Những chàng trai tháng 12 - Chương 33 - 34

33

“Uầy, mình mà có mấy đồ này chắc
chắn sẽ bán đấu giá được khối tiền đây!” - Spark trầm trồ kinh
ngạc, giữa phòng khách vương giả của ngôi biệt thự của dòng họ Hodge.

Tuần cuối của chúng tôi ở vịnh Folly tràn ngập những bất ngờ. Đầu tiên là lời hứa trả-nợ-vụ-biển-báo của chú Foley, tiếp đến là lời đe doạ của bà McAnsh về một chuyến viếng thăm tới nhà người bảo trợ
cho kỳ nghỉ vừa qua của tụi tôi. Và giờ thì Spark đang hào hứng muốn bán sạch cả đồ đạc và của cải của toà biệt thự lộng lẫy
này: Những bức tượng thiên thần
bằng đồng và đá cẩm thạch, một tấm thảm dệt
bằng tay hình Thánh George
đang cầm giáo chiến đấu với một con rồng to bằng con Henry xấu số, rất nhiều tranh sơn dầu và tranh màu nước, những chiếc bình cổ, đĩa cổ, bát cổ vẽ hoa văn sặc sỡ, cái chặn giấy, đèn chùm, que cời lò sưởi bằng đồng thau, mấy
con mèo nhung bằng bông mắt nạm đá quý và ngọc lục bảo, đồ gỗ trong phòng được phủ khăn lụa hoa đắt
tiền, và một cái thảm chùi chân bình hoa hồng.

Mặc dù hôm nay mới là giữa tuần,
nhưng chúng tôi vẫn diện giày đi lễ ngày Chủ nhật, mặc áo sơ mi trắng, quần
soóc lửng và thắt cà vạt. Sau khi đi qua cánh cổng lớn giăng đầy dây thép gai,
chúng tôi được vị quản gia đưa tiếp tới một khu vườn rộng lớn, trước khi được tiếp đón nồng nhiệt tại cái phòng khách sang trọng này. Tất cả chúng tôi đều ngoan ngoãn làm theo lời dặn của bà McAnsh - trừ Spark.
Cậu ta đang choáng ngợp bởi khối tài sản đồ sộ mà nếu đem đi bán đấu giá
sẽ đủ tiền để trả nợ cho viện St. Roderick và xây thêm một dãy nhà mới. Chỉ cần
một đứa thì thào ra giá là ngay lập tức cậu ta thao thao bất tuyệt với phiên
đấu giá tưởng tượng của mình mặc cho ánh mắt tóe lửa của bà McAnsh đang nhìn chằm chằm cảnh cáo.

Theo lời ba McAnsh thì cuộc viếng thăm tới tư gia họ Hodge là một vinh dự để đời cho tất cả
chúng tôi. Không những chúng tôi sẽ có cơ hội gặp gỡ với người bảo trợ đầy lòng hảo tâm
chưa-bao-giờ-thấy-mặt, cả nhóm còn được nghe Cha Scully
giảng kinh tại chính căn biệt thự này. Nghe nói Quý bà Hodge chua bao giờ bước chân ra khỏi nhà kể từ sau cái chết của chồng mình, trước khi cuộc khủng
hoảng kinh tế kết thúc. Hiện giờ tụi tôi không ở cách xa cánh đồng hoa lupin là mấy, nhưng tự dưng vẫn có cảm giác như bị lạc vào một thế giới hoàn toàn khác. Fido căng thẳng thấy rõ, mặt mũi, chân tay cậu ta cứ cứng đơ ra kể từ lúc bước vào đây. Misty
thì đang nháo nhác quay đầu ngó nghiêng khắp phòng. Trong khi đó, môi trên của Maps đang vểnh ngược
lên, dấu hiệu chứng tỏ cậu ta đang rất ấn tượng với căn phòng này.

Vị quản gia gầy gò có nước da xanh xao vàng vọt vừa mở cửa phòng, hai tay dìu một người phụ nữ thấp bé - bà quả phụ của Thiếu Tướng Henry Hodge. Bà McAnsh ngay lập tức đưa mắt ra hiệu cho chúng tôi đứng dậy.

