Mùa hoa dẻ - Phần III - Chương 1 - 2 - 3
Phần
Thứ Ba
1
Bóng đêm mỗi lúc
một nặng nề. Gió bắc từng trận từng trận đuổi mưa bay. Mưa rơi dày như dệt màn.
Nhà ga Lộc Yên lạnh
lẽo nằm bên đường sắt. Ga dựng lên bằng những thân ray, những đoạn luồng cây nứa,
khúc tre, mái lợp lá cọ. Mỗi khi một trận gió hút qua, mái cọ muốn chồm lên,
run lật bật, lật bật. Trông trước, ngó sau, nhà ga chỉ vẻn vẹn bằng cái điếm
gác. Nhưng chính nơi nhà ga nhỏ bé ấy đã ủ
ấp một sức sống mãnh liệt của những người thợ từng quyết rời bỏ quê hương
êm ấm để ra đi kháng chiến lâu dài. Nhà ga ấy cũng từng chứng kiến hàng nghìn,
hàng nghìn cuộc chia tay của các chiến sĩ, giã biệt đồng bào, giã biệt hậu
phương ra tiền tuyến.
Chắc hẳn, hình
thù của nhà ga nhỏ bé ấy cũng đã làm in sâu vào ký ức của mỗi người đã hơn một
lần đặt chân tới đây. Có thể họ còn có cả những kỷ niệm đối với một o Oanh, o
Phước nào đó, nhà ở gần ga…
Liêu khoác vải dầu,
đội mũ lá, đứng cạnh bức tường đồ của nhà ga cũ. Mưa phùn như đánh như quất vào
mặt, vào hai bàn tay. Trước mặt Liêu là đám hành khách, cũng lắm hạng người, nằm
ngổn ngang trên bao gạo, trên cũ nâu, trên phốt-phát, bên gạch vụn và các đống
tre nứa…
Đêm chờ goòng vẫn
yên ắng. Đây là nhà xe lửa, sau toàn quốc kháng chiến, đường sắt bị phá hoại
triệt để, nay cần cho vận chuyển, con đường goòng đã được thành lập. Hành
khách, hàng hóa, trên đường từ Thanh Luyện ở Hà Tỉnh, đến Đò Vàng của Quảng
Bình đều được vận chuyển bằng các toa goòng chạy theo tuyến đường sắt cũ đã được
ghép lại. Trong nhà ga, thỉnh thoảng có tiếng chuôn điện thoại leng keng và sau
đó là giọng nói khàn khàn ngái ngủ của cán bộ nhà ga.
Trong không gian
âm u, vời vợi của đêm mùa đông, bỗng nhiên một giọng hát nữ trong trẻo thoáng
rót vào tai Liêu:
“Người chiến sĩ dầm gió rét mưa bay
Đắm mình
trong khói súng
Chiến trường
áo mong manh
Căm thù
nuôi ấm thân
Quyết lấy
máu pha tô sắc cờ… ”
Không phải từ
đâu xa vẳng tới, đó là tiếng hát của cô gái đang ngồi cạnh Liêu. Giọng cô gái
trầm bỗng thánh thót:
“Em
về xa vắng, thầm lo cho cánh chim bay…
Chiều
nghe vầng lá xiết, em run ngỡ tiếng
Ngỡ
tiếng bước chân anh về… “ (1)
Một hơi thở mạnh
hắt ra từ lồng ngực rộn ràng của Liêu. Tiếng hát bỗng im bặt. Hai người đưa mắt
nhìn qua đêm tối, không một tiếng nói. Kỳ thực hai người dường như đã nhận ra
nhau. Họ đã gặp nhau đâu đã một lần rồi, chưa lấy gì làm lâu, trong chuyến đò dọc
từ Đức Thọ lên đây.
Trong đò, ngẫu
nhiên Liêu gặp lại một người bạn cũ từ hồi hai đứa còn là những chú bé liên lạc
của Vệ quốc đoàn. Câu chuyện gặp gỡ của hai người đã làm xúc động cô gái nhỏ ngồi
cùng khoang đò. Cô gái buộc phải thốt lên: “Thì ra các anh là bạn cũ của nhau?”
