Trang - Chương 02 - Phần 1

2

Đối diện với
Đavít, Trang trách chàng bằng một giọng giận dữ lẫn âu yếm:

- Ghê gớm thật!
Thế mà cậu không nói gì với tôi cả.

Sau khi rời khỏi
gian phòng lớn, Đavít bước nhanh ra phía cửa ngõ, nhưng nhờ nhanh trí khôn,
Trang đã đến trước chàng. Số là có lần chàng quay đầu lại và thấy nàng, nhưng
nàng liền giả tảng thôi không đuổi theo chàng nữa và lẩn tránh sau một hành
lang. Chàng quay nhìn lần nữa, mỉm cười đắc thắng và chậm bước lại. Rồi khi đến
một lối rẽ, đột nhiên chàng thấy nàng đứng trước mặt, hai tay dang ra để bắt và
giữ chàng. Chàng dừng bước, vòng hai tay trước ngực, và đăm đăm nhìn vào đôi
mắt đầy trách móc của Trang. Chàng nói:

- Tôi không bị
ràng buộc gì với nàng cả.

Trước ánh mắt
của Đavít, khuôn mặt xinh đẹp của Trang run rẩy, phừng đỏ và héo hắt như một
đóa hoa bị ngắt khỏi cành. Nàng thỏ thẻ:

- Không, chỉ có
tôi là bị ràng buộc với cậu mà thôi. Và… và… cậu rất có lý. Cậu không cần nói
với tôi… bất cứ điều gì.

Chàng hối hận:

- Trang ạ, tôi
sẽ nói với Trang nếu tôi không bị bắt buộc phải nói.

- Cậu nói đúng,
tôi thật có lỗi. Từ nay, tôi không thế nữa. Bây giờ tùy ý cậu.

Nàng chắp tay ra
sau lưng, hai bàn tay siết chặt lấy nhau. Đavít đưa hai tay ra định giữ lấy
nàng, nhưng nàng né tránh và vùng bỏ chạy. Giờ đây, nàng lại chạy trốn và chàng
đuổi theo… Nàng thích chạy xiết bao! Nàng được may mắn làm a hoàn trong gia
đình người ngoại quốc này. Nếu là chủ nhân Trung Quốc thì họ đã bắt nàng bó
chân từ khi họ nhận thấy nàng có nhiều hứa hẹn sẽ trở thành một thiếu nữ xinh
đẹp. Vì nếu một cậu con trai gia chủ muốn lấy nàng làm vợ lẽ thì nàng sẽ làm
điếm nhục gia phong bởi đôi chân thô kệch như bọn nữ tì. Trang vẫn chạy, nàng
cười vì nghe tiếng chân Đavít đuổi theo. Chàng cũng cười, và nhịp cười của hai
người hòa vào nhau theo thói riêng của họ hồi còn thơ ấu. Cũng như mọi lần,
chàng tóm được nàng; nàng cũng biết thế và đẩy chàng ra để thoát thân - nhưng
không thoát được hẳn: đôi tay Đavít quá mạnh - vì thính tai, nàng nghe có tiếng
bước chân và biết cả hai đã bị bại lộ.

Nàng vội lớn
tiếng kêu:

- Xin Thiếu chủ
chớ trầm mình!

Đavít buông tay,
nhưng chậm quá! Bà Era đã thấy đôi lứa thiếu niên. Bà xẵng giọng bảo:

- Trang, mày đã
quên phận mày!

Trang ấp úng:

- Con níu lại,
sợ cậu con trầm mình xuống giếng.

- Chuyện phi lý!
- Bà Era nói.

Nhưng bà phân
vân, Trang nói dối hay nàng đã kiếm cách giữ Đavít lại thật?

Đavít phì cười
nói lớn:

- Nàng nói dối
mẹ ạ. Chúng con chỉ giỡn đấy thôi!

Bất bình, bà Era
lạnh lùng bảo con:

- Đã đến lúc con
phải thôi đùa giỡn với nó.

Bất giác, vẻ đẹp
trai của con bà làm bà kém vui hơn thường ngày. Nước da hồng hào ấy, dáng điệu
chững chạc ấy lâu nay là mối vui thầm của bà thời bây giờ lại làm bà lo ngại.
Còn Trang, nàng đã trở nên xinh đẹp đáng lo.

Bà vắn tắt bảo
Trang:

- Sửa soạn để
theo tao đến nhà Đức Thầy.

