Theo đuổi - Chương 02
2
Mọi nỗi buồn rồi cũng đi qua, mọi vết thương cuối cùng rồi
cũng khỏi, nhưng thời gian chờ đợi vết thương lành thì không đơn giản. Và dù
người bị thương được bác sĩ chăm sóc, an ủi và kê đơn thuốc, thì người ấy vẫn tự
hỏi lòng: “Bao giờ mình mới hết đau?”.
*
Hạc không phải là cô gái xấu xí. Trái lại, cô sở hữu một vẻ
mặt thánh thiện, đôi mắt to tròn, nước da trắng xanh, mái tóc ngang hông đen
nhánh. Tôi nghĩ cô mới chỉ hai mươi, trong khi thực tế cô đã ba mươi tuổi rồi.
Một phụ nữ ba mươi tuổi yêu hoa hồng và luôn tin mình là một con chim cánh cụt.
Khi tôi gặp Hạc, cô đang ngồi ngắm một đàn kiến. Đàn kiến
đen băng qua kẽ tường, hối hả, và ngoài trời mưa đổ hết trận này sang trận
khác.
Tôi đã trở về thăm lại ngôi nhà cũ của Phố trước khi đến Cẩm
Xuyên. Vẫn còn đàn kiến đen năm xưa, với cuộc hành trình bất tận từ trên nhà xuống
bếp trên con lộ khe tường đã nhẵn đến mức không một thân rêu nào mọc nổi. Tôi
tin rằng đó là đàn kiến mà khi còn nhỏ, mỗi lần tôi sang chơi với Phố, hai
chúng tôi lại chăm chỉ đập chết ruồi biếu chúng làm quà. Có thể tuổi đời của kiến
không cao đến vậy, những con kiến này là hậu duệ của những con kiến ngày xưa,
và hẳn nhiên là chúng chẳng quen biết gì tôi. Vì nhiều năm rồi, tôi đã là một
cô gái trưởng thành, rong ruổi khắp phương trời với chiếc ba lô cũ kĩ trên vai,
cuốn sổ nhỏ và những tản mạn đầy mặc cảm về những miền đất mà tôi đã đi qua.
Để rồi một hôm, tôi trở về ngôi nhà, đứng trước cánh cửa cũ
mủn vì mưa nắng, mà cả cái mùi ẩm mốc cũ kĩ toát ra lạnh lẽo từ những đồ vật cũ
không còn hơi ấm những người chủ cũ, nhìn đàn kiến như thể ngày xưa vẫn mê mải
chạy tới chạy lui ở khe tường. Tôi nhớ tuổi thơ với những kỉ niệm miên man và
buồn bã.
Phố bảo sẽ không bán ngôi nhà cũ, dù có thời kì những cơn sốt
đất sầm sập chạy qua làng. Ngôi nhà chứa trong nó quá nhiều nỗi buồn.
Tại sao Phố không bán?
Phố không trả lời.
Tôi không biết lúc đó Phố nghĩ gì. Tôi cũng không muốn biết.
Một nỗi buồn len khẽ vào lòng khi Phố ôm tôi thật chặt. Không hiểu tại sao khi ở
bên nhau tôi lại có cảm giác đó. Hay là vì những kỉ niệm tuổi thơ giữa chúng
tôi giống như cánh cửa kia, khép kín và chẳng hứa hẹn khi nào hé mở, và chìa
khóa, có khi đã hoen gỉ dưới đáy một dòng sông thẳm sâu nào đó lâu rồi.
Mười tuổi, tôi được bố mẹ gửi về quê nội. Quê nội có một
dòng sông trong vắt, đôi bờ nở trắng hoa hồng dại.
Bố không muốn gửi tôi về quê nội. Bố bảo tôi là một đứa bé
trầm lặng, khó gần, ở quê nội, khi tôi đi học với những đứa trẻ đồng quê, sự xa
cách của tôi khiến chúng có thể làm tôi tổn thương.
Mẹ lại thực tế hơn. Mẹ bảo với khả năng kinh tế của hai người
làm công nhân một nhà máy chè đang chung chiêng giải thể thế này, bố mẹ không
thể nuôi ba chị em tôi tốt được. Quê nội giống như một thảm cỏ xanh mát với bầu
trời thoáng đãng, sẽ dung dưỡng tâm hồn một bê non ngơ ngác như tôi một cách tốt
nhất.