Trong mắt tôi, người phụ nữ nhỏ
bé này và mấy sợi đăng ten có mối liên kết đặc biệt với nhau. Mặc dù cuộc sống ở St. Roderick của chúng tôi
vô cùng tẻ nhạt và ảm đạm nhưng chúng tôi thường xuyên phải tiếp xúc với đăng
ten và các loại ren trang trí. Áo mặc khi hành lễ của các vị linh mục sẽ trở
nên đẹp hơn nhờ các sợi đăng ten. Những cái áo thụng mà chúng tôi vẫn thường mặc khi đến lượt làm lễ sinh trong các buổi lễ - cũng được đính đăng ten
ở chỗ khuỷu tay áo và xung quanh bắp đùi. Phần lớn chúng đều được dệt ngay tại
phòng thủ công ở St. Roderick.
Giờ đây, quý bà Hodge đang mặc một
chiếc váy dài bằng vải linen
xám. Toàn bộ phần tay áo được may bằng ren đắt tiền. Phần váy bên dướicũng được cầu kì viền đăng ten và điểm xuyết bằng mấy cái cúc vàng. Tóc bà màu trắng muốt, khuôn mặt nhỏ và nhăn nheo như trái táo khô.

Bà McAnsh nắm lấy tay bà và hôn lên chiếc nhẫn kim cương ở ngón áp út, như thể quý bàHodge là nữ giám mục không bằng. Người phụ nữ giàu có lập tức nghiêng đầu sang một bên đầy kiểu cách và mỉm cười chào chúng tôi: “Ah”

Tiếp đó, bà McAnsh ra hiệu cho chúng tôi cúi đầu mỉm cười chào lại một cách lịch sự. Bà gật đầu ra chiều hài lòng khi thấy năm đứa chúng tôi răm rắp làm theo những gì bà đã dặn.

Quý bàHodge vẫn tiếp tục nhìn chúng tôi, mỉm cười dịu dàng nói: “Không phải đám trẻ tất cả đều là con gái sao?”

“Thưa bà, không phải ạ. Chúng không phải là con gái” - bà McAnsh hấp tấp giải thích.

“Thưa bà, tất cả đều là con trai”
- bà quản gia vừa nói vừa giúp bà chủ đeo cái
kính lên mắt - “Năm ngoái có quá nhiều con gái rồi. Nên năm nay là con trai.”

“Ồ, đúng vậy, đúng vậy. Tất cả đều là con trai!”

“Và đều là những đứa trẻ ngoan, thưa bà” - bà McAnsh hớn hở nói, bỏ qua vụ trộm rượu bí ngô của tụi tôi - “Tụi
nhỏ rất chăm chỉ và siêng năng
việc nhà.”

“Lại còn xinh trai nữa” - quý bà Hodge gật gù nhận
xét.

Chẳng cần nhìn cũng biết bốn đứa còn lại cũng đang sửng sốt y như tôi khi nghe thấy hai từ “xinh trai” thốt ra từ miệng người phụ nữ giàu có kia. Chúng tôi mà dễ thương ư? Lọ kem chống nắng của cô Teresa đã làm gì tụi tôi thế này?

“Ta cũng không biết đã bao lâu rồi kể từ lần gần nhất
nhìn thấy một đứa bé trai” – bà Hodge trầm ngâm nói - “Không, có lẽ là không có đứa bé
trai nào ngoài con trai của ta. Stella, không biết giờ nó ra sao rồi?”

“Con trai của bà?”

“Đúng vậy, Stella, một thằng bé rất đáng yêu.” “Thưa bà, ngài Francis
đã mất hồi năm ngoái.” “Ồ, vậy sao?”

“Vâng, thưa bà.”

“Tiếc thật. Tiếc thật.”

Bà lại mỉm cười với chúng tôi.
Tôi có cảm giác bà ấy sẽ vẫn cười tươi như vậy
cho dù năm đứa chúng tôi có bỗng lăn đùng ra chết dưới chân bà đi chăng nữa.