Và xoay qua phía
Đavít, bà nói:

- Còn con, con
vào lo việc học hành đi!

Bà đĩnh đạc bước
ra theo dãy hành lang đưa đến ngôi nhà riêng của bà. Đavít nhăn mặt nhún vai.
Trang thở dài; nàng nhướng mày trông theo bà Era và lần lữa để đặt một bàn tay
nhỏ nhắn, êm ái tựa một đóa hoa, lên cánh tay Đavít.

- Cậu sẽ nói
chuyện nàng với tôi không?

Đavít tươi cười
hớn hở và Trang cũng âu yếm mỉm cười, cái cười mỉm mà hình như chàng thường
chợt thấy mỗi khi nàng ngước mắt nhìn mình.

Chàng đáp:

- Tôi sẽ kể với
nàng tất cả.

Hai người chia
tay nhau và Trang trở về phòng riêng để sửa soạn đi với bà Era. Gian phòng nàng
ở giữa một khuôn viên nhỏ, hơi cách biệt, nhưng thông với khuôn viên của thím
Hoàng, khuôn viên này lại thông với dãy nhà của bà Era bởi một lối đi im mát
đầy rêu. Gian phòng Trang ở bây giờ, xưa kia, trước đây ba đời, là phòng riêng
của nàng hầu bán chính thức của tổ phụ ông Era. Chính thím Hoàng cũng ở phòng
này cho đến ngày thân phụ ông Era gả thím cho lão Hoàng. Sau đó, gian phòng bỏ
trống trong lúc Trang còn thơ ấu. Nhưng người ta đã cho nàng dọn ra ở đấy khi
nàng đến tuổi mười lăm. Đấy là một gian phòng xinh đẹp, tường quét vôi trắng,
nền lót gạch ca-rô xám bóng nhoáng tựa gương. Trên tường, Trang có treo bốn bức
tranh Xuân, Hạ, Thu, Đông, do chính tay nàng họa.

Trải qua nhiều
năm, nàng đã có dịp đến phòng Đavít học với cụ đồ dạy chàng. Nàng pha trà, lau
quản bút, mài mực và học đọc, học viết. Nàng đã làm nổi thơ, không thua gì
Đavít. Trên mỗi bức tranh nàng đều có đề vịnh hai câu thơ. Trên bức mùa Xuân,
nàng để:

“Xuân đến anh đào đua trổ hoa,

Sá gì giá lạnh sẽ phôi pha!”

Trên bức mùa hạ,
dưới khóm hoa dạ hợp:

“Sang hè nắng cháy như thiêu đốt,

Suốt buổi ve sầu mãi hát ca.”

Dưới cành phong
tượng trưng mùa thu:

“Sân trước vắng, hoa rơi lác đác,

Ngõ ngoài xa, lá rụng la đà.”

Và dưới cụm
thông tuyết phủ:

“Đông tùng xanh biếc, hoa tàn úa!

Vạn vật bao trùm bạch tuyết sa.”

Nàng thường đọc
lại các câu thơ trên và tìm cách gọt giũa cho hoàn mỹ hơn. Nàng tự hỏi, có bao
giờ đạt được không? Nhưng giờ phút này, mấy vần thơ ấy đã thấm thía tận tâm can
và làm nàng muốn rơi lệ.

Nàng vội vã
choàng thêm chiếc áo đơn sơ màu sẫm, tháo đôi xuyến vàng đang mang, gỡ cất các
đóa hoa đào trang điểm trên mái tóc. Nàng soi vào tấm gương nhỏ, thoa một tí
phấn và tô lại môi son. Lúc nào, nàng cũng tết tóc đuôi sam và vấn lên trên
vành tai; nhưng mỗi khi đi ra ngoài, nàng thả xuống theo tục lệ để phân biệt
các a hoàn với các tiểu thư; sau cùng nàng chải tua tóc trước trán.

Xong, nàng vội
vã men theo dãy hành lang đến phòng bà Era. Thím Hoàng trang điểm cho chủ gần
xong. Trang phục của bà Era lộng lẫy và rất đặc biệt. Bà vẫn tưởng đã theo đúng
phục sức Do Thái, có biết đâu trải qua nhiều thế hệ trú ngụ ở đất Trung Hoa
này, rất nhiều chi tiết trong việc thêu thùa, may cắt, đã có đôi phần cải cách,
so với y phục của các bà tổ mẫu xưa.