Các cô giáo của tôi lo ngại, và họ thực sự quan tâm đến tôi
theo cách họ cho là tốt nhất. Họ nói với bố mẹ tôi tất cả những gì họ chứng kiến.
Rằng tôi không hề nói chuyện với bạn bè cùng lớp. Tôi nhìn thế giới đang diễn
ra với đôi mắt thờ ơ. Đôi khi tôi nhìn những cuộc vui như đứa trẻ bị bỏ đói lâu
ngày bên bữa ăn thịnh soạn đang bày ra trước mặt, nhưng tôi không bao giờ tham
gia những cuộc vui đó lâu được. Luôn là chỉ trong chốc lát, tôi tìm cách trở lại
chỗ ngồi quen thuộc, cách xa và mơ về một thế giới khác.
Mẹ có vẻ đau lòng vì tôi. Mẹ trách mình quá bận rộn, không
có thì giờ quan tâm đến tôi, rằng mẹ đã vô tâm đến nỗi không biết một đứa trẻ từ
một đến mười tuổi thì nghĩ gì. Trẻ con không phải thời nào cũng giống nhau, và
không phải đứa trẻ nào cũng giống đứa trẻ nào. Trong khi đó, tôi lại là một đứa
trẻ khác biệt. Tôi không thích nói chuyện và không thích chơi đùa. Và như chuyện
xảy ra ở lớp mẫu giáo, cô giáo cho chúng tôi bế một em búp bê biết nhắm mắt nếu
đặt nằm và mở mắt nếu dựng dậy, một em búp bê khác biết cười, trong khi những bạn
khác thích thú với em búp bê phát ra tiếng cười, thì tôi khóc nức nở.
Bố có một chiếc đài lắp chạy bằng pin con thỏ. Mỗi lần đài
nói bé đi, tiếng nói khọt khẹt như người cảm cúm bị tịt mũi, nghĩa là pin đã yếu.
Để hồi pin, bố phơi pin ra nắng, từ trưa tới chiều, lắp vào và đài lại nói tiếng
thật to, rổn rảng.
Tôi hỏi bố rằng ai đã nói trong đài vậy?
Bố bảo đó là những người ở trong đài.
Tôi ngồi nhìn chiếc đài, và tưởng tượng những người ở trong
đài bé xíu, họ cũng giống như những người ngoài đời thực, cũng mặc quần áo như
bố mẹ khi đi làm, cũng có em bé và đưa chúng đi nhà trẻ, cũng nấu ăn và chuyện
trò.
Tôi hoàn toàn đau khổ khi đài hỏng và bố tháo tung nó ra,
trước chiếc đài bị tháo tung, không hề có một con người tí hon nào trong đó cả,
tôi đã có cảm giác mình bị lừa dối.
Đó có phải là tổn thương đầu tiên tôi gặp trong đời và nó dữ
dội đến nỗi tôi từ chối tiếp xúc một cách bình thường với mọi người không? Tôi
không biết.
Khi tôi gặp Phố lần đầu tiên.
Nhà Phố kế bên bờ rào nhà bà nội tôi. Nhà Phố và nhà bà nội
được cách ngăn bởi một bờ rào cây ô rô.
Trước ngõ nhà bà nội rợp bóng cây. Bà nội trồng chúng từ thuở
xa xưa nào đó. Cây hồng bì, cây ổi, cây na, cây mít, cây xoài. Tất cả chúng đều
già, nhưng xanh tươi và tỏa bóng.
Bọn trẻ trong xóm trưa nào cũng tụ tập chơi dưới bóng những
tàng cây ấy. Chúng chơi đủ trò mà những đứa trẻ đồng quê có thể nghĩ ra lúc bấy
giờ: bắn bi, ném cù, nhảy dây, ô quan hay trò trốn tìm đuổi bắt. Trò chơi nào
cũng có thể khiến chúng phấn khích, hò hét inh ỏi. Nghĩa là chúng làm ồn, có thể
lôi kéo sự chú ý của bất kì một đứa trẻ tò mò nào đó.
