Lời nguyền Lỗ Ban (Tập 1) - Chương 6 - Phần 2
Chương 6.2 ĐÁ TAM THÁNH
Phong thủy học có phân chia thành
dương trạch và âm trạch*. Những người mong muốn nhà hưng tộc vượng đều rất chú
trọng đến phong thủy âm trạch, tìm đủ mọi phương cách để tìm ra huyệt tốt tàng
phong tụ khí, hiện long ngọa hổ để đặt mộ phần cho tổ tiên. Nhưng kì thực,
phong thủy dương trạch lại có ảnh hưởng lớn hơn đối với vận trình phúc họa. Mặt
khác bản thân dương trạch, từ môi trường địa điểm, bố cục cấu tạo đều có liên
quan mật thiết với tâm sinh lí của người sống trong đó. Bởi vậy thời xưa, những
nhà phú quý biết tính toán lâu dài đều lựa chọn những nơi giao thông thuận
tiện, gần dòng nước chảy, dựa nơi tươi tốt để xây dựng dương trạch. Hơn nữa,
trong quá trình xây dựng, còn phải bố trí bảo vật trấn trạch tại huyệt nhãn
phong thủy.
*
Dương trạch tức nhà cửa của người sống, âm trạch tức mộ phần của người chết.
Nhưng tục ngữ có câu “phong thủy luân
lưu chuyển,” phong thủy không phải bất biến mà vẫn có thể biến đổi. Ví dụ như
câu “dựa nơi tươi tốt,” nhà ở dựa vào núi non, rừng cây, nhưng bản thân cây cối
cũng có sự biến đổi tốt tươi khô héo theo bốn mùa. Bảo vật trấn trạch dù có tốt
đến mức nào, thì sức mạnh bảo hộ từ khí may mắn của nó rồi cũng sẽ suy yếu. Bảo
vật thông thường đều là một trăm năm khí lành phấn phát, giúp nhà cửa và người
nhà thịnh vượng; một trăm năm khí lành bình hoà, đem lại gia cảnh bình thường,
không giàu cũng không đói khổ; lại một trăm năm khí lành suy kiệt lúc này, bảo
vật cần phải hấp thụ tinh hoa của nhật nguyệt thiên địa, nó đã không còn tác
dụng phù hộ nữa. Dân gian có câu “ai giàu ba họ,” chính bởi nguyên do này.
Lỗ Nhất Khí bước xuống hầm theo
những bậc thang lát bằng gạch xanh. Càng đi sâu xuống dưới, làn khí tía sinh
động tràn trề khi nãy lại càng mờ nhạt. Dưới đáy hầm có gì, cậu không hề biết,
cậu chỉ cảm nhận một cách rõ nét, làn khí tía sôi nổi kia đang tỏa ra từ một
tảng đá lớn đen tuyền.
Tảng đá phải lớn bằng một chiếc
giường, mặt phía trên rất bằng phẳng. Lỗ Nhất Khí bất giác cảm thấy tảng đá sao
mà thân quen ấm áp, đó chính là xuất phát điểm của cậu, cũng là nơi trở về của
cậu, giống hệt như ngôi nhà cũ trong mơ. Cậu mơ hồ cảm thấy kiếp trước cậu là
một tảng đá, cậu chính là một góc rơi ra từ tảng đá.
Lỗ Nhất Khí đi thẳng đến đó,
không một chút trù trừ; không một chút do dự. Trong tâm khảm cậu trào dâng một
cảm giác yêu thương và hưng phấn khó diễn tả thành lời, cậu vươn đôi tay ra,
khao khát được vuốt ve, chờ mong được ôm ấp.
Những ngón tay của cậu khẽ chạm
lên tảng đá, rất nâng niu, rất dịu dàng, tựa như đang vuốt ve cơ thể của người
yêu. Cậu cảm nhận rõ sự láng mượt, mịn màng dưới những đầu ngón tay, thế nhưng
bề mặt tảng đá lại không hề nhẵn nhụi, mà đầy những đường vân lồi lõm. Những
đường vân rất thân quen như đã từng gặp gỡ, trông giống chữ viết, cũng giống
hình vẽ, dường như chúng đang muốn nói với cậu một điều gì.