Liêu tươi cười,
quay sang cô gái, san sẻ niềm vui bằng một câu thơ mà anh rất thích “Lũ chúng
tôi, bọn người tứ xứ. Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ, quen nhau từ thuở “một hai”…
(2) cũng từ đó, cô gái đã có sự chú ý đặc biệt tới Liêu, “người con trai
chiến sĩ”.
_________________________________
(1) bài hát
“Quay tơ” của Tử Phác.
(2) Bài “Nhớ”
thơ – Hồng Nguyên.
Trong nhà ga lại
vang lên tiếng chuông điện thoại và một giọng nói khàn khàn ngái ngủ:
- A-lô! Lộc Yên
đây!
- Đầu dây số bốn
sắp vào.
- A-lô! Được bao
nhiêu người? Vâng… vâng, Lộc Yên sẽ cho lên bốn mươi người…
Cô gái đã vương
mình đứng lên và bắt đầu trò truyện với Liêu:
- Chờ lâu quá
anh nhỉ! Goòng chậm thật!
- Vâng, không gì
sốt ruột bằng chờ tàu chờ xe.
- Anh vào ga
nào?
- Đỏ vàng
- Tôi cũng vậy
Liêu như cố nhìn
thật kỹ cô gái trong đêm và hỏi:
- Cô đi buôn hở?
- Không. Em đi học
về.
- Cô học trường
nào?
- Phan Đình
Phùng, ở Đức Thọ. Em cũng có người anh đi bộ đội như anh. Đã lâu lắm rồi không
có tin tức – Cô gái bỗng chẹp miệng, nói một mình “tội nghiệp”.
Từ đấy, hai người
lại đứng lặng bên nhau, mỗi người nghĩ những gì cũng chẳng hay, cho đến khi ông
trưởng ga cầm loa gọi hành khách chuẩn bị lên goòng.
Nhà ga bỗng bật
lên ồn ào như vỡ chợ.
Chiếc đèn gương
màu đỏ dược lắc qua lắc lại trên đường tàu, lệnh cho đoàn goòng dừng bánh. Đoàn
goòng đỗ trên sân ga ngắn ngủi, chỉ bốn toa. Hành khách đang tíu tít lên xuống, lời chào hỏi chen lẫn lời tiễn biệt, cùng với
các thứ tiếng ồn ào í ới khác… Đêm sân ga vui trong khoảnh khắc, tấp nập, rộn rịp.
Đang là mùa chiến
dịch, đường goòng đã trở thành một trong những tuyến giao thông quan trọng từ hậu phương Nghệ Tĩnh vào tiền tuyến
Bình Trị Thiên và Trung Lào, do đó mỗi đoàn goòng đều đầy ắp những lương thực,
thực phẩm tiếp vận cho Mặt trận. Liêu chọn toa goòng cuối cùng leo lên, đặt
mình trên những bao gạo đầu óc mải
suy tính chuyện ngày mai. Liêu cũng đang trên đường đi chiến dịch. Vì có việc cần
ở trung đoàn, anh đi sau đơn vị một ngày. Và, đêm đã quá khuya, nhịp goòng lắc
la, lắc lư đã ru Liêu ngủ lúc nào không hay.
Bên trái, chạy
song song với đường sắt là con đường 12, đường chiến lược. Ánh đèn xe đạp thồ nối
nhau kéo thành một vệt dài, cũng có đoạn ngoằn nghèo tựa con rắn. Đứng xa nhìn
vào quang cảnh đó dễ có cảm giác ta sắp đến với một thị trấn nào đó. Đám dân
công bộ thì vừa gánh nặng vừa hét hò nghe thật vui. Các đơn vị bộ đội cũng đang
hành quân trên đường, tạo nên một khí thế sôi động trong lòng đêm.