“Kỳ nghỉ của các cháu có thú vị không?” - bà hỏi. “Tất nhiên rồi, thưa bà” - bà McAnsh sốt sắng trả lời thay cho chúng tôi - “Chính nhờ lòng hảo tâm vô bờ
bến của bà. Bọn trẻ đã có một kỳ
nghỉ như trong mơ.”

“Ta rất mừng” - bà Hodge
quay ra nói tiếp với chúng tôi - “Các cháu giờ có thể hưởng thụ cảnh đẹp ở đây. Chứ vào thời của Ngài Henry thì toàn bộ khu
đất này là doanh trại quân đội. Khi đó
mọi người đều sống trong sợ hãi. Stella, hãy dẫn mấy cậu bé này lên căn phòng bí mật của Ngài Henry. Căn phòng vẫn còn nguyên ởđó đúng không?”

“Dạ, vâng, thưa bà.”

“Hãy đưa bọn trẻ lên đó đi, Stella” - bà nói, không quên đế theo câu: “Bọn trẻ thật xinh trai.”

Và thế là chúng tôi lục tục theo bà quản gia đi ra khỏi
phòng.

Mặc dù khá tò mò về người đàn bà bé nhỏ kỳ
lạ này, nhưng chúng tôi rất lấy làm vui sướng khi được thoát ra khỏi căn phòng đó cùng với lời khen ngợi chẳng lấy gì làm hay ho kia. Câu chuyện về việc thung lũng này trước kia từng là một doanh trại quân đội khiến chúng tôi lý giải được tại sao quanh tường nha chăng đầy dây thép
gai. Chúng tôi đi theo bà quản gia lên một cầu thang trải toàn thảm đỏ. Dọc hành lang là
những bức tượng có hố mắt sâu hoắm như đang nhìn chằm chằm theo dõi tụi tôi, trên tường treo la liệt chân dung của những quý ông với vẻ mặt vô cùng nghiêm khắc
và những quý bà ăn mặc diêm dúa, đầu đội mũ lòe xòe. Đi được một lúc thì chúng tôi bắt gặp một cái cầu thang sắt hình xoáy ốc - tại đó, bà quản gia thông
báo rằng tụi tôi sẽ phải tự leo lên đó mà không có bà ấy đi cùng.

Cái nóng của căn phòng kính và mùi ẩm mốc xộc vào mũi chúng tôi, trước cả khi chúng tôi lên tới nơi. Đứa nào đứa nấy mồ hôi nhễ nhại. Tám cái của sổlâu ngày không lau chùi
tạo thành một căn phòng hình bát giác bụi bặm, mạng nhện chăng đầy góc phòng.

Đứng từ trên này nhìn xuống, cảnh vật cũng không có gì khác lạ so với những gì chúng tôi
được chiêm ngưỡng hàng ngày từ trên đồi cao. Nhưng cái cảm giác khi đứng ở
trong căn phòng này thì có khác như thể chúng tôi đang nhìn mọi thứ qua một con
mắt khổng lồ bằng kính. Chỉ có điều không khí trong con mắt này nóng hầm hập
như cái bếp lò, mồ hôi chúng tôi vã ra như tắm. Đột nhiên toàn
thân tụi tôi lạnh toát, khi nghe thấy tiếng cót két trên đầu mình.

Eeee... eeek...

Cả đám ngước vội lên cái trần nhà
gỗ được trang trí bằng rất nhiều hoạ tiết tỉ mỉ. Răng đứa nào đứa nấy va vào nhau lập cập. Tiếng động đó nghe giống như tiếng bước chân của
loài bò sát khổng lồ, có sừng, đang tìm cách cậy trần nhà chui xuống.

Eeee... eeek...

À, chỉ là cái mũi tên ở trên nóc nhà thôi” - Maps trấn an tụi
tôi, ý cậu ấy muốn nói tới cái chong chóng gió mạ vàng ở trên mái nhà.