Trang dừng lại
trước cửa, đằng hắng và chuẩn bị nét mặt cho vui tươi. Bà Era không quay lại.
Thường ngày, bà rất tử tế với bọn nữ tì và năng hỏi han họ, nhưng mấy hôm nay
mặc dù tâm trí bận rộn theo ngày lễ Quá Hải, bà cũng cảm thấy bất bình vì sự
quá thân mật giữa Trang và Đavít. Vẫn biết bà đã mua Trang về để bạn bè hầu hạ
Đavít. Nhưng năm tháng trôi qua quá mau. Bà tự trách đã không thấy sớm hơn rằng
khi con trai bà cũng như Trang đã khôn lớn; và bà giận Trang vì theo bà thì lẽ
ra nàng phải là người hiểu điều đó trước tiên.

Trang rất sành
tâm lý. Nàng kiên nhẫn đợi chủ hỏi đến mình. Chợt thấy thím Hoàng sẩy tay làm
rơi chiếc trâm vàng, nàng nhanh nhẹn nhoài mình ra mềm mại như một con mèo,
lượm lên và tự tay gài vào đầu tóc chủ. Nàng bắt gặp nét nhìn của chủ trong
gương và mỉm cười, bà Era giữ vẻ nghiêm khắc, nhưng chỉ được vài giây, bà mỉm
cười nói:

- Mày không tốt,
tao giận lắm đấy!

Trang buồn rầu
hỏi:

- Thưa bà, bà có
thể cho con biết vì sao không?

Rồi nàng thật
thà tiếp:

- Thôi, xin bà
đừng nói nữa. Con biết rồi. Nhưng bà hiểu lầm con, con biết địa vị con trong
gia đình này lắm. Con chỉ ước ao một điều là được hầu hạ bà. Con sẽ làm tất cả
điều gì bà dạy bảo. Ngoài nhà này con biết ở vào đâu? Con dám không vâng lời bà
sao?

Nàng xinh đẹp
quá, khẩn cầu và nhu thuận quá, bà Era phải động lòng. Quả thật, Trang lệ thuộc
hoàn toàn vào chủ. Bà Era chẳng những biết rõ tính cương quyết và đức khôn
ngoan ẩn giấu dưới vẻ nhu thuận ấy, mà còn biết Trang sẽ không dại gì vì một
mối tình thơ ngây mà phá tan cuộc đời ấm êm đang sống. Nếu mối tình ấy quả thật
có đi chăng nữa, thể tất nàng cũng tìm cách tự kiềm chế, nếu không, còn gì là
đời nàng - và điều đó đã dĩ nhiên - bà Era tự nhủ: vì nếu ngày nào bà thấy
Đavít và Trang vượt quá giới hạn sự giao thiệp đứng đắn giữa chủ và tớ thì ngày
đó bà sẽ gả nàng cho một nông phu.

Bà Era không nói
nhưng Trang đoán biết tư tưởng của bà. Vì nàng có thói quen nhận thức bằng trực
giác. Nàng cứ yên lặng, không suy nghĩ, chờ đợi, vận dụng dung thụ tính và tư
tưởng kẻ khác lặng lẽ truyền qua trí não mình. Lấy một nông phu là số phận
thường lẽ của các tì nữ không biết giữ phận tôi đòi. Và điều đó đối với gia
đình này lại còn quan trọng hơn là trong một gia đình Trung Hoa, vì người Do Thái
không lấy vợ lẽ, bà Era thường bảo thế, thêm nữa là người Do Thái đứng đắn:
Dêhôva, Chúa Trời của họ đã cấm điều đó.

Vì bà Era không
nói gì nên Trang đi ra và đợi bà ở cửa ngõ. Lát sau, nàng bước lên chiếc kiệu
tầm thường theo chiếc kiệu rực rỡ diềm sa tanh của chủ. Nàng nhìn ra ngoài qua
chiếc kính nhỏ ở cánh diềm phía trước. Con đường này không hề thay đổi suốt đời
Trang cũng như hằng mấy trăm năm trước khi có nàng và luôn luôn ồn ào nhộn
nhịp. Hai bên đường san sát những căn nhà thấp, tường gạch, tường đá, và sau
những bức tường ấy, vợ chồng con cái sống chung, hạnh phúc hay không, nhưng yên
ổn. Con đường rợp bóng, mát mẻ, vì trước mỗi nhà hàng đều có căng những bức đệm
bằng lau, khung tre để che nắng. Bọn người gánh nước bằng thùng gỗ đi qua, một
ít nước đổ loang lổ trên mặt đường, hơi nước bốc lên càng làm cho con đường
thêm dịu mát. Đám trẻ bò lết, chạy nhảy khắp nơi, rẽ người qua đường để giành
lối. Đàn bà mua cá bán rau, mặc cả om sòm, còn đàn ông thì hoặc bôn ba cho kịp
công việc hoặc la cà ở các trà đình tửu điếm. Khắp nơi là một cuộc sống yên vui
bình dị, nhưng Trang tự nhủ trong đó nàng có phần nào đâu.