Liêu chợt tỉnh
giấc giữa đêm khuya trong toa goòng tối om. Mãi một lúc anh mới nhận ra có cái
gì nằng nặng trên ngực, âm ấm bên má mình. Lại còn có mùi hương rất lạ, chừng
như Liêu chưa bao giờ được gần: mát mát, nồng nồng, say say…
Và, không lâu,
Liêu đã hiểu ra: Hương tóc và hơi thở của người con gái, cô nữ sinh từng gặp
anh trong chuyến đò dọc và đã trò chuyện với anh chốc lát ở sân ga Lộc Yên. Chẳng
hiểu cô gái lên goòng và ở sát bên Liêu tự lúc nào? Cảnh lên xuống tàu trong
đêm đen như mực nên khó nhận ra được nhau. Rõ ràng giờ đây cô gái đang trong giấc
nòng, cánh tay mềm đang choàng qua ngực Liêu. Và cứ thế, theo nhịp goòng lắc la
lắc lư cuốn trên đường sắt, đôi môi ấm của cô gái đang như áp vào má Liêu những
chiếc hôn nồng cháy.
Người Liêu bỗng
nóng ran. Rồi chẳng hiểu Liêu nghĩ gì, anh nhẹ nâng cánh tay cô gái ra khỏi ngực
mình, rồi ngồi dậy, lấy thuốc, đánh diêm, châm lửa hút. Qua ánh lửa diêm, Liêu
liếc nhìn gương mặt xinh xắn của cô nữ sinh trong giấc nồng. Anh bỗng liên tưởng
đến Hoa, đôi mắt to và đen… Đôi mắt ấy như đang sáng lên trong đêm, thăm thẳm
mong nhớ, chờ ngày Liêu trở lại.
Đoàn goòng vẫn
giương đôi mắt sáng quắc, chạy vun vút trong đêm, như một con thú rừng ngang
tàng chốn sơn lâm không hề biết sợ hãi. Làng mạc, núi đồi hai bên như cuống
quít kéo nhau chạy giật lùi, muốn tránh xa đoàn goòng. Đường sắt bị bánh goòng
nuốt dần, nuốt dần như đồi trục xa cán nuốt bông.
Mưa gió và cành
cây quét ràn rạt vào hai bên thành goòng.
2
Đường đi ngập
bùn thấu đầu gối, đặc sệt, quyện lấy chân hơn cả bột hồ, Liêu cố sức, vội vã
như một người đi xa lâu ngày nay trở lại thăm quê. Mùa đông kéo dài lê thê. Hai
bên đường, số lớn cây trút hết lá, giơ những cành nhánh khẳng khiu, mấy gốc
xoan, gốc bàng, chẳng khác chi những bộ xương người đói. Mấy con trâu rét gió,
náu mình dưới gốc cây, ngửng đầu, đưa mắt đờ đẫn nhìn theo khách lạ.
Đã một năm rưỡi
trôi qua, từ ngày Liêu gặp Hoa và ngỏ lời yêu đương, hò hẹn. Mặt trời lên rồi lặn,
trăng hết khuyết lại đến tròn, thời gian trôi đi hết sức vô tư. Cho tới chiều
nay, dòng sông Gianh quen thuộc và thơ mộng đã hiện lên trước mắt Liêu, sóng nước
bao xao xuyến. Bên bến, con đò ngang đang cắm sào đợi khách trong mưa bay. Vẫn
là cô lái đò năm ngoái năm xưa. Trông cô đã có phần chững chạc, có lẽ đã có chồng
con rồi.
Liêu bước lên
đò. Mái chèo khuấy nước, con đò nhẹ nhàng lướt sang ngang. Mưa giòng giòng như rây
bột trên mặt sông. Dòng sông trong mưa càng rộng ra, bóng con đò càng trở nên
cô đơn. Bến đò này năm trước từng chứng kiến cuộc đưa tiễn kín đáo giữa Hoa và
Liêu và cùng ngày ấy lòng hai người thầm giữ một lời hẹn ước.