Tôi đứng xem chúng chơi và tuyệt nhiên không hề có ý định
tham gia, tuyệt nhiên không thấy trò nào hấp dẫn. Trái lại, chúng khiến lòng
tôi tràn ngập một nỗi buồn. Một nỗi buồn tê dại, thứ mà đến tận khi trưởng
thành, tôi vẫn không sao lí giải nổi.
Đúng lúc tôi quyết định quay vào nhà, thì bất ngờ tôi nhìn
qua bờ rào ô rô được cắt tỉa không cao quá tầm mắt một đứa trẻ mười tuổi là
tôi. Điều đầu tiên tôi nhìn thấy là một đứa bé trai, nó chừng năm, sáu tuổi,
đang say sưa mê mải với một trò chơi nào đó trong sân. Nó mê mải tới nỗi tất cả
những tiếng ồn mà đám trẻ đang chơi ngoài ngõ kia gây ra cũng không làm nó bận
tâm chú ý. Nó mê mải tới nỗi tôi lại gần nó, nhìn nó đang điều khiển đoàn binh
kiến xung trận chiếm lương thực (là những con ruồi bị đập chết) mà không hề hay
biết. Nó bày trận đồ như một nhà quân sự thực thụ. Xe tăng là những mảnh vỏ
trai, tướng lĩnh là những cọng lá sắn, và chiến binh dĩ nhiên là lũ kiến hăng
máu tranh công kia rồi.
Đột nhiên, từ khi đứng đằng sau lưng đứa bé (sau tôi mới biết
tên nó là Phố) đang mê mải bày trận đồ một mình ấy, lòng tôi dâng lên một niềm
yêu thương kì lạ. Cái lưng bé bỏng của nó, bờ vai bé bỏng của nó, cái gáy với
những sợi tóc đen được cắt bởi một bàn tay vụng dại qua quýt của nó, tất cả trở
nên thân yêu đến nỗi, tôi quyết định rằng tôi sẽ che chở cho nó, bảo vệ nó suốt
cuộc đời.
Tôi dắt tay Phố đi học.
Từ nhà bà nội đến trường không xa lắm. Chúng tôi đi bộ trên
một con đường có hai hàng phi lao luôn rụng những quả nhỏ màu nâu, đen và vỏ
nhám. Bọn trẻ làng nhặt những quả ấy để thành một đống nhỏ bên đường rồi say
sưa đốt cháy chúng. Bọn trẻ làm như việc đốt quả phi lao là công việc đáng hãnh
diện nhất quả đất, còn hơn là việc lớn lên sẽ làm chiến binh hay thủy thủ.
Bàn tay bé nhỏ của Phố nằm gọn trong bàn tay tôi, ấm áp và đầy
tin tưởng. Chốc chốc nó lại rời tay tôi, chạy lon ton ra phía trước, nhặt lên
hay đặt xuống một viên sỏi nhỏ, một bông hoa dại ven đường hay một cành cây
khô, rồi chạy lại phía tôi, bắt tôi xòe tay ra và nó đặt bàn tay bé xíu của
mình lên đó.
Chúng tôi đến trường làng. Trường làng của tôi nằm cạnh trường
mẫu giáo của Phố. Trường mẫu giáo của Phố nằm sát trạm y tế của xã. Trạm y tế của
xã, mẹ Phố làm việc ở đó.
Mẹ Phố là một người phụ nữ vui vẻ. Suốt ngày cô ấy nở nụ cười
trên môi. Cô có một mái tóc xoăn tự nhiên, lúc nào cũng bồng bềnh như sóng, như
mây vậy. Bà nội bảo những người tóc xoăn tự nhiên, bất luận đàn ông hay đàn bà
thì đều đa tình, đa đoan và nói chung là có đường tình duyên lận đận.
Mẹ Phố có lận đận đường tình duyên không?
Phố có một ông bố trên phố huyện. Mỗi tháng hai lần ông ấy
đi chiếc Cup 82, trước giỏ xe đựng toàn rau, lúc su hào, khi cải bắp, khi thì
rau muống, đậu phụ đến thăm mẹ con Phố.