Vừa ngắm nhìn
quang cảnh quen thuộc ấy, nàng vừa ngẫm nghĩ đến cuộc đời nàng. Năm tháng thấm
thoát thoi đưa, năm tháng vui tươi đầy hạnh phúc và nàng hãi hùng nghĩ tới ngày
sẽ trở thành thiếu phụ, ngày mà một sự thay đổi sẽ xảy đến. Lâu nay, nàng có
cảm giác nàng là con cái trong nhà, nhưng mấy ngày gần đây, nhất là trong ngày
lễ Quá Hải kỳ dị vừa rồi, nàng đã hiểu, nàng chỉ là người xa lạ đối với gia
đình này. Dù cố gắng đến đâu, Trang cũng không làm sao nhớ lại được mẹ hay cha
nàng. Nàng chỉ là một đứa trẻ bỏ rơi, bị bắt trộm hay mua đi, bán lại…

Có một hôm nàng
hỏi bà Era:

- Thưa bà, ai đã
bán con cho bà?

Bà chủ đáp:

- Một người buôn
con nít.

- Người đó có
bán nhiều đứa như con không?

Thím Hoàng lanh
chanh nói:

- Những hai chục
đứa con gái và hai đứa con trai.

- Thưa bà, con
không hiểu vì sao bà lại không chọn một đứa con trai để hầu hạ cậu con?

Bà Era đáp:

- Ông chủ chọn
đấy. - Theo bà, ông đã chọn Trang là vì nó có
đôi mắt rõ to. - Lúc đó, con gầy như chiếc que, con ạ. Bà còn nhớ con ăn nhiều
đến nỗi cả nhà đều sợ.

Dọc theo con
đường chật chội, Trang ngất ngưởng ngồi trên kiệu, suy ngẫm đến số phận mình.
Ngoài gia đình chủ ra, nàng không quen biết một ai, nàng không có ai bầu bạn.
Tất cả mọi người đều xa lạ cũng như những kẻ qua đường kia. Nàng muốn khóc.
Nàng biết đi tìm bầu bạn hoặc một gia đình nơi đâu? Vì vậy nàng phải bám chặt
vào hiện tại, vào gia đình độc nhất mà nàng đã biết.

Mình không có ai
hết, nàng nghĩ thầm đau đớn.

Nhưng lòng nàng
trung thực, tận đáy tâm can đã xua đuổi ý nghĩ này. Nàng đã tự dối mình! Nàng
muốn ở lại trong nhà chủ vì ý nghĩ phải xa Đavít làm nàng đau khổ. Nàng thầm
gọi chàng bằng tên và còn gọi luôn như vậy mặc dù ngoài miệng buộc phải thưa
“Thiếu chủ”.

Ta yêu chàng,
nàng tự thú. Dù ai có cho ta gì đi nữa ta cũng không rời bỏ nơi đây.

Trang thầm nghĩ
trong lòng như vậy, và sự thật đã làm nàng bình tĩnh, sáng suốt. Bây giờ nàng
biết rõ điều nàng muốn, và điều mà nàng sẽ có. Chỉ còn có việc làm thế nào để
chiếm đoạt và gìn giữ nó thôi.