Những ngón tay cậu vẫn tiếp tục
vuốt ve, mơn trớn, cậu từ từ áp sát khuôn mặt mình lên tảng đá, trong chớp mắt,
cậu cảm thấy những chữ viết và họa tiết trong trí não mình đang nhảy múa và
xoay tròn, những thứ cậu chưa hiểu, chưa biết, chưa thấu tỏ đang cất giữ trong kí
ức bỗng nhiên tụ lại một chỗ. Và một bức tranh như trải ra trước mắt, với núi
non trập trùng, rừng rậm đồng xanh, một dòng sông cuộn chảy, bên bờ liễu rủ
thướt tha. Ẩn hiện như có ba người tóc búi, trang phục cổ xưa ngồi xếp bằng
trên phiến đá vuông rộng lớn, khoa tay múa chân, chỉ vào núi sông trời đất,
đang bàn luận chuyện gì.
Cậu bất giác giật mình, nhấc
khuôn mặt khỏi tảng đá. Trước mắt cậu vẫn là làn khí tía mờ mờ tỏa ra từ khối
đá đen tuyền, ảo ảnh vừa qua biến mất không tăm tích. Nhưng đối với cậu, ảo ảnh
đó sao mà chân thực, giống như xem một bức tranh, như đọc một cuốn sách, như
ngắm qua khung cửa sổ. Cậu lại vô thức áp mặt vào tảng đá. Ảo ảnh lại tiếp tục
hiện về. Nhưng lần nay, cậu không vội vã rời đi, trong tâm khảm cậu tràn đầy sự
hiếu kì và ngưỡng mộ đối với cảnh tượng trong ảo ảnh, trong cậu dấy lên một
khao khát mãnh liệt muốn dung hòa vao tảng đá, và tảng đá dường như cũng tỏa ra
một sức hút, lôi cuốn cậu, dung nạp cậu.
Lỗ Nhất Khí lại rời khỏi tảng đá,
lùi về sau một bước dài. Lúc này, đôi mắt cậu bỗng trở nên mông lung, như không
thấy; vẻ mặt cậu ngẩn ngơ, không vui không buồn, không mừng không giận. Cậu từ
từ trút bỏ toàn bộ quần áo trên người, nguyên sơ như một đứa trẻ sơ sinh, bước
về phía tảng đá. Cậu nằm sấp lên đá, cơ kể cuộn tròn lại trong bộ dạng của một
bào thai.
Trong khoảnh khắc này, tư duy của
cậu hoàn toàn biến mất, trong trí não cậu chỉ còn vô số những văn tự và hình vẽ
đang nhảy múa và xoay tròn, có thứ là ở trên mặt tảng đá, có thứ lại ở trên
những phiến đá, những đồ ngọc cổ còn lưu trong kí ức cua cậu. Cậu không còn cảm
thấy cái lạnh tê tái của buổi đầu đông, mà thay vào đó là hơi ấm tựa như tỏa ra
từ cơ thể mẹ. Giờ đây, cậu chính là một bào thai quay trở về trong cơ thể mẹ,
để cảm nhận về một thế giới khác mà cơ thể mẹ mang lại…
Hai nghìn bốn trăm năm về trước,
tại nước Lỗ có một người thợ mộc tên là Công Thâu Ban. Ông là một thợ mộc tài
giỏi có tấm lòng nhân hậu, thông minh tuyệt đỉnh. Ông đi khắp thiên hạ, xây nhà
bắc cầu, làm đường dựng miếu. Ông thường tìm gặp những thợ khéo cao nhân, cầu
học kĩ nghệ hơn người. Nhưng dù đi đến nơi đâu, sau ông lúc nào cũng có một vị
đạo nhân, không quản ngày đêm tay đều không rời bút, nhưng chỉ có bút mà không
có thẻ tre, cả ngày viết vạch lên không trung, không rõ là viết cái gì.