Khi nào ông ấy đến, bất luận là Phố đang chơi ở đâu, bận rộn
việc gì, nhất định là phải về khoanh tay trước ngực chào bố. Ông ấy sẽ lôi
trong chiếc túi đen rất lịch sự ra một gói kẹo Hoa Hồng, mà những viên kẹo ngọt
ngào được gói rất đẹp bởi những vỏ giấy nhỏ xinh in hình bông hoa hồng đỏ thắm.
Gói kẹo được đưa cho Phố cùng với một cái xoa đầu rất khẽ, cái đẩy tay rất khẽ,
và Phố, với gói kẹo trên tay, hoan hỉ chạy đi tìm tôi.
Chúng tôi dắt tay nhau ra bờ sông, nơi có những bụi hoa hồng
dại rậm rạp um tùm, mùa xuân, chúng nở trắng đôi bờ. Tôi và Phố ăn kẹo Hoa Hồng
và ngắm những con cá nhỏ trong làn nước sông xanh biếc. Những đàn cá hoặc mình
tròn xoay như chiếc đĩa, hoặc dài ngoẵng như một chiếc chuôi thìa. Chúng vui vẻ
bơi lội, đôi lúc thích chí, chúng búng mình lên khỏi mặt nước, phô tấm thân dát
bạc lấp lánh dưới ánh nắng vàng rực rỡ.
“Chị Hàm Yên, lớn lên chị sẽ đi đâu?”.
Phố hỏi tôi như thế, và tôi trả lời: “Lớn lên chị sẽ đi lấy
chồng”.
Phố tỏ vẻ suy nghĩ, một đứa trẻ sáu tuổi thì biết gì về việc
lấy chồng cơ chứ. Ngay cả tôi cũng thế, năm ấy tôi mười một tuổi và tôi thực sự
không biết việc lấy chồng có ý nghĩa trọng đại như thế nào, chỉ biết rằng con
gái khi lớn lên thì sẽ lấy chồng như những người trong làng vẫn nói với nhau.
Nhưng sau khi nhăn trán tỏ ra nghĩ ngợi, Phố tuyên bố rất
nghiêm túc: “Chị Hàm Yên, lớn lên em sẽ cưới chị”.
Sau này, khi tôi nhắc lại chuyện đó, Phố cười, và nói rằng
thực sự không hề nhớ gì cả, nhưng có lẽ Phố tin rằng khi cưới nhau, người ta có
thể được sống vui vẻ bên nhau mãi mãi.
Bố mẹ của Phố không cưới nhau. Những người trong làng bảo vậy.
Mẹ Phố là một người phụ nữ vui vẻ, được rất nhiều người đàn ông trên đời yêu,
nhưng cô ấy lại yêu một người đàn ông đã có vợ. Một người đàn ông đã có vợ thì rất
ghê gớm, vì ông ta bị ràng buộc bởi rất nhiều thứ. Cuối cùng, họ không cưới
nhau, nhưng Phố đã ra đời.
Có phải vì không cưới nhau, nên họ không thể được ở bên nhau
mãi mãi hay không? Giá như khi mười hai tuổi tôi có thể lí giải được điều đó.
Tôi không nhớ đã từng chứng kiến người đàn ông có vợ đi chiếc
xe máy Cup 82 với những loại rau củ đầy ắp giỏ xe dựng trong sân nhà Phố bao
nhiêu lần, song có lẽ không nhiều lắm. Lần nào cũng vậy, sau cuộc ghé thăm, mẹ
con Phố cũng tiễn ông ta ra tận ngõ. Phố luôn đứng trước mẹ, và cô ấy đặt bàn
tay bé nhỏ, với những ngón thon dài hồng hào lên mái tóc Phố. Hai mẹ con nhìn
theo chiếc xe và người đàn ông khuất hẳn mới quay vào nhà. Lần nào chứng kiến cảnh
đó, bà nội tôi cũng thở dài. Tại sao bà lại thở dài cơ chứ, và tôi hiểu, rõ
ràng khi thở dài, nghĩa là người ta cảm thấy có cái gì đó thật đáng chán, ngao
ngán cả người. Tiếng thở dài gây cảm giác chán nản, buồn bã, và bất lực.