Mũi đò vừa chồm
lên bãi cát. Liêu quên cả gửi lời chào cô lái đò, biến vội vào ngàn dâu, dâu
màu đông cũng xơ xác. Cô lái đò đứng nhìn theo anh bộ đội vừa lạ lạ vừa quen
quen, “không biết anh ấy về nhà ai?”
Làng Phước Sơn
chẳng còn nguyên vẹn nữa! Trước mắt Liêu là một bãi hoang, không, một bãi chiến
trường thì đúng hơn. Rặng cọ xanh tốt xưa kia giờ chỉ còn trơ lại những thân
cây nghiêng ngửa, xạm đen, lá khô giơ ra như hàng loạt bàn tay xương xẩu kêu trời.
Nhà cửa đổ nát, chỉ còn là những túp lều
che tạm nắng mưa. Vườn tược, mặt đất, nham nhở toàn hố bom đầy ứ nước đọng.
Liêu cứ ngỡ ngàng như người mới tới đây lần đầu, cố quan sát, tìm dấu vết,
phương hướng để xác định đâu là nhà
của Hoa. Mãi lâu sau, cố nhớ lại từng cảnh từng vật. Liêu mới tìm được hai bờ
chè mạn hảo, giờ đã lộn góc lên trên, chết khô cùng với cây cối khác. Nếp nhà
xinh xắn nay chỉ còn lại cái nền, cỏ dại mọc um tùm. Một chiếc chum vỡ nằm bên
gốc cây cụt ngang thân. Giữa sân là một hố bom như cái vựa, nước đọng xanh len
lét.
Liêu cắn răng,
chực trào nước mắt, như người bị chết đứng trong cảnh hoàng hôn. Liêu có có cảm
giác như những trái bom địch đã ném vào làng mạc quê hương mình, bom rơi chính
vào nhà mình. “Mẹ già và người yêu mình hiện ở đâu?” Đứng đã lâu, đi suốt ngày,
nước mưa đang thấm lạnh vào người. Bất giác Liêu rùng mình.
Anh lẩn thẩn đi
quanh khu vườn hoang nhà Hoa. Anh gặp một thanh niên trong làng, chào hỏi, bắt
tay thân mật.
- Gia đình bà
Nhương còn ở lại làng không anh?
- Nhà bà ấy tản
cư sang bên Thượng rồi.
- Ở với ai bên
đó?
- Người con rể.
Cậu thanh niên ấy
chính là Luyến, con trai bà Thành.
Luyến nhìn Liêu
kỹ hơn:
- Anh… là anh
Liêu?
- Anh biết tôi?
- Hồi năm ngoái,
anh cứu cô Hoa chết đuối chứ gì?
Nhắc tới Hoa,
Liêu những muốn hỏi dồn dập, song sợ ngượng, sợ xấu hổ, đành mong anh thanh
niên nọ tự kể chuyện về Hoa cho mình hay. Liêu đứng im, chỉ “vâng” khẽ một tiếng.
Luyến nói tiếp:
- Chóng thật, mới
đấy mà đã gần có con rồi.
Đến nước này thì
Liêu không nén nỗi lòng nữa:
- Ai gần có con?
– Liên cau mày.
Luyến giọng bình
thản:
- Cô Hoa chứ ai!
- Hoa đã lấy ai?
- Cô ấy lấy ông
giáo cấp hai, hồi trước dạy học ở trong nhà
Liêu không còn
giữ được bình tĩnh nữa. Mặt anh như dại hẳn, khờ khạo, thậm chí anh còn không cần
biết mình đang đứng trước mặt một người trong làng. Ruột gan như uống phải thuốc
độc, cay đắng và xốn xang khó tả. Anh cắn chặt vành môi, đứng lặng như vậy một
lúc lâu. Hoàng hôn trút xuống quanh Liêu lúc một dày.
Liêu thở dài rõ
mạnh, đưa mắt nhìn tại mảnh vườn hoang nhà Hoa lần cuối rồi đau đớn ra đi, ra
đi đầu không ngoảnh lại.
Luyến mỉm cười,
nhìn theo bóng Liêu nhòa vào hoàng hôn.