***

Nhà vị giáo sĩ ở
cạnh nhà thờ Do Thái mà người Trung Hoa thường gọi là “Đền Dị giáo”. Con đường
ngang qua trước nhà thờ này, đã từ lâu người ta thường quen gọi là đường “Trích
Cân” do chỗ người Do Thái có cái tục huyền bí là mỗi khi ăn thịt đều rút gân bỏ
đi. Trước đây, thỉnh thoảng đi ngang qua đường này người ta phải bực mình vì
những lời bi thán não nuột từ nhà thờ vẳng ra. Nhưng với thời gian, những lời
bi thán hầu như đã chấm dứt hẳn và bây giờ bảy ngày một lần người ta chỉ còn
nghe văng vẳng những bài ca dài, hát rất chậm rãi. Đến các bài ca này cũng càng
ngày càng hát nhỏ dần, và kẻ qua đường tò mò đã phải dừng bước lắng tai mới
nghe rõ tiếng ca sau các cánh cửa nặng nề đóng kín. Chính ngôi giáo đường cũng
đổ nát dần. Mỗi mùa hè bão tố lại hoành hành, và những nơi hư hỏng không hề
được sửa chữa.

Nhà giáo sĩ ở
sát đấy cũng trong tình trạng ấy. Trong sân và giữa các kẽ đá, rêu đã mọc đầy.
Bà Era và Trang xuống kiệu từ ngoài ngõ. Lão Hoàng đã đến trước để báo tin, và
đang đứng ở ngưỡng cửa gian phòng khách.

- Bẩm bà, Ngài
còn giấc. Chỉ có một mình cô ấy dưới bếp thôi. Cô ấy đang chạy đi thay đồ và cô
nhờ con mời bà ngồi chơi. Cô ấy sẽ xin ra hầu bà ngay.

Bà Era khẽ gật
đầu bước qua bậc cửa một và vào trong phòng khách. Đây chỉ là một gian phòng
nhỏ hẹp, sạch sẽ, tuy bàn ghế tầm thường, và Lịch có bày một bình hoa huệ trắng
thơm ngát.

Ở đây, người ta
không mời khách dùng trà, vì đó là tục lệ của người Trung Quốc. Bà Era ngồi và
chỉ một chiếc ghế đẩu bảo Trang.

- Ngồi đấy, con.
Khi không có ai thì con khỏi phải giữ lễ. Còn bác Hoàng thì đi về để lo công
việc ở nhà.

Lão Hoàng cúi
chào và bước ra. Bà Era ngồi đợi trong gian phòng thanh vắng. Bà lặng thinh,
Trang cũng không nói gì. Nàng lặng lẽ ngồi xuống ghế, hai tay chắp lại trên
gối, trông rất duyên dáng. Nàng ngồi thẳng, điềm tĩnh và kín đáo. Khi nghe có
tiếng chân kéo lệch xệch, nàng đứng dậy và đến đứng hầu sau lưng bà Era.

Lịch vén bức màn
cửa bằng vải đã bạc màu dắt thân phụ đi ra. Tay
mặt của giáo sĩ cầm một chiếc gậy dài còn tay trái vịn lên vai con gái. Lúc còn
trẻ, giáo sĩ cao lớn khác thường và bây giờ tuy đã già mà dáng người trông vẫn
còn dong dỏng cao. Cũng như mọi hôm, sáng nay, người mặc quốc phục. Áo quần tuy
có chỗ vá nhưng trông rất tươm tất. Râu của người dài và bạc phơ như tuyết, da
đã có nhiều vết nhăn nhưng gương mặt trông rất tinh anh. Người nói với bà Era:

- Con…

Bà Era vội vàng
thưa:

- Thưa thầy, con
đã phá giấc ngủ của thầy.

Bà đứng dậy và
bước tới gần giáo sĩ. Người khẽ nắm lấy tay bà, rồi người đưa tay lên đầu bà để
làm dấu ban phúc. Lịch dắt người đến ngồi trên chiếc ghế đối diện với ghế bà
Era ngồi lúc nãy. Nàng quay lại nói với bà:

- Xin mời dì
ngồi!

Và khi bà Era đã
ngồi xuống, nàng lấy một chiếc ghế đẩu đặt cạnh ghế của thân phụ. Ngập ngừng,
nàng nhìn Trang:

- Còn chị… mời
chị ngồi!

Trang khẽ cúi
đầu dịu dàng đáp:

- Cám ơn tiểu
thư, em bận đợi sẵn để bà em sai bảo.

Lịch ngồi xuống.
Kể từ lúc Trang và nàng không còn là hai cô bé chơi đùa với Đavít nữa, đã có những
thay đổi, nhưng không có gì đánh dấu sự kiện ấy rõ rệt hơn bằng lúc này. Một
người là tì nữ, còn người kia đã là gia chủ.