Tôi mười hai tuổi. Buổi chiều hôm ấy, một buổi chiều mùa hạ,
tôi tan học và đón Phố. Hai chị em vui vẻ tay trong tay trở về nhà trên con đường
có hai hàng phi lao xào xạc. Đó là một ngày mà Phố rất vui. Phố tung tăng chạy
trước tôi, nhặt những quả phi lao và ném vào tôi với tiếng cười trong veo, vang
dội. Những bước chân sải dài, sôi nổi và có phần hấp tấp, Phố kéo tôi về nhà thật
nhanh.
Một cơn giông từ phía những rặng núi mờ xanh kéo đến, gió bắt
đầu nổi lên, gió mang hơi nước của một cơn mưa xa xôi nào đó lại, ẩm ướt và mát
lạnh.
Ngôi nhà của Phố cửa không khóa ngoài, trong sân, lá cây khô
từ vườn nhà bà nội tôi được gió đưa sang, chúng phập phồng nôn nao, không chiếc
nào chịu nằm yên một chỗ, như những cánh bướm đầy phân vân.
Chiếc xe Cup 82 dựng ở đó từ bao giờ, chỉ khác là không có
loại rau củ nào trong giỏ xe, và đó không phải là một ngày bố Phố về thăm hai mẹ
con như thường lệ.
Tôi và Phố đứng trong sân, im lặng nhìn cánh cửa khép chặt
và những chiếc lá phập phồng thở trên nền gạch nâu. Bằng một dự cảm rất đặc biệt,
tay Phố tìm tay tôi. Tôi nắm chặt bàn tay bé nhỏ ấy trong tay mình.
Chúng tôi cùng nhau tiến về phía cánh cửa. Cơn giông sầm sập
đổ về từ phía sau lưng, gió mang hơi nước mát lạnh và ẩm ướt phả lên má, lên
tóc tôi. Hẳn là ở một nơi xa xôi nào đó có một cơn mưa lớn đã trút xuống trần
gian.
Cánh cửa khẽ mở ra bởi tay Phố. Và bất thần, một cơn gió ập
vào. Gió mở toang cánh cửa, nhanh đến nỗi cả tôi và Phố đều bàng hoàng.
Cảnh cửa mở ra. Giữa nhà, trên nền gạch vuông màu hồng luôn
được quét và lau sạch sẽ, mẹ của Phố, người phụ nữ có mái tóc xoăn tự nhiên, bồng
bềnh như mây như sóng đang nằm ngủ thật say. Một tay để lên bụng, bàn tay nắm hờ
một con dao nhỏ sắc lạnh như con dao bà nội tôi thường dùng để bổ cau. Cánh tay
kia duỗi thẳng, lòng bàn tay hờ hững. Và từ cổ tay trắng ngần, tròn trịa, một
dòng máu đỏ lênh láng chảy. Máu chảy tràn trên sàn, thấm đẫm vạt áo trắng y tá
của cô ấy.
Bên cạnh cô ấy, bố của Phố, người đàn ông đã có vợ cũng đang
say ngủ. Hai tay đặt trên bụng. Đôi mắt khép chặt, miệng mím hờ, tựa như đang
mơ về một cõi Never Land kì ảo.
Mưa sầm sập đổ xuống, vội vàng, cuống cuồng và dữ dội. Gió
cuồng điên cuốn những hạt mưa to và nặng từ ngoài hiên hắt vào trong nhà, sùng
sục lật tung mọi ngõ ngách trong ngôi nhà ấy. Những chiếc áo quần phơi trên mắc
đong đưa dữ dội, như những con người quằn quại vì đau đớn, những tờ lịch bứt
tung khỏi tường, soàn soạt lao xuống nền nhà.
Trong cơn giông, căn nhà đảo điên như người đau tình khóc nấc.
Phố được cậu ruột về đón đi sau cái chết của bố mẹ. Nhưng vì
cậu ruột Phố rất nghèo, nên tôi được biết rằng sau đó Phố được đưa vào một trại
trẻ. Ở đó Phố có nhiều người mẹ, nhiều anh chị em và sống trong những căn phòng
khác nhau.