Công Thâu Ban và đạo nhân không
hề quen biết, ông cũng không rõ đạo nhân đi theo mình từ lúc nào. Đạo nhân hình
như không biết nói, chưa bao giờ hé với Công Thâu Ban một lời. Công Thâu Ban
bản tính nhân hậu, vốn rất kính trọng những người tu hành xuất thế, mỗi lần
nghỉ tay ăn cơm đều mời đạo nhân ngồi cùng bàn dùng bữa, lại nhường ông ta ăn
trước. Ngay cả gia chủ mời dùng cơm, hay bày tiệc khởi công, khánh thành, ông
cũng đều nhường đạo nhân ngồi ghế trên. Đạo nhân đi theo Công Thâu Ban đã tròn
ba năm, đệ tử của ông đều gọi ông ta là Bút Đạo Nhân.
Vào năm 448 trước Công nguyên, Sở
Vương phát binh tấn công nước Tống, mời Công Thâu Ban tới nước Sở chế tạo máy
móc công thành. Tuy không muốn, song Công Thâu Ban không thể cự tuyệt Sở Vương.
Khi đó, thủy tổ của Mặc gia là Mặc Địch bất chấp nguy hiểm tính mạng, đã tới
nước Sở khuyên Sở Vương ngừng chiến, nhưng Sở Vương không nghe theo. Mặc Địch
bèn nói, Sở Vương sẽ không thể công phá được nước Tống, vì ông đã phái Cầm Hoạt
Li* dẫn ba trăm đệ tử của Mặc môn mang theo công cụ, máy móc giữ thành do ông
thiết kế và chế tạo, đến trợ giúp nước Tống giữ thành. Sở Vương không tin công
cụ giữ thành của Mặc Địch có thể địch lại công cụ đánh thành của Công Thâu Ban,
nên đã cho hai người thi thố tài nghệ. Công Thâu Ban đã sử dụng nhiều loại công
cụ, máy móc và phương pháp để tiến hành công thành chín lần (cửu công), nhưng
đều bị Mặc Địch lần lượt hóa giải, đánh lui chín lần (cửu cự). Sở Vương thấy
máy móc của Công Thâu Ban quả nhiên không thể công phá được sự phòng ngự của
Mặc Địch, bèn từ bỏ kế hoạch tấn công nước Tống.
*
Cầm Hoạt là một họ cổ xưa của người Hoa Hạ. Cầm Hoạt Li là người nước Ngụy thời
Xuân Thu, tương truyền ông là đệ tử thân tín nhất của Mặc Tử, tự là Thận Tử.
Con cháu ông lấy tên tự của ông làm họ, hình thành nên họ Thận.
Khi Mặc Địch rời khỏi cung điện
của Sở Vương, Công Thâu Ban đã đợi sẵn bên ngoài. Ông mời Mặc Địch tới một nơi
vắng vẻ, bày ra chín biến pháp công thành. Mặc Địch xem xong vô cùng kinh ngạc.
Chín biến pháp này ông đều không có cách nào phá giải. Công Thâu Ban lúc này
mới nói rằng:
- Chín biến pháp này không phải
do tôi nghĩ ra, tôi sẽ dẫn ông tới gặp người đặt ra cửu biến!
Mặc Địch nghe vậy, hăm hở đi theo
Công Thâu Ban.
Họ cùng đi tới bên bờ sông. Thấp
thoáng xa xa núi non trập trùng, trước mắt đồng xanh bát ngát, rừng rậm um tùm.
Trên một tảng đá lớn đen tuyền dưới hàng liễu rủ, có một người ngồi xếp bằng,
người đó chính là Bút Đạo Nhân.
Bút Đạo Nhân mỉm cười, ra hiệu
cho Công Thâu Ban và Mặc Địch cùng ngồi lên tảng đá, sau đó lấy ra một cuộn vải
lụa, trải ra trên mặt đá để hai người cùng xem…
Thời gian vụt trôi, bất giác đã
qua ba ngày ba đêm. Đạo nhân cuộn bức vải lụa lại, lấy bút viết xuống mặt đá
hai chữ “luận đắc.” Mặc Địch bèn nói trước, ông thuật lại một lượt những điều
đã học được từ cuộn sách lụa trong ba ngày qua, còn chỗ nào nghi ngờ thắc mắc,
Bút Đạo Nhân bèn viết lên mặt đá để chỉ điểm thêm. Sau đó, tới lượt Công Thâu
Ban thuật lại những điều đã học, để Bút Đạo Nhân tiếp tục giảng giải. Và như
vậy, một ngày một đêm lại tiếp tục trôi qua.