Liêu trở lại bến
đò. Đò đã về bên kia sông, anh phải cất tiếng gọi. Tiếng gọi đò lạnh lẽo vọng
sang sông, buồn bã dội vào vách núi đá.
Đêm hôm ấy. Liêu
ngủ lại ở nhà một bà cụ thuộc làng khác. Gọi là nhà, đó cũng chỉ là một túp lều
lá nhỏ.
Bà chủ nhà sống
một mình. Vóc người bà gầy nhỏ, hơi hơi giống bà Nhương, mẹ của Hoa, càng làm
cho buồn thương trong lòng Liêu khó khuây…
Trời đã khuya,
Liêu vẫn còn thức, ngồi bên bếp lửa với bà cụ, nghe rủ rỉ kể chuyện suốt một đời
người nghèo khổ, cơ cực…
Ngọn lửa cháy
leo heo, ánh lửa chập chờn lay, làm cho cái bóng cũng như thân hình gầy yếu của
bà cụ chao đảo trước vách liếp. Liêu lắng nghe chuyện, thỉnh thoảng hắt ra một
hơi thở dài đồng cảm. Cũng có một phút, tâm tư tình cảm của Liêu phân tán ra khỏi
câu chuyện cuộc đời bà cụ. Như thể đang khơi lại một quãng đời nào đó của mình,
hình ảnh dòng sông Bồ ngập lụt, con trâu nhà chủ sẩy chân bị nước cuốn đi, một
mình Liêu vật lộn với sông nước để dắt trâu, lái trâu ghé vào được một bờ tre đầy
rắn rết…
Cuối cùng, bà cụ
muốn gửi lời nhờ Liêu:
- Mẹ có một đứa
con gái, năm đói bốn lăm, theo cha ngược lên Lào, đến nay biệt tích. Bao giờ,
con đánh lèn mạn ngược, nhớ đến mẹ thi gắng giành thời giờ hỏi thăm, kiếm tìm
giúp mẹ, đem nó về được thì không gì bằng…
Bà mẹ sụt sùi:
- Tội nghiệp!
Bây giờ chắc nó đang sống cô đơn trên đất khách quê người… - Bà cụ nâng vạt áo
lên lau nước mắt – Tên nó là Gái.
- Liêu ngồi lặng,
thầm nghĩ: “Giá như không phải đời lính nay đây mai đó, đi mãi, đi mãi, không
biết bao giờ thì mình có thể ở lại đây, nhận bà cụ làm mẹ, hôm sớm có chút tổ ấm,
có tình nghĩa mẹ con…”.
Đồng hồ trên tay
Liêu chỉ một giờ.
Tiếng gà trong
xóm gáy canh. Bà cụ bảo Liêu đi ngủ để lấy sức ngày mai lên đường. Bà dặn lại
Liêu:
- Tên mẹ là Cư,
con nhớ đừng quên. Bao giờ độc lập, con cứ về đây với mẹ, miễn là không khinh mẹ
nghèo.
Liêu vâng lời bà
cụ, lên giường đi nằm.
Bà cụ còn lom khom
gạt một mồi than hồng đầy xuống dưới gầm giường cho Liêu, đoạn đi lấy cái nong
che vào cửa phên rách nát, chắn sương gió bên ngoài ùa vào.
Liêu đã ngủ ngon
trong khi bà cụ vẫn trầm ngâm ngồi bên bếp. Tuổi già thường mất ngủ. Bếp lửa vẫn
bắt cháy, khó bùng to lên, song cũng không lụi tàn vì bà cụ còn ngồi cạnh bếp.