Ở trên bệ của sổ
là hai cái ống nhòm và một cái
kính viễn vọng bằng đồng thau, bên ngoài bọc da. Maps chộp ngay lấy
cái kính viễn vọng, còn tôi và Spark
mỗi đứa chia nhau một cái ống nhòm. Chúng tôi phải lau đi lớp bụi dày trên
kính trước khi ghé mắt vào xem. Misty tạm hài lòng
với một cái gương chạm trổ công phu, cậu
ta cọ mặt gương vào hai bên quần cho tới khi nó
sáng loáng lên. Tiếp đó cậu ta đi ra phía cửa sổ, giơ gương ra đón lấy ánh nắng Mặt Trời, phản chiếu lên
sườn đồi trước mặt, tạo thành một chuỗi ánh sáng trắng chạy dọc thung lũng, vòng ra tận bãi nước cạn, nơi Socrates đang nhẩn nha
nghịch nước. Những đốm sáng phản chiếu trên mặt nước trông giống như những con
cá màu trắng bạc, làm Socrates
được phen mừng hụt, dùng chân hớt lấy hớt để. Đã lâu rồi tụi tôi mới thấy Misty phá lên cười vui sướng đến như vậy.

Đột nhiên, một chiếc ôtô từ trên đồi lao xuống, phá hỏng cuộc vui của
tụi tôi. Nó dừng lại trước cửa tiệm của cô Teresa. Mặc dù đã cô căng mắt ra nhìn
nhưng chúng tôi vẫn không thể đoán ra bóng người đó là ai.

Fido lại lôi kéo sự chú ý của tụi
tôi trở lại căn phòng kính nhỏ nhắn này bằng một tiếng ồ lên sung sướng khi phát hiện ra vật đang nằm trên chiếc bàn tròn đặt ở giữa phòng. Một tấm bản đồ, mà theo lời Fido thì đó là bản đồ thung lũng. Chúng tôi chỉ tin lời cậu ta khi chuyên gia trong nhóm, Maps, gật gù tán thành.

Trên đó, khu trại bỏ hoang được
đánh dấu rất rõ, từng con đường, từng căn lều được chỉ ra chi tiết. Bên dưới là
dòng chữ: Kế hoạch tác chiến. Thì
ra đây là một bản đồ quân sự. Chúng tôi lật tiếp ra đằngsau và tìm thấy mấy tờ giấy mang dòng chữ: Mệnh lệnh trong ngày, Kế hoạch tấn côngMật khẩu.

Ở tờ giấy cuối cùng là một chuỗi các từ nghe rất lạ: Phù du, Con vịt màu vàng
Chim hồng hạc đã chín. Giờ thì tụi tôi đã lờ mờ hình
dung ra được cuộc sống trước đây và chuỗi ngày nghỉ hưu của Ngài Henry quá cố.

“Có lẽ ông ấy cũng bị rơi trúng đầu” - Misty
nói, như muốn khẳng định lại giả
thiết đã từng có cơn mưa chậu hoa xuống vịnh Captain's Folly.

Khu vườn nhỏ ở bên rìa cửa tiệm
cô Teresa chính là mục tiêu quan sát của hai cái ống nhòm và cái kính viễn vọng. Maps
là đứa đầu tiên nhìn một cách rất chăm chú. Đột nhiên, cậu ta rít lên đầy
bực bội: “Đồ tồi tệ bẩn thỉu!”

Mặc dù hình ảnh hiện lên qua cái
ống nhòm của tôi vẫn còn mờ mờ nhưng tôi biết Maps
đang nói về ai. Xen lẫn giữa những bụi cây cao được cắt tỉa cẩn thận, thấp
thoáng bóng một người đàn ông đang đi về phía cô Teresa. Tay người đó vòng qua eo cô, kéo cô cùng ngồi xuống cái ghế trong vườn, sau đó cầm tay cô đặt lên trên đùi mình.

“Người đó tên là Jimmy Sullivan” - Spark nói.

Bên cạnh họ là cây mơ trĩu quả. Tôi có linh cảm vị khách này sẽ với tay bứt lấy một quả mơ và dụ dỗ cô Teresa
cắn một miếng. Quỷ sa-tăng đã lượn lờ quanh cái vịnh Captain's
Folly này kể từ khi năm đứachúng tôi đặt chân tới đây, và giờ thì nó chính là con rắn độc trong
hình dạng con người.