Vào sáng sớm ngày thứ năm, gió
mát sương trong, khói mờ vấn vít. Bút Đạo Nhân lấy ra một tấm thẻ ngọc, tám
chiếc hộp ngọc, sau đó miệng tiên hé mở, sang sảng cất lời:
- Thuở xưa vua Vũ chia chín châu,
định cương giới, cương giới này không phải là cương giới Thần Châu Nhất nguyên
đại thống. Đó là bởi vì trong hình Nhất nguyên có tám huyệt nhãn cực hung ở tám
nơi trên thế gian, phá vỡ cách cục Nhất nguyên đại thống. Trước đây trong sự
kiện diệt Trụ phong thần, các tiên gia đã phạm vào ách sát phạt huyết quang, hủy
hoại thiện quả chân tu hàng trăm hàng nghìn năm. Bởi vậy, sự nghiệp Bát bảo
định phàm cương cần phải dựa vào sự nỗ lực của thánh hiền trong cõi phàm. Ta
quan sát trong thiên hạ, có đủ tấm lòng bác ái và kĩ thuật xảo diệu, chỉ có hai
vị đây. Đại sự tạo phúc thế gian lần này, hai vị nhất định không được từ chối!
Đạo nhân lại chỉ vào tám hộp
ngọc, nói:
- Đây là tám bảo vật của trời,
mang theo tám đạo tiên chỉ Ngũ hành Tam tài, tức là Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ,
Thiên, Địa, Nhân. Ở gần tám huyệt nhãn cực hung trên thế gian đều có một vùng
đất cực kì tốt đẹp khống chế. Hai vị cần phải xây dựng những công trình kiên cố
tại những vùng đất may mắn kia để cất giữ Bát bảo. Nếu hợp với ý trời lòng
người, bảo vật trải qua một chu kì số Bát cực, sẽ tích lũy đủ tinh hoa của nhật
nguyệt thiên địa, tràn đầy muôn nghìn khí tượng của nhân gian. Lúc đó hãy đem
Bát bảo ném vào các huyệt nhãn cực hung, cương giới của nhân gian sẽ vững bền
mãi mãi.
- Thế nào là chu kì Bát cực? –
Mặc Địch hỏi.
- Trăm năm hưng, trăm năm bình,
trăm năm ẩn, ba trăm năm một vòng, Bát cực là tám vòng chu kì.
- Vậy chúng tôi làm sao có thể
thực hiện được sự việc của mấy nghìn năm sau? – Công Thâu Ban cũng hỏi.
- Vậy thì phải trông vào con cháu
đời sau của hai vị có thể đời đời kế thừa nghề khéo, thế thế sinh bậc hiền
nhân. Nhưng sự đời đến thần tiên cũng khó lường, ý trời vẫn phải nhờ sức người
lo liệu. Một số sự việc vẫn phải xem người đời tạo tác.
Đạo nhân đẩy ba hộp ngọc tới
trước mặt Mặc Địch, đẩy năm hộp còn lại tới trước mặt Công Thâu Ban, nói tiếp:
- Trong bốn ngày bốn đêm vừa qua,
hai vị đều đã học được những phần cơ xảo* khác nhau. Công Thâu Ban xảo nhiều
hơn cơ, ông hãy định năm bảo Thiên, Địa, Nhân, Kim, Mộc, tại hướng đông bắc,
đông, đông nam, nam, tây nam. Ông hãy ghi nhớ cảnh tượng, địa hình của năm
huyệt nhãn trên tấm thẻ ngọc này. Còn Mặc Địch cơ nhiều hơn xảo, ông hãy định
ba bảo Hoả, Thủy, Thổ, tại hướng tây, tây bắc, bắc. Ba nơi này khó khăn hơn
nữa, phải vượt hiểm phá nguy, diệt yêu trừ quái. Mặc gia nhiều dũng sĩ hiệp
nghĩa, ông định ba bảo này cũng là hợp với ý trời. Ông hãy ghi nhớ cảnh tượng,
địa hĩnh của ba huyệt đó.