Tôi đã dành rất nhiều tháng năm của tuổi thơ bên ngôi nhà
hoang vắng đó. Ngôi nhà được khóa cửa, đồ đạc phần lớn do cậu Phố mang đi. Chỉ
còn ngôi nhà cô đơn, cánh cửa bạc dần vì nắng mưa gió bão, mái ngói phủ dày lá
cây rụng, và trong sân, cỏ xanh tua tủa mọc.
Tôi một mình ngắm đàn kiến đen hành quân hết ngày này sang
ngày khác ở khe tường nhà Phố. Đàn kiến mê mải đi, tưởng như suốt cuộc đời
chúng không bao giờ có một giây dừng lại.
Tại sao bố mẹ Phố lại chết như thế, giữa một vũng máu đỏ
lênh láng trên sàn?
Chiếc đài pin của bố, cứ sáu giờ chiều, khi tôi nhặt rau hoặc
nấu cám cho lợn là có chương trình tin tức. Tiếng những nam nữ phát thanh viên
rổn rảng và rành rọt với những từ khóa “chiến hạm”, “phi cơ”, “bom”… Những từ
khóa ấy lấy ra từ những bản tin về tình hình chiến sự đâu đó trên thế giới, với
những cuộc bắn phá thanh trừng. Nó làm mắt tôi hoa lên, hình ảnh mẹ Phố nằm
trên vũng máu từ cổ tay trắng ngần lại hiện lên rành rọt, tựa như vừa mới xảy
ra kia, như gió từ năm nào, như mưa từ năm nào đang sầm sập đổ sau lưng. Tai
tôi ù lên. Cảm giác bàn tay bé bỏng của Phố trong bàn tay tôi vẫn còn đó. Đôi mắt
Phố mở to, tròn xoe và thất thần. Phố im lặng. Tôi im lặng. Chỉ có gió mưa ra sức
gầm gào.
Tôi bảo bố tắt đài. Bố đang lắng tai nghe tình hình vùng vịnh,
nơi người ta đánh nhau chí tử vì dầu lửa.
Bố ngạc nhiên: “Sao thế?”.
“Con bị đau đầu”.
“Vậy bố vặn đài nhỏ được không?”.
Bố vặn nhỏ đài đi, rồi như không yên tâm, vẫn sợ những tiếng
nói ra rả kia, dù nhỏ bớt âm lượng vẫn còn làm con gái bố đau đầu, bố tắt đài hẳn,
rồi ngồi nhìn hoàng hôn sập xuống trong sân, hẳn bố tự hỏi, không biết chúng
đánh nhau thế nào nhỉ, có bao nhiêu thường dân thiệt mạng từ những cuộc chiến
tranh vô nghĩa như thế rồi.
Đến bây giờ tôi vẫn rất thương bố, thương cái đài lắp pin tội
nghiệp năm nào. Vì cứ đến giờ tin tức, khi nó mong được thông báo nhất và bố
mong được đón nghe nhất, thì tôi lại lấy cớ đau đầu và yêu cầu bố tắt đài đi. Hẳn
là bố sẽ tự hỏi: Tại sao con gái bố lại đau đầu vào đúng sáu giờ chiều, tất cả
các ngày trong tuần cơ chứ?
Tôi không biết chứng sợ những cụm từ liên quan đến chiến
tranh của tôi khỏi từ lúc nào, song có lẽ nó kéo dài vài năm gì đó. Cứ nghe thấy
bất kì một từ ngữ nào liên quan đến chiến tranh, là hình ảnh mẹ Phố nằm chết lại
hiện lên rõ mồn một. Tôi đau khổ, dù đã rời khỏi làng của bà nội về sống với bố
mẹ ở thành phố. Tôi nhớ thương Phố nữa. Nỗi thương nhớ ấy chưa bao giờ nguôi
ngoai, ngay cả khi tôi đã lớn lên thành một cô gái.
Tôi lớn lên thành một cô gái. Vào kì nghỉ hè của năm cuối đại
học, bà nội nhắn tôi về chơi và nói rằng Phố đã trở về.
Tôi vác ba lô lên vai và về quê. Điều đầu tiên tôi mong nhìn
thấy là ngôi nhà của Phố và Phố nữa. Phố đã mười tám tuổi rồi, giờ trông cậu ấy
ra sao, chắc hẳn là khác rất nhiều.
