Những chàng trai tháng 12 - Chương 06 - 07 - 08

6

Khu nhà McAnsh bao gồm căn nhà chính và
căn nhà gỗ nhỏ liền kề. Tường nhà được sơn màu xanh nhạt, và trang trí bằng các
kiểu quốc kỳ, cờ hiệu trông rất vui mắt, khiến cho không khí trong phòng lúc
nào cũng như có lễ hội. Những lá cờ hiện diện ở khắp nơi, trên rèm cửa, khăn
bàn, khăn ăn…

Mấy cái giường ngủ trong căn nhà gỗ được
trải ga giường cũng mang hình cờ hiệu sặc sỡ, và chỉ khi chui xuống dưới những
tấm ga giường đó, mấy đứa chúng tôi mới hiểu ý của ông Bandy khi gọi chúng tôi
là những tín hiệu xấu – mặc dù sự so sánh đó thật khó hiểu và khập khiễng.

Nhiều ngày sau đó, chúng tôi đã tìm thấy
trong phòng khách một tấm hải đồ ghi rõ ý nghĩa của các tín hiệu quốc tế và nhận
ra rằng: thì ra lâu nay mấyđứa vẫn nằm ngủ trên những hình vuông mang ký hiệuCó người ngã xuống biển, Tôi cần một hoa
tiêu, Tôi đang đem theo thư tín
… Vậy thôi cũng đủ tưởng tượng ra không ít những
cơn ác mộng khủng khiếp.

Cũng nhờ tấm hải đồ đó mà chúng tôi nhận
ra rằng chiếc váy của bà McAnsh có hình cờ hiệu Các động cơ của tôi đang phóng giật lùi. Ông Bandy buộc ở đầu cái
kèn trombone bằng chiếc khăn mang hình cờ hiệu trông rất lạ mà không đứa nào
trong chúng tôi xác định được nó có ý nghĩa gì. Nhưng cứ suy theo cái tiếng kèn
đầy cảnh báo của ông thì có lẽ chúng có nghĩa là Hãy tránh xa, tôi đang gặp khó khăn trong việc điều khiển tàu.

Tấm khăn trải bàn mà chúng tôi vẫn ngồi
ăn tối mang hình phù hiệu hải quân cũ. Sau bữa ăn, chúng tôi được giao nhiệm vụ
rửa bát đĩa, bằng miếng giẻ cũng mang hình cờ hiệu. Công việc đó thật quá đơn
giản và nhẹ nhàng so với những việc mà chúng tôi vẫn phải làm khi ở St.
Roderick. Chúng tôi cũng không phải nơm nớp lo sợ sẽ bị trừng phạt nếu lỡ tay
làm đổ hay làm vỡ món đồ nào, không chỉ riêng đồ sành sứ. Ở viện St. Roderick
tôi đã từng phải lau toàn bộ sàn hành lang chính, bên dưới gầm cầu thang rộng
thênh thang, nơi chỉ các nữ tu và khách mời được lui tới. Chỉ có điều tôi đã
hoàn thành nhiệm vụ đó quá tốt, hơn hẳn mức cần thiết, khiến cho Mẹ Bề trên có
lần bị trượt ngã và gẫy xương hông. Sau đó tôi bị điều sang tổ gọt khoai tây. Kể
từ đó tôi đã hiểu được sự tinh tế của cái gọi là quyền miễn trừ ngoại giao. Sẽ
không ai nói gì, cũng không sợ bị trừng phạt hay phải làm việc gì nặng nhọc.
Tuy nhiên, gọt khoai tây chính là một trong những nhiệm vụ tồi tệ nhất mà không
đứa trẻ nào mong muốn. Bởi lúc nào cũng có một sơ kè kè bên cạnh, luôn miệng
phàn nàn về việc bạn đang lãng phí khoai tây, chỉ vì cái vỏ khoai tây bạn vừa gọt
không đủ mỏng để ánh nắng Mặt Trời có thể rọi qua.

Phía bên ngoài căn nhà của gia đình
McAnsh, bóng đêm đang dần bao trùm lấy toàn bộ thung lũng và vươn rộng ra ngoài
biển khơi. Chúng tôi đã quá quen thuộc với cảnh bóng đêm đi kèm theo tiếng chó
sủa, tiếng còi tàu cùng tiếng lanh canh của các toa tàu, nhưng việc bóng đêm
hòa lẫn cùng tiếng thì thầm, thổn thức của sóng biển như thế này là lần đầu
tiên. Năm đứa hồi hộp dỏng tai ngóng tiếng động