*
Cơ tức là thiên cơ, xảo tức là khéo léo.
Đợi Công Thâu Ban và Mặc Địch ghi
nhớ xong những nội dung cần thiết trên thẻ ngọc, đạo nhân cẩn thận gói tấm thẻ
ngay ngắn vào trong cuộn lụa, sau đó điểm vạch lên tảng đá một hồi. Từ trên
tảng đá bỗng mở ra một ngăn rỗng. Đạo nhân cất cuộn lụa và thẻ ngọc vào trong
ngăn đá, sau đó đóng kín lại. Tảng đá liền lại như cũ, không hề thấy một khe
hở.
Thực hiện xong việc đó, Bút Đạo
Nhân nhìn hai người, cười mỉm rồi nói tiếp:
- Hôm nay, ba người chúng ta cùng
ngồi trên tảng đá này để bàn về đại cục hàng đầu của Tam giới trong vòng mấy
nghìn năm, tảng đá này vì thế mà cũng được lây phúc trạch. Người đời sau sẽ gọi
nó là đá Tam Thánh. Đợi đến khi số Bát cực đủ vòng, tự khắc đá vỡ trời kinh.
Bần đạo còn có vài câu kệ muốn tặng hai vị, hoặc giả có thể giúp cho con cháu
suốt mấy nghìn năm không thay đổi di nguyện của tổ tiên!
Đạo nhân trải tấm lụa trắng, viết
lên mấy chữ: “Bảy phần thiên cơ ba phần khéo, giữ thì một phương, trao thì
thiên hạ,” rồi giao cho Mặc Địch, nói:
- Con cháu Mặc môn của ông sau
này khó mà bỏ được hiệp nghĩa sát phạt, công danh phú quý, song cũng có người
từ bỏ để thành ẩn sĩ, hiền nhân!
Tiếp đến lại viết: “Ba phần thiên
cơ ít người hiểu, gieo báu nhiều, lo lắng ít; Bảy phần nghề khéo truyền nhân
gian, giúp thế nhân, nuôi già trẻ,” rồi giao cho Công Thâu Ban, nói:
- Con cháu Ban môn tuy không có
địa vị cao quý, song đời đời kiếp kiếp cơm no áo ấm, tài nghệ nức tiếng thiên
hạ.
Cuối cùng, Bút Đạo Nhân tiện tay
vẽ một vòng tròn trên tảng đá, một vòng tròn vành vạnh. Không cần đến khuôn
thước mà vẫn định được tròn vuông, không phải là người có cái tâm sáng trong
muôn dặm, không nhiễm chút bụi trần, thì không thể làm được.
- Mong rằng thực sự có thể tám
phương tám định, mong rằng cương giới cõi phàm có thể tròn vẹn như hình!
Đạo nhân nói xong, ung dung lướt
đi, chốc lát đã chìm khuất trong khói sương vấn vít. Trên tảng đá lúc này chỉ
còn lại hai người Mặc Địch và Công Thâu Ban, cũng dần dần bị sương mờ phủ kín…
Lỗ Nhất Khí choàng tỉnh. Cậu
không biết thời gian đã trôi qua bao lâu, cậu vừa trải qua một giấc mơ kì lạ.
Lúc này, ý thức của cậu vẫn mơ
màng trong mộng, chưa kịp hồi tỉnh. Cậu chợt phát hiện có một đường vân hình
tròn trên mặt đá phía trước, tròn vành vạnh, giống hệt như vòng tròn mà đạo
nhân đã vẽ trong mơ. Trong vòng tròn đó, đường vân ngang dọc, lên xuống nhấp
nhô, tựa như một tấm địa đồ. Tiếp đó, cậu lại phát giác, dưới tay cậu hình như
chính là vị trí mà đạo nhân đã mở ra ngăn đá. Các ngón tay cậu bắt đầu điểm,
vạch một cách vô thức. Kì thực trong giấc mơ khi nãy, cậu không chú ý tới động
tác điểm vạch của đạo nhân. Song dường như cậu bẩm sinh đã biết, các ngón tay
của cậu cứ thế tự nhiên di chuyển. Và ngăn đá từ từ mở ra không một tiếng động.