Khi tôi về đến ngõ nhà bà nội, bên nhà Phố cửa đã khóa
ngoài, và trong sân, cỏ đã được dọn sạch, trên mái nhà, lá khô đọng nhiều năm rồi
cũng đã được dọn đi.
Sáng hôm sau, tôi đứng bên bờ dậu và nhìn sang nhà Phố. Bên
sân nhà ấy, một người trẻ tuổi đang quét sân. Lá từ những cái cây nhà bà nội
bay sang và đậu ngoan lành trên nền gạch sân ấy.
Người thanh niên mang một vẻ đẹp thanh thoát, kì lạ như một
người từ bé đã lớn lên nơi cửa thiền vậy. Có một cái gì đó rất mơ hồ bao bọc lấy
cậu, và bằng một trực giác nhạy cảm, tôi cảm nhận thấy.
Tôi bước vào sân nhà Phố.
“Phố phải không?”.
Phố ngừng tay quét lá, quay sang nhìn tôi. Phố có một đôi mắt
dài và hàng mi dày đẹp, đôi lông mày thanh tú, vầng trán cao thông minh và bờ
môi đầy gợi cảm.
“Em còn nhớ chị không?”.
Tôi chờ đợi một tiếng reo ồ, một ánh mắt ngạc nhiên vui mừng,
một nụ cười chào đón.
Nhưng Phố im lặng. Phố nhìn tôi như nhìn một người từ trên
trời rơi xuống, từ bé chưa trông thấy bao giờ.
“Em không nhận ra chị à?”.
Tôi hỏi thêm một câu nữa, giọng tôi hẳn đầy thất vọng. Phố
nhìn tôi thêm giây lát, rồi khẽ lắc đầu.
Giá như Phố nói thẳng thừng: “Không. Chị là ai? Tôi chưa gặp
chị bao giờ”, thì có lẽ tôi đã không buồn nhiều đến thế. Phố chỉ đáp lại tôi bằng
một cái lắc đầu khe khẽ, rồi tiếp tục quét sân, như cô gái từ trên trời rơi xuống
kia chẳng có một chút nghĩa lí gì.
Tôi đứng nhìn đàn kiến đang mải mê khuân mồi và chạy trên
khe tường ngoài hiên nhà Phố. Thật kì lạ. Bao nhiêu năm trôi qua, mọi thứ đều
thay đổi, thay đổi đến nỗi Phố không còn nhớ tôi là ai, mà sao đàn kiến thì vẫn
vậy. Vẫn những con kiến giống hệt những con kiến năm xưa, chúng vẫn làm một việc
y hệt như những năm trước đã làm, tựa như với chúng, với khe tường và con đường
bất di ấy, thời gian hoàn toàn không có tác động gì.
Tôi quyết định sẽ gợi cho Phố nhớ ngày còn bé, suốt ba năm
trời tôi và Phố đã là một đôi bạn thân như thế nào.
Tôi nói với Phố rằng chúng tôi đã ngồi chơi bên bờ sông và
ngắm những con cá bơi trong làn nước. Tôi ra bờ sông. Hoa hồng dại đã bị đốn trụi,
nơi chúng tôi ngồi chơi ngày trước giờ mọc lên một lò gạch, và đất ven bờ bị
đào tung nham nhở, còn dòng sông, nước đã vẩn màu đất, lờ đờ đục như thế quanh
năm.
Tôi nói với Phố rằng tôi đã dắt tay Phố đi học trên con đường
có hai hàng phi lao rụng những quả màu nâu đen. Hàng phi lao không còn, và con
đường ngày xưa giờ đã được đổ bê tông, bên đường đang xanh một hàng phượng vĩ.
Thế là Phố nhìn tôi bằng đôi mắt hồ nghi kì lạ. Tại sao tôi
lại nói những điều đã xảy ra từ rất lâu rồi, mà thực tế chúng chỉ còn sống
trong lòng tôi thôi, chúng đã hoàn toàn đổi thay với hiện tại. Phố cũng thế, Phố
đã quên tôi rồi. Mười một năm đã trôi qua. Mười một năm rồi, sao tôi chỉ thấy mọi
thứ còn vẹn nguyên ở đó.