Chúng tôi vẫn một mực không thể tin nổi chuyện côTeresa phản bội chú Foley. Niềm tin của chúng tôi bấy lâu nay về tình yêu và lòng tận tụy của cô Teresa dành cho chú Foley
thậm chí có khi mạnh hơn cả niềm tin
vào sự tồn tại của Chúa Trời.

Liệu có chuyện gì giữa cô và cái
ông Jimmy Sullivan kia hay không? Chúng tôi chợt nhớ lại buổi tối Chủ Nhật hôm trước, ông ta đã tỏ ra rất sốt sắng tới cửa tiệm giúp đỡ cô. Phải chăng đó chính là lý do tại sao cô không có tâm trạng chơi nhào lộn với tụi tôi nữa?

“Các cậu bé!”

Ít
ra thì bà quản gia Stella cũng nói ra
được giới tính đúng của tụi tôi, chứ không như bà chủ già của bà. Tiếng bà Stella vọng lên từ
dưới chân cầu thang sắt, và chúng tôi
vội vã chạy xuống, theo bà tới một căn phòng lớn hơn. Tại đó, Cha Scully
đã yên vị trong bộ lễ phục màu xanh của mình. Màu xanh để mặc vào ngày
thường, trong khi màu trắng và màu vàng chỉ mặc trong các ngày lễ, màu đỏ cho
những người tử vì đạo và màu đen trong các đám tang. Cái bàn to trước mặt được
biến thành bàn thờ với một lớp
vải phủ trắng, ông Bandy
McAnsh hôm nay để đầu trần trông chẳng khác gì một thầy tăng già. Khi buổi lễ bắt
đầu, ông Bandy lầm bầm đáp lại bằng tiếng Latin nhỏ đến nỗi chúng tôi không
dám chắc là ông ấy có tự bịa ra lời không. Bà
McAnsh quỳ xuống cầu nguyện, tay
lần tràng hạt một cách rất thành tâm. Chỉ có quý bà Hodge là ngồi yên một chỗ trong suốt các bước quỳ, đứng và ngồi
của buổi lễ. Bà Stella
quỳ bên cạnh và chỉ đi ra ngoài có
một lần - để dắt con chó ra vì nó cứ chạy lại ngửi ngửi đôi giày của ông Bandy.

Cha Scully hai mắt nhắm nghiền, mỉm cười nhân từ ban
phước cho từng người một. Tôi vẫn
cứ ngờ Cha không biết cười cơ đấy. Nếu Cha mà
biết về những kế hoạch và âm
mưu ám hại người khác của bọn tôi thì chắc Cha phải bỏ xứ mà đi
mất. Tuy nhiên, tôi vẫn không bao giờ cho rằng lời khuyên của
Cha dành cho tôi hôm đó là một sai lầm.

Khi Cha Scully tiến hành các nghi lễ cổ xưa, chúng tôi trở thành năm con chiên ngoan đạo,
nhưng chỉ là về thể xác chứ không phải trong tâm hồn. Bỏi chúng tôi còn đang bận nghĩ tới hai vị thánh sống mà mấy đứa vẫn luôn tôn thờ bấy lâu nay. Tôi đang rà soát lại những chuyện đã xảy ra, từ buổi sáng đầu
tiên gặp cô Teresa nhào lộn trên biển, để lí giải xem tại
sao cô và cái ông Jimmy
Sullivan đó lại thân thiết với nhau đến
vậy. Ông Lão Làng đã từng kể rằng ông ta từng sống ở vịnh Folly trong suốt thời kì khủng hoảng. Có lẽ mối quan hệ đặc biệt của họ bắt đầu từ khi đó.

Tuy nhiên, càng nghĩ tôi càng lo
sợ không muốn đối mặt với sự thật là: chú Foley bị phản bội bởi
chính người đáng ra phải trung thành với chú nhất. Nhưng tôi vẫn không thể tin
nổi, dù chỉ là trong suy nghĩ, rằng một người thánh thiện như cô Teresa
lại có thể làm một chuyện tày đình đến như vậy. Nếu cần phải đổ lỗi cho ai đó
thì tất cả đều là do người có tên Jimmy Sullivan. Mọi chuyện đều là do ông ta gây nên.