Bỗng chốc, cậu cảm thấy làn khí tía đang lưu chuyển càng trào lên cuồn cuộn,
mạnh mẽ và linh hoạt khác thường. Cậu đứng dậy, vươn cổ vào bên trong ngăn đá.
Cậu thấy, trong đó có một gói lụa. Đúng vậy, đó chính là cái gói mà vị đạo nhân
trong mơ đã cất vào.
Lỗ Nhất Khí khẽ khàng đưa tay
xuống, thận trọng nhấc gói lụa ra. Trong khoảnh khắc đó, một sứ mệnh thiên cổ
bỗng chốc đè lên vai cậu, nặng trĩu.
Cuộn lụa không phải tơ, củng
không phải da, không rõ làm bằng chất liệu gì. Cậu đặt nó lên trên tảng đá, rồi
từ từ trải ra. Tuy trong hầm tối đen, song cậu vẫn có thể nhờ vào ánh linh
quang đỏ tía bao trùm, nhìn thấy rõ ràng trên cuộn vải lụa đã hơi ố vàng chi
chít những chữ Triện rất nhỏ. Cuộn lụa đã trải ra hết, cậu nhìn thấy trên cùng
bên góc phải có ba chữ triện lớn hơn, Lỗ Nhất Khí đọc được ba chữ này, đó là
“Cơ xảo tập.” Phía dưới có đúng một hàng chữ riêng rẽ, viết rằng: “Biết được
Tam giới biến hóa đều có quy luật, gọi là cơ; chế ra máy móc thần kì đổi thay
quy luật, gọi là xảo. Có đủ cơ xảo, tâm, khí, lực, trí đều đạt tới chí thánh;
như vậy có thể ban phúc cứu thế, muôn đời thành tựu.” Trong cuộn lụa vàng nhạt,
còn có một tấm thẻ ngọc mỡ cừu*. Trên tấm thẻ ngọc cũng khắc dày đặc những chữ
nhỏ li ti, tự thể càng cổ kính, nhìn qua không rõ là chữ Kim văn hay chữ Giáp
cốt.
*
Ngọc mỡ cừu là một loại ngọc mềm cực phẩm, có màu trắng thuần khiết như mỡ cừu.
Lỗ Nhất Khí bỗng cảm thấy toàn
thân lạnh buốt, lúc cậu mới ý thức được rằng mình đang không một vải che thân.
Cậu bèn trượt xuống tảng đá, mặc quần áo vào, gói ghém “Cơ xảo tập” và tấm thẻ
ngọc lại như cũ, bỏ vào trong túi của lần áo trong cùng. Giờ đây, cậu đang sốt
ruột muốn trở lên. Cậu không rõ mình đã ở trong hầm bao lâu, và trên kia liệu
có xảy ra chuyện gì bất trắc.
Lỗ Nhất Khí vừa bước lên bậc
thang, chợt sau lưng vang lên một tiếng nổ lớn. Ngoảnh đầu nhìn lại, thì ra
tảng đá Tam Thánh đã tự nhiên vỡ tung, chỉ còn lại một đống đá nát vụn. Vầng
hào quang đỏ tía trong chớp mắt cũng tan biến sạch không. Lỗ Nhất Khí thầm
nghĩ, quả nhiên ứng với lời nói “đá vỡ” của đạo nhân trong giấc mộng, nhưng
không biết “trời kinh” sẽ ứng với điều gì.
Lỗ Nhất Khí hết sức thận trọng
nhô lên khỏi miệng hầm. Cậu cực kì cảnh giác, cơ bắp hai bên sống lưng căng
thẳng, lực dồn vào bắp chân và mũi chân, tựa như một con báo đang nép người
rình mồi, sẵn sàng phóng vụt ra, hoặc bỏ chạy trong nháy mắt.
Một bầu im lặng nặng nề bao trùm
khắp gian phòng chính, vài ngọn lửa nến vẫn lay lắt bập bùng. Cửa phòng mở
toang, không thấy Lỗ Thịnh Hiếu đâu cả. Lỗ Nhất Khí không lên tiếng, lặng lẽ
quan sát xung quanh, căn phòng liệu có gì xáo trộn. Cậu từ từ tiến về phía cửa,
vừa bước qua bậu cửa, liền nhìn thấy Lỗ Thịnh Hiếu. Ông đang đứng phía dưới bậc
tam cấp của phòng chính, quay lưng về phía cửa, hoa tuyết đã phủ kín đỉnh đầu
và hai vai ông. Dường như ông không hề cảm thấy lạnh trong chiếc áo mỏng manh,
dù đang đứng giữa sân tuyết giá.
Cậu khẽ gọi một tiếng:
- Bác ơi!
Lỗ Thịnh Hiếu không hề phản ứng,
vẫn đứng trơ trơ không nhúc nhích. Lỗ Nhất Khí không gọi nữa, cũng không bước
ra, mà từ từ lùi lại, lùi vào bên trong bậu cửa. Sau đó, cậu dang rộng hai tay,
nắm lấy hai mép cánh cửa hai bên, rồi cũng đứng im bất động, quan sát Lỗ Thịnh
Hiếu.
Trước khi Lỗ Nhất Khí bước vào
nhà, Quỷ Nhãn Tam đã chỉ về phía Lỗ Thịnh Hiếu và ra dấu với cậu. Đến lần thứ
hai cậu mới đoán ra, Quỷ Nhãn Tam muốn nói hai tiếng: “Cẩn thận.” Bởi vậy, cậu
cũng mấp máy đáp lại Quỷ Nhãn Tam hai chữ: “Biết rồi.” Bác cậu quả thực có
nhiều hành động rất bất thường, Lỗ Nhất Khí đã phát hiện ra từ trước, song cậu
chỉ nghĩ rằng có lẽ ông đã luyện thứ công phu gì đó mà tẩu hỏa nhập ma.
Cơ thể Lỗ Thịnh Hiếu bắt đầu run
lên bần bật, càng lúc càng dữ dội, khiến lớp tuyết đọng trên đỉnh đầu và hai
vai bị hất rơi lả tả. Trong cơn run rẩy, ông từ từ quay người lại, từng chút
một. Và Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy một khuôn mặt, một khuôn mặt đau đớn, khủng
khiếp, méo mó biến dạng, sắc mặt xanh lét, hai mắt đỏ ngầu, song ánh nhìn lại
vô hồn đờ đẫn, không rõ là đang nhìn cái gì. Các cơ trên mặt rung lên bần bật
và co giật liên hồi, kèm theo đó là những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu lăn xuống
hai gò má. Ông bắt đầu rảo bước, đi thẳng vào phòng. Bước chân ông dần dần áp
sát, Lỗ Nhất Khí cũng từ từ khép hai cánh cửa lại.
Ánh mắt vô hồn của Lỗ Thịnh Hiếu
đột nhiên dại hẳn đi, hai con mắt đỏ ngầu nhìn chòng chọc vào Lỗ Nhất Khí.
Trong ánh mắt đó, cậu cảm nhận thấy sự điên cuồng thú tính và sát khí khát máu.
Lỗ Thịnh Hiếu thình lình chạy vụt
lên như một tia chớp, đôi bàn tay rắn chắc vạm vỡ chụp thẳng về phía Lỗ Nhất
Khí. Ánh mắt của ông khiến Lỗ Nhất Khí kinh ngạc tột độ, nên động tác của cậu
cũng khựng lại theo. Đến khi đôi bàn tay to khỏe của Lỗ Thịnh Hiếu sắp vồ đến
trước mặt, cậu mới bừng tỉnh, vội vã sập cửa lại. Song đã muộn mất rồi, hai
cánh cửa đã không thể khép lại được nữa, hai tay của Lỗ Thịnh Hiếu đã kẹp giữa
hai cánh cửa.
Lỗ Nhất Khí dồn sức ghì chặt lấy
cánh cửa, cánh cửa đang bị đẩy vào với một lực đạo cực lớn. Hai cánh tay đang
kẹp giữa khe cửa không ngừng khua khoắng, vồ chụp. Chúng phải tìm được một thứ
gì đó để phát tiết; chúng muốn túm chặt, muốn vò nát, muốn xé vụn.
Hai cánh cửa rung lên dữ dội, trụ
cửa phát ra những tiếng cót két rợn người. Lỗ Thịnh Hiếu chợt gầm lên một tiếng
quái dị. Tiếng gầm vừa vang lên, Lỗ Nhất Khí lập tức bị một luồng lực đạo rất
mạnh đẩy văng vào trong, ngã bật về phía sau đến bốn năm bước. Trục cửa gãy
rời, hai cánh cửa đổ đánh rầm xuống hai bên. Lỗ Thịnh Hiếu nhảy xổ vào trong,
lao về phía Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí lăn tròn trên đất, né vội sang một bên. Lỗ
Thịnh Hiếu xông tới trước bàn Bát tiên, vung tay tung chiếc bàn, rồi xoay
người, tiếp tục lao về phía Lỗ Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí vừa kịp đứng dậy, tiện tay
nhấc chiếc kỉ trà, chặn Lỗ Thịnh Hiếu lại, nhưng ông vẫn tiếp tục lao đến. Lỗ
Nhất Khí không thể chống đỡ được xung lực đó, hai chân trượt thẳng về phía sau,
cho tới khi va vào góc tường. Cậu chống hai chân vào góc tường, mượn lực để đẩy
trở lại, chặn được Lỗ Thịnh Hiếu.
Hai người tiếp tục giằng co. Từ miệng Lỗ Thịnh Hiếu
liên tục phát ra những tiếng gầm gừ quái dị, hai bàn tay ông liên tục quờ
quạng, rướn về phía Lỗ Nhất Khí, may nhờ chiếc kỉ trà dài hơn tầm với của ông,
nên hai bàn tay chỉ chộp vào khoảng không.
Lỗ Nhất Khí dần dần đuối sức, hai chân tì lên tường
bắt đầu run rẩy, cánh tay cũng không đủ sức để đẩy chiếc kỉ trà, đành phải tì
ngực vào mép bàn, mượn sức của vai và lưng để ngăn cản Lỗ Thịnh Hiếu.
Lỗ Thịnh Hiếu đã thôi không khua khoắng đôi tay một
cách vô ích. Ông cúi đầu xuống một cách cứng nhắc, nhìn vào chân bàn đang chống
trước ngực mình. Hai tay ông đột ngột vung lên chặt mạnh, chân bàn phút chốc
gãy vụn thành mấy mảnh bay tung tóe, bắn lên tường cột, nóc nhà. Lỗ Nhất Khí đột
ngột mất đi điểm tựa, bố nhào về phía trước. Cậu vừa định bước chân lên chống
đỡ thì cổ họng đã bị Lỗ Thịnh Hiếu túm chặt. Sức mạnh từ đôi bàn tay của ông
thật khó tưởng tượng, Lỗ Nhất Khí biết một đôi tay với sức mạnh nhường đó có
thể lấy mạng cậu chỉ trong chốc lát. Cậu chẳng kịp nghĩ ngợi, tiện tay đập ngay
mặt kỉ trà còn cầm trên tay vào cánh tay ông.
Hai bàn tay vẫn không chịu buông, hai cánh tay cũng
không động đậy, trong khi kỉ trà lập tức vỡ tan tành. Lỗ Nhất Khí ném mảnh vỡ
trong tay đi, hai tay chụp lấy cổ tay Lỗ Thịnh Hiếu, cố gắng giằng giật sang
hai bên, song đôi tay không hề nhúc nhích. Lỗ Nhất Khí đành phải giơ chân lên,
tì vào bụng Lỗ Thịnh Hiếu đẩy mạnh.
Đôi tay Lỗ Thịnh Hiếu siết chặt vào cổ cậu, Lỗ Nhất
Khí đã không còn thở nổi, đầu óc trống rỗng, hai mắt hoa lên, hai chân mềm
nhũn, cú tung chân muốn đạp Lỗ Thịnh Hiếu ra đã trở thành động tác co giật
trong cơn hấp hối. Não cậu đã tê liệt, ý thức đã mơ hồ, cậu thấy đôi mắt đỏ
ngầu của Lỗ Thịnh Hiếu mỗi lúc một xa, xa dần, xa dần, cuối cùng biến mất hẳn,
chỉ còn một màu đen thăm thẳm…