“Vậy vì sao mẹ em mất, em có nhớ không?”.
Tôi vớt vát hi vọng cuối cùng, về kí ức đau buồn ấy. Có thể
Phố đã quên tôi cùng những kỉ niệm thơ bé, nhưng kỉ niệm buồn thương ấy thì lẽ
nào Phố quên được.
“Mẹ em à? Mẹ em bị cảm, chết rồi”.
“Bị cảm à? Bị cảm thế nào?”.
“Thì em chỉ nhớ khi em đi học về nhà, mẹ em nằm trên giường,
mãi đến tối em mới biết mẹ chết rồi”.
Tại sao lại có thể như thế được nhỉ? Tại sao một sự thật hẳn
nhiên như thế lại có thể bị thay đổi chóng vánh như vậy được?
“Còn bố em?”.
“Bố em? Em không biết”.
Trời ơi! Tại sao người đàn ông nằm chết bên người phụ nữ tội
nghiệp kia lại có thể biến mất, như ông ta chưa hề chết?
“Vậy em có nhớ chiều hôm đó em đi học về cùng với ai
không?”.
Phố nhìn tôi chăm chú. Hẳn Phố đang tự hỏi, lạ nhỉ, cô gái
kia sao cứ hỏi những điều ngớ ngẩn đến thế. Tại sao cứ bắt mình phải nhớ những
chuyện không hề xảy ra?
“Không”.
Và đó là câu mà Phố trả lời.
Ấm ức. Tôi hỏi bà nội rằng có đúng là năm xưa hai người bất
hạnh đó đã chết bên nhau, họ tự sát hay không? Bà nội bảo hình như là thế, bà
già quá rồi, chẳng nhớ được gì nhiều nữa. Ngay cả tôi, bà cũng nhớ nhớ quên
quên, mơ mơ hồ hồ, thực hư kì ảo. Rồi suy nghĩ rất lâu, bà bảo: Không phải, họ
bị bắn chết, bởi một người mang súng và đi đôi giày rất to.
Bà khóc, nước mắt trong veo lăn trên gò má hóp sâu. Ở làng
ai cũng biết ông nội tôi bị giết bởi một người mang súng và đi đôi giày rất to.
Năm ấy giặc càn qua làng.
Mùa hè năm sau, tôi về chịu tang bà. Bên nhà Phố một lần nữa
cánh cửa khóa kín.
Không tìm lại được cậu bé ngày xưa với bờ vai bé nhỏ, cái
lưng bé nhỏ và khoảng gáy thân yêu mà ngay cả trong mơ tôi cũng muốn mình hôn
lên đó, tôi trở về thành phố. Chuyến xe đường dài đưa tôi xa tít khỏi ngôi làng
thơ bé với những kỉ niệm buồn thương.
Ngồi bên cạnh tôi là một cậu trai làng lên thành phố học đại
học. Cậu chăm chú đọc một tờ báo. Tôi vô tình liếc nhìn tờ báo trên tay cậu. Một
dòng chữ nhỏ, lời thoại của một nhân vật trong một truyện ngắn. Nó được khoanh
trong ngoặc kép:
“Nếu thuộc về nhau sẽ có ngày trở lại”.
Một giọt nước mắt lăn trên má tôi. Tôi hiếm khi khóc ra nước
mắt, và lần này nước mắt đã rơi. Tôi để giọt nước mắt duy nhất ấy chảy trên má,
lăn xuống cổ, tạo thành một vệt dài rất lạnh
Là tôi hay Phố mơ hồ?
Hạc ngồi ngắm đàn kiến đang vội vàng đuổi nhau. Dân gian vẫn
truyền nhau kinh nghiệm khi nào kiến hành quân nghĩa là trời sắp mưa. Mưa ngụ ở
Cẩm Xuyên đã nửa mùa rồi, và những cơn mưa kia chưa thể là những cơn mưa cuối
cùng của mùa mưa sũng nước.
Ngoài vườn, đám hoa hồng
tỏa một mùi thơm ngọt ngào và mát lạnh.