Giáo sĩ nói với
bà Era, giọng sang sảng:

- Lẽ ra, thầy
dậy sớm hơn nhiều. Nhưng lạ thực con ạ, lễ Quá Hải đã nhắc nhở cho thầy những
kỷ niệm buồn phiền và thầy đã thức suốt đêm. Đôi mắt tội nghiệp này (người sờ
đôi mắt mù) không còn thấy đường nhưng còn khóc được con ạ.

Bà Era thở dài:

- Thưa thầy,
trong cảnh đầy ải, tất cả chúng ta đã không cùng nhau than khóc sao?

Giáo trưởng
tiếp:

- Thầy mỗi lúc
mỗi già, Arông còn trẻ quá chưa có thể thay thế thầy được. Arông đâu, Lịch?

- Thưa cha, em
con đi từ sớm chưa về.

Giáo trưởng hỏi:

- Em con có nói
đi đâu không?

- Thưa cha
không.

- Đáng lẽ con
phải hỏi em con cho biết!

Lịch dịu dàng
đáp:

- Con có hỏi
nhưng em con không nói.

Bên cạnh bóng
dáng ốm yếu già nua của thân phụ, vẻ xinh đẹp của Lịch nổi bật lên một cách
lộng lẫy. Ánh mặt trời mùa xuân rọi qua khung
cửa làm thành một hình vuông trên nền lát đá hoa và phản chiếu lên người Lịch
khiến nàng trở nên rực rỡ lạ thường. Thân hình nàng thanh lịch, da dẻ hồng hào,
trông dáng mạnh mẽ, nhưng vẻ e lệ đã làm cho nàng có một bộ điệu khiêm tốn gần
như thơ ngây. Môi nàng thắm và dưới đôi mày rậm, mắt nàng sắc nâu với hàng mi
cong trông rất xinh. Một dải sa tanh đỏ buộc gọn tóc nàng trên gáy. Chiếc thắt
lưng cũng bằng sa tanh đỏ càng làm tăng thêm sắc trắng của chiếc áo dài tận
gót. Tay áo ngắn để lộ đôi cánh tay ngà ngọc
của nàng.

Trang ngắm nhìn
Lịch với đôi mắt kín đáo sau hai hàng mi thẳng. Xúc động và ngạc nhiên, Trang
thầm đặt nhiều câu hỏi về người thiếu nữ ngoại quốc xinh đẹp ấy, nhưng nàng
không giải đáp được một cách minh bạch. Nếu vạn nhất Lịch về làm vợ Đavít, liệu
nàng sẽ có đủ sáng suốt để hiểu thấu mọi diễn biến dưới mái nhà thênh thang này
chăng? Liệu nàng sẽ lại lôi cuốn Đavít vào các mộng tưởng của dân tộc Do Thái…

Bà Era nói:

- Thưa thầy,
đáng lẽ Arông phải xin phép thầy trước khi đi!

Giáo trưởng thở
dài:

- Nó còn dại
quá!

Bà Era giọng rắn
rỏi:

- Thưa thầy, còn
dại gì đến nỗi quên cả bổn phận. Cậu ấy là người độc nhất để thay thế thầy sau
này. Cậu ấy phải nhớ nhiệm vụ đối với dân tộc. Nếu không, ai sẽ là người dìu
dắt chúng con về xứ sở khi đến lúc.

Giáo trưởng
giọng rầu rĩ:

- Chao ôi! Ước
gì lúc ấy đến trong khi thầy còn sống!

Bà Era vẫn giọng
rắn rỏi:

- Nếu không được
thế đi nữa, chúng ta cũng phải sẵn sàng. Thưa thầy, chúng ta phải tu bổ lại
giáo đường và khơi lại nguồn sống cho những gì còn tồn tại của dân tộc. Đồng
bào chúng ta quên di sản của tổ tiên, và con cái chúng ta sẽ không biết đến di
sản ấy. Có lẽ thầy nên giao cho Arông việc quyên góp để trùng tu… Thưa thầy,
đấy là một ý kiến hay và để bắt đầu, con xin cúng năm trăm.

Giáo trưởng đáp:

- Ồ! Nếu tất cả
đồng bào ta đều được như con cả. Nhưng quả là một ý kiến hay! Phải không Lịch?
Cha sẽ giao cho Arông lo liệu và như vậy nó sẽ có việc để làm.

Lịch đáp vẻ nghi
ngờ:

- Thưa cha vâng!

Và nàng cúi đầu
nhìn vạt ánh sáng dưới chân mình.

Báo cáo nội dung xấu