Bóng đôi bàn tay già khẳng khiu hơ bên lửa bếp in lên làm gương mặt bà thêm tối
tăm, đôi mắt sâu như hai lỗ giếng chứa đầy khổ đau của một kiếp người chưa có một
ngày mát mặt. Bà ngước lên nhìn về phía giường Liêu ngủ, thấy chưa đành tâm một
điều gì đó, lại cời thêm than hồng ở bếp cho vào nồi sưởi cho Liêu, rồi đi che
lại cửa cho thêm kín gió…
3
Ngày hôm sau,
Liêu cắm đầu đi miết chỉ nghỉ trưa lại bên một gốc cây ven đường, mở nắm cơm bà
cụ gói cho, có ít dưa chua, ăn xong lại lên đường, đến chiều thì tới Phong Nha,
một làng ven chân núi Trường Sơn và gặp đơn vị tại đó. Theo kế hoạch tiến quân
vào Đông - Xuân của trên, đơn vị của
Liêu đã băng Trường Sơn được một ngày, đêm nay đang trú quân bên một con khe giữa
rừng. Chiến sĩ ngủ ngon dưới mái lán lợp vải bạt, vải nhựa, hoặc lá chuối rừng
sau một ngày hành quân đường rừng, trèo đèo, lội suối mệt nhọc, vất vả.
Đêm nặng nề đè
xuống khe rừng, lũng núi. Đó đây mỗi lần đều được đốt một đống lửa to ở ngoài cửa
vừa chống thú rừng vừa xua tan khí lạnh. Xa xa vọng đến tiếng mang lác, báo gầm,
muốn nói cho con người hay rằng. Đêm ở rừng còn nhiều bí hiểm.
Ngoài hai người
trực gác đầu và cuối địa điểm đóng quân, đêm nay chỉ có một mình Liêu trằn trọc
không sao nhắm mắt ngủ được, tình cảm đang bị dày vò. Đã mấy lần anh nằm, lẩm
nhẩm đếm từ một trở đi, ước đến con số hàng vạn hàng vạn mà vẫn không chợp mắt
được một lúc. Liêu cũng cần ngủ để lấy sức cho chặng đường dài theo chiến dịch.
Song, óc nghĩ như vậy mà lòng lại dằn vặt hướng khác. Anh bèn rơi khỏi trấn thủ
tới ngồi bên bếp lửa. Chỉ còn có ngọn lửa leo heo cháy bò ra quanh mấy gốc củi,
đủ rọi một làn ánh sáng mỏng vào khuôn mặt phờ phạc, trầm ngâm của Liêu. Một
làn gió hút theo khe núi làm ngọn lửa lay động rung cái bóng của Liêu in lên mấy
bức màn màu cỏ úa phía sau, màn cũng đang gieo gió phập phồng trông chẳng khác
gì những tấm mạng nhện khổng lồ.
Bất giác Liêu thở
dài… Anh vẫn đang nghĩ tới Hoa. “Vô lẽ một người con gái nết na, dễ thương như
vậy lại là kẻ bạc tình” Liêu nhìn
vào những vò củi nổ lách tách, ngỡ bàn tay ai đang búng cho tàn lửa bay lên đẹp
tựa bụi vàng. Phải chăng lúc này Liêu đang yêu, càng da diết với “kẻ bạc tình” ấy
hơn bao giờ hết. Tối hôm kia, khi Liêu vừa theo kịp đơn vị ở Phong Nha, chừng
như thấy anh có vẻ buồn, chính trị viên Xuân có hỏi chuyện. Liêu cũng đã tâm sự
sơ sơ với Xuân về mảnh tình riêng của mình. Chính trị viên chẳng những không
thông cảm mà còn ném ra một câu: “Ôi dào…con gái ngày nay, thay tình yêu như
thay áo lót đừng dại mà thủy chung với nó, ông ạ… “Liêu đã buồn lại thêm bực
“đúng là một gã thối mồm”. Dẫu sao Liêu cũng không thể nghĩ xấu về Hoa được”. Hẳn
rằng cô ta đã lấy chồng bởi vậy mới không hề thư từ gì cho mình từ đấy. Song…
có thể do thế này, bởi thế nọ, cảnh đời thiếu gì cảnh éo le…”
Liêu đưa mắt
nhìn lên những ngọn núi thuộc đỉnh Trường Sơn đen ngòm, cao ngất, từ bi, đứng
trong đêm dài thăm thẳm. Thỉnh thoảng, tiếng một con chim từ quy vọng lại, buồn
đến xé ruột! Con suối lây buồn cũng đang năng nỉ, tỉ tê. Chỉ có mấy con rái cá
là không biết buồn, cũng không ngủ, bơi lội bì bà bì bõm suốt đêm. “Tình yêu,
mình vội dính vào làm gì để cho con người ta phải điên đảo thế này!”
Liêu ném cả điếu
thuốc chưa cháy hết nửa trên tay vào bếp, tự trách mình: “Người đã lấy chồng rồi
mình còn ngồi mà nghĩ ngợi vớ vẩn!” Liêu đưa tay cởi than, nhóm lại củi cho bếp
lửa cháy bùng lên.
Một trận gió lùa
từ đâu tới, khí núi cũng lùa theo lạnh buốt người. Lá rừng trút theo gió ào ào.
Mưa ngàn ập đổ đến. Mưa như bưng nước mà trút. Giấc ngủ của các chiến sĩ đành
phải bỏ dở. Họ vùng cả dậy, xếp vội chăn màn, ngồi ôm súng, tựa lưng vào nhau,
lắng theo những giọt nước dột từ mái lán, chảy róc rách vào cổ áo. Giữa lúc
này, các chiến sĩ lại thấy rất cần đến tiếng cười reo, hò hát để chống đỡ, trấn
áp cảnh gian khổ đang đến. Còn Liêu, anh đã dẹp ngay được mọi suy nghĩ tản mạn,
vội khoác áo vải bạt, tay cầm đèn bin đi qua từng chiến sĩ, xem xét tình hình bảo
quản vũ khí và cơm gạo của đơn vị.
Mưa vẫn trút nước.
Những thân cây già cỗi đổ ầm ầm. Đá vỡ tứ tung trên đỉnh núi. Nếu ai chưa sống
quen với núi rừng gặp cảnh này hẳn sẽ cảm thấy con người chỉ bé nhỏ mong manh
như bọt nước trước thiên nhiên. Chỉ cần một cành cây khô rơi xuống cũng đủ đập
nát, giết chết con người. Mưa càng lâu càng lo nước suối đã nhanh chóng dềnh
lên ngập mấy cấp đá.
Liêu có hay được
rằng cũng trong lúc mưa bão này bên kia núi, Hoa đang sống như anh giữa các
đoàn dân công, dễ thường còn thiếu thốn nhiều lần hơn so với bộ đội, chỉ có áo
tơi, nón lá thi gan với trời đất, đâu có quần áo, chiếu chăn đủ ấm.
Hoa và Thìn, hai
cô gái trong đoàn dân công Tuyên Hóa đang xung phong đứng giữa mưa, lấy tơi của
mình căng ra che chở, bảo vệ bếp lửa, chờ hết mưa là anh chị em có lửa vào sưởi
ngay, sáng ngày mai khỏi vất vả nhóm bếp. Mưa ào ào gội lên đầu hai cô gái, nước
theo tóc chảy thành dòng xuống lưng như suối. Thế mà, qua mưa gió, họ vẫn trò
chuyện được với nhau.
Hoa ghé sát tai
Thìn nói rõ to:
- Giá mà, Tân
không bị thương ở tay thì cũng đi phục vụ chuyến này với bọn mình, Thìn nhỉ!
Thìn cũng hỏi thật
to vào tai Hoa:
- Cả hai vợ chồng
cùng một khóa dân công?
- Ừ nhỉ.
Họ cười với nhau
giữa mưa đêm.
Sau đó, chừng cảm
thông được với tâm tư bạn, Thìn kiếm lời động viên Hoa:
- Chúng tôi đành
chịu vậy. Còn chị - Thìn đổi giọng – chuyến này thế nào cũng gặp được anh Liêu.
Chà, anh chị cùng gặp nhau tại mặt trận mới đẹp, làm sao! Tha hồ mà tâm sự nhé.
Giá được “tuyên bố lý do” tại mặt trận mới thích, chẳng ai bằng.
Hoa sung sướng:
- Biết đâu đấy…