tóc dài…
Sững sờ. Tôi thốt lên: “Hạc. Sao tóc em lại?”.
Hạc giật mình ngẩng lên, xoay người lại phía tôi.
Mái tóc dài đẹp của Hạc giờ chỉ còn ngang lưng, thay vì trước
đó nó dài ngang hông.
Hạc phản xạ đưa tay vuốt tóc. Sự hẫng nơi các ngón tay khiến
khuôn mặt cô trắng dại, đôi mắt đờ đẫn, hoang hoải.
“Tóc em sao vậy?”.
Tôi lại gần, giơ tay định chạm vào mái tóc ấy. Không ngờ Hạc
giật mình, lùi lại phía sau, như thể nếu tôi chạm vào cô, cô sẽ tan biến như
sương mù.
Khoảnh khắc ấy, khuôn mặt và mái tóc của Vân bất chợt hiện về,
rõ như Vân đang đứng trước mặt tôi, chứ không phải Hạc.
Vân là mối tình đầu của Phố.
Lại ba năm nữa, sau lần tôi và Phố đến Cẩm Xuyên trong một
chuyến đi bất định, Phố tìm gặp tôi nhờ tòa báo trước đó viết mục về các loại
cây thuốc. Chúng tôi đã không hề liên lạc với nhau trong ba năm ấy. Phố nói vị lương
y đã chết, vì một tai nạn, vào tuổi sáu mươi hai, đúng như ông tiên đoán về đời
mình. Sau khi ông ấy qua đời, nhà thuốc được vợ con ông quản lí. Nhưng Phố, chẳng
hiểu vì lí do gì, không biết mình muốn gì, đã quyết định thôi học và tìm kiếm
những điều thực sự thuộc về bản thân đang ẩn khuất đâu đó trong cuộc đời này.
Trên hành trình rong ruổi ấy, Phố tìm gặp tôi, cùng một cô gái.
Là Vân.
“Vân mới phẫu thuật, không khỏe lắm”.
Chúng tôi đi bên nhau trên cầu Tương Tư. Ngân Hà thản nhiên
trôi, bờ lau hun hút gió.
“Phẫu thuật à? Vân bệnh gì thế?”.
Thực sự tôi không muốn hỏi về bệnh tật của Vân, nhưng cuối
cùng lại hỏi, như một cái máy hỏi đáp tự động, hoàn toàn không có chút cảm xúc.
Phố rút một điếu thuốc, châm lửa, nét mặt không biểu lộ cảm
xúc gì, nhưng cái nhìn rất xa xôi.
“Vân vừa phá thai”.
“Phá thai?”.
Chúng tôi vẫn tiếp tục đi trên cầu, chẳng biết đi để làm gì,
đi đến đâu, và chúng tôi đã đứng ở giữa cây cầu.
“Sao em lại?”.
Ý tôi là…
Nhưng dường như đoán trúng tôi sẽ hỏi câu đó, Phố khẽ trả lời:
“Không phải em muốn thế, Vân muốn thế. Cô ấy không muốn vướng bận con cái.
Chúng em hiện chưa thể cưới nhau được”.
Hóa ra người yếu đuối không phải là Vân, người lí trí không
phải là Phố. Vân có mái tóc dài ngang thắt lưng, mềm và suôn mượt tự nhiên. Vân
khá đẹp, và nếu có một cuộc sống sung túc, có lẽ Vân rất khác. Khi đến phòng
làm việc của tôi, Vân chăm chú quan sát những bức ảnh trên tường, những bức ảnh
lòe loẹt, chỉ mang tính quảng cáo chứ không có ý đồ nghệ thuật gì cả. Vân như bị
hút hồn vào đó, và cô ấy còn phát hiện một bức ảnh bị lỗi photoshop, cứ như cái
đầu người này cắm trên cái cổ kẻ khác.
Tôi không bao giờ chú ý đến những bức ảnh treo trên tường của
phòng làm việc. Trưởng phòng có lẽ hiểu rằng treo quá nhiều tranh ảnh sẽ làm
phân tán sự chú ý của người ta, thậm chí khiến chính chúng loãng đi, không tạo
được điểm nhấn gì hết, nên treo rất có khoa học. Hằng ngày, tôi đi qua chúng,
nhìn chúng như một phản xạ tự nhiên, nhưng không lưu chúng trong đầu, khi ra khỏi
phòng, tôi không nhớ trên tường ấy treo ảnh gì, ai là người mẫu.
Tôi chú ý đến Vân bởi giọng nói mềm như lụa. Một cô gái nên
sở hữu một giọng nói như thế. Nó khiến người ta có cảm giác được vuốt ve, xoa dịu
mọi giác quan. Một phát thanh viên trên truyền hình cũng không có được giọng
nói như thế.
Và người sở hữu giọng nói ấy đã yêu Phố, mối tình kéo dài từ
ngày còn sống trong trại trẻ.
Một mối tình như thế sẽ bền lâu chứ, sẽ không thể chia lìa
chứ?
Làm sao chia lìa được. Khi họ đứng trước tôi, tôi nhận ra sự
sở hữu nhau trong họ, họ thuộc về nhau cả ý nghĩ, cả giấc mơ, cả hạt bụi vướng
trên đế giày. Trời ơi! Sự sở hữu ấy bất chợt làm vỡ òa trong tôi một nỗi buồn
thăm thẳm.
Tôi buồn gì nhỉ? Tôi không biết. Tại sao tôi lại buồn cơ chứ.
Phố muốn cùng Vân bắt đầu cuộc sống mới ở thành phố, tức là
thuê một căn phòng nho nhỏ, nấu nướng cùng nhau, chăm sóc nhau khi mỏi mệt đau ốm,
yêu thương, làm tình và hạnh phúc như bao cặp đôi khác trên đời. Không có Vân,
Phố không còn ai thân thích. Phố bơ vơ giữa trời giữa đất. Không có Vân, Phố chẳng
còn gì cả.
Và vì cuộc sống mới chỉ bắt đầu, chưa thể có hình hài đầy đặn,
nên Vân đã bỏ đứa con mới vừa tụ máu trong lòng mẹ.
Tôi và Phố tiếp tục đi trên cầu, rồi chúng tôi đã sang đầu cầu
bên kia lúc nào không biết nữa. Bắt đầu quay trở lại, đi ngược với dòng người
đang đổ xuôi.
Dưới chân cầu, sông thản nhiên trôi.
Trên thành cầu, ngàn tỉ những câu vô nghĩa người ta thi nhau
viết về một ai đó, một kỉ niệm nào đó.
Tôi từng nhìn thấy những chiếc khóa tình yêu rỉ sét ở trên
cây cầu này. Khi đó tôi tự hỏi lòng: mối tình của mấy người này còn sống hay đã
chết?
Không có gì tồn tại vĩnh hằng, mà sao người ta cứ phải tự
huyễn hoặc mình và huyễn hoặc nhau?
Một đoàn tàu xình xịch chạy qua cầu. Ánh đèn từ các toa sáng
rực, một thứ ánh sáng bình thường của đèn điện thôi, nhưng khi được lắp trên
tàu, chúng lại tỏa một thứ ánh sáng đầy ma lực, mời gọi. Ánh sáng khiến những
con thiêu thân muốn lao vào đó, như tôi, một con thiêu thân luôn khát khao ánh
sáng những toa tàu.
Ánh sáng.
Ánh sáng.
Ánh sáng.
“Chị Hàm Yên. Em muốn đi một nơi thật xa, nơi không ai biết
em, em cũng không biết ai cả. Nhưng em thương Vân vô cùng. Vân không thích đi
đâu cả. Vân cần được yên ổn một chỗ”.
Phải rồi, phụ nữ tựu trung đều muốn vậy. Mong muốn của họ giản
đơn nhưng đầy toan tính. Họ muốn có một người chồng, hai ba đứa con, một ngôi
nhà có đầy đủ tiện nghi, và cứ thế sống cho đến hết đời, với những lo toan vụn
vặt từ chính cuộc sống bày ra. Vân không còn người thân từ khi còn nhỏ, và vì
thế, mong muốn đó của cô ấy có thể còn mãnh liệt hơn những người khác.
Nhưng Phố không như vậy, trái tim Phố, tâm hồn Phố không neo
đậu một nơi. Phố quá cô đơn, không chịu được nhịp sống gấp gáp, Phố quá cô đơn,
không chịu được sự yên ấm.
Và tôi cũng vậy.
Sông phả lên cầu những luồng hơi mát lạnh.
Chúng tôi đi hết một vòng quanh cây cầu cũng là lúc khuya lơ
khuya lắc. Thành phố thưa người dần đi.
Phố cầm tay tôi.
“Chị Hàm Yên. Em đã chờ chị gọi cho em, sao chị không gọi?”.
Tôi cũng đã chờ Phố gọi cho tôi, và Phố đã không gọi.
Bàn tay Phố không nằm trong bàn tay tôi như ngày còn thơ dại.
Bàn tay tôi đang nằm trong bàn tay Phố, nhỏ nhoi và cô độc. Phố không cầm tay
tôi như cách người ta cầm tay người bạn, mà như cách của những người yêu nhau
thầm lặng phải chịu sự xa cách quá lâu.
Tôi đã tin mình tưởng tượng như thế.
Về thành phố, việc đầu tiên của Vân là phá thai, sau đó là cắt
mái tóc dài.
Thay đổi kiểu tóc là chuyện hết sức bình thường, Vân không
ngoại lệ, nhưng Vân thanh minh cho việc đó như thể Vân sợ tôi và Phố có một dự
cảm nào đó về một sự thay đổi rất quan trọng.
Tôi đã không còn cùng Phố dạo chơi cầu Tương Tư ngắm những
con tàu sáng đèn đưa những mong ước nhỏ nhoi của chúng tôi đến những miền xa thẳm.
Tại sao lại mất thời gian suy tưởng về một con tàu đêm chạy qua một cây cầu như
thế? Mọi thứ cứ lặng lẽ trôi đi như một giấc mơ buồn, thật buồn.