Chúng tôi luôn tin rằng cô Teresa và chú Foley hạnh phúc với những gì mình đang có. Cuộc khủng hoảng kinh tế đã lấy đi mọi thứ hào nhoáng, xa xỉ của cuộc sống, khiến
cho con người càng thêm trân trọng và bằng lòng với những điều bình dị. Đó là thời gian khi niềm tin vào lòng tốt trong
mỗi con người - mặc dù mọi bằng chứng xảy ra trên thế giới đều
thuyết phục điều ngược lại - vẫn được trân trọng và gìn giữ. Chúng tôi chưa
từng thấy hay nghe được bất cứ điều gì khiến chúng tôi phải nghĩ rằng cô Teresa và chú Foley không hạnh phúc. Mặc dù có đúng một lần, cô ây đã khiến cho cả đám tá hoả
khi liên tục đặt câu hỏi về cuộc sống trong tu viện, nhưng chẳng phải sau đó cô đã bật cười với chính cái ý nghĩ đó của mình đấy sao? Rất nhiều lần chúng tôi được nghe cô kể về chồng mình đầy tự hào và
hạnh phúc. Và cho dù chú Foley hiếm khi nói
những điều tương tự về cô Teresa
nhưng tụi tôi có thể nhìn thấy được trong mắt của chú. Đâu cần phải nói nhiều mói chứng tỏđược tình yêu và sự tận tụy mà chú dành cho cô Teresa. Chỉ cần nhìn cái cách chú lao xe về nhà mỗi tối thứ Sáu, vòng tay ôm lấy cô Teresa cười hạnh phúc là có thể hiểu. Đối với chúng tôi, đó là một trong những hình ảnh lãng mạn và ấm áp nhất mà chúng tôi được chứng kiến tại cái vịnh nhỏ bé này.

“Ồ, bọn trẻ sẽ vô cùng xinh đẹp khi chúng lớn lên. Tôi chắc đấy!” - bà Hodge quay sang nói với bà McAnsh. Có vẻ như bà quý tộc giàu có này lại nhầm lẫn
tụi tôi thành con gái rồi thì phải. Nhưng giờ chúng tôi chẳng có tâm trí đâu mà phiền lòng vì một
chuyện cỏn con như vậy. Đứa nào cùng chỉ muốn mau mau chóng chóng rời khỏi nơi này
để đi tìm hiểu thực hư chân tướng sự việc đang xảy ra bên gốc cây mơ kia. Ruột
gan chúng tôi đang nóng như lửa dốt. Misty liên tục bỏ kính ra rồi lại đeo kính vào. Maps mặt méo xệch.
Fido bồn chồn, hai chân đứng ngồi không yên.

“Bọn trẻ sẽ không bao giờ quên được lòng hảo tâm vô bờ bến của bà” - bà McAnsh nói, hai mắt rưng rưng như muốn khóc - “Chúng sẽ không bao giờ quên bà, chừng nào chúng còn sống ạ.”

Nói rồi bà quắc mắt ra hiệu cho
chúng tôi, làm cả đám vội vàng lí nhí nói lời cảm ơn với quý bà Hodge.

Cuối cùng thì chúng tôi cũng được
thả ra khỏi khu nhà kiên cố đó, chạy một mạch tới nhà cô Teresa. Cả đám khựng lại khi nghe thấy tiếng xe ôtô nổ máy, từtừ leo lên sườn đồi. Ở phía đằng xa, cô Teresa đang vẫy tay tạm biệt.

Thường thì tụi tôi sẽ cởi giày và
chạy chân trần trên cát nhưng hôm nay thì không ai có thời gian để làm chuyện đó. Cả đám chạy như bay về phía căn
tiệm và chúng tôi lại được nhận thêm một cú sốc nữa. Cô Teresa đang hát!

34

Cái chết lại một lần nữa xuất hiện trong khung ảnh của tôi.

Khi mặc lại bộ đồ bơi lên người, tôi mới phát hiện ra thêm vài vết thủng mới; biểu tượng con gà trông đã bị mất cái đuôi và dòng chữ Bột mì Mãi Vươn Cao cũng bị mất đi vài chữ cái.
Tôi chuồn ra một chỗ, đào bới cái kho báu của mình lên và nhìn vào đó. Maps
và những đứa khác không
buồn quan tâm xem tôi đang làm gì với cái khung tranh, bởi chúng biết
điều đó chẳng ảnh hưởng gì đến chuyện cô Teresa chọn ai. Thỉnh
thoáng, tụi nó lại quay ra cười chế nhạo tôi vì suốt ngày dính với cái khung ảnh (Chẳng bao lâu cậu sẽđeo một cặp kính hình vuông cho coi
- Spark cảnh cáo).

Mặc kệ chúng nó có nói gì đi chăng nữa, với tôi, đây là khung cửa
sổ nhìn vào cái thế giới thuộc về riêng mình: những áng mây trôi hững hờ, bóng hoàng hôn chói sáng, cánh đồng cỏ xanh mướt lay nhẹ trong gió. Trong thế giới đó, tôi là người cô Teresa
lựa chọn, là thành viên của câu lạc bộ lướt sóng và đội cứu hộ Captain’s
Folly. Tôi được khoác trên mình chiếc áo lụa yêu
quý màu đỏ của chú Foley,
biểu diễn những cú nhào lộn hoàn hảo trên cát. Tôi cũng là tay đua nhỏ tuổi nhất được vinh danh cùng chú Foley
trên chiếc xe mô-tô phân khối lớn. Sau
khi nhìn thấy những tấm biển báo do tôi thiết kế ở khu cắm trại bỏ hoang, cô Teresa đã gợi ý rằng lớn lên tôi nên trở thành hoạ sĩ. Khắp nhà chúng tôi sẽ treo toàn những bức chân dung của cô Teresa và chú Foley do chính tôi vẽ.

Giờ thì tôi đang nằm đây, trên bãi cát, nghe cô Teresa hát. Tôi quyết định lôi ông Jimmy
Sullivan vào khung tranh của mình. Theo tưởng tượng của tôi, ông ta đã quyết định quay trở lại vịnh Folly
để gây ấn tượng với cô Teresa
bằng một màn biểu diễn lao xe xuống sườn dốc, như chú Foley vẫn làm. Nhưng ông ta không
có khả năng đó. Cái xe ô tô cũ nát nhảy tưng tung trên sườn đồi, bánh xe văng một nơi nóc xe văng một nèo. Ông
Sullivan, tay vẫn đang nắm cái tay lái, rơi
tõm xuống biển. Ông ta vùng vẫy tìm mọi cách
bơi vào bờ nhưng ngay lập tức bị bao vây bởi một đàn cá mập - lần đầu tiên xuấthiện tại cái vịnh
vốn đang yên bình này. Chúng bơi vòng vòng xung quanh, hằm hè nhìn con mồi. Tôi dừng lại một lúc trước khi đổi sang cảnh khác, để cho cho đàn cá
mập có thời gian thưởng thức bữa tiệc đêm của
mình. Tiếng ông gào thét vang vọng khắp bờ biển nhưng tuyệt nhiên không có một
ai lao ra cứu. Ông ta trồi lên thụp xuống khoảng ba lần nữa trước khỉ chìm nghỉm dưới làn nước trong veo.

Sau khi trừ khử được mối hậu hoạ
đe doạ đến hạnh phúc của cô Teresa
và chú Foley, tôi đổi sang cảnh khác.

Khung ảnh lại một lần nữa trở thành công cụ của thần chết: cánh cửa dẫn tới địa
ngục. Trong đó, cả khu rừng đột nhiên bốc cháy. Spark, Maps, Misty và Fido tình cờ lại đang đứng ngay trên kho pháo hoa trong khu cắm
trại bỏ hoang, cả bốn đứa bị thổi tung lên cao, văng ra tứ phía trong làn khói lửa mù mịt.

Nhưng giấc mơ ấy còn có ý nghĩa
gì nữa nếu tình cảm giữa cô Teresa
và chú Foley bị rạn nứt. Bởi nếu cô Teresa
và ông Jimmy
Sullivan kia kết hợp với nhau, chắc chắn
sẽ không có cơ hội nào dành cho đám chúng tôi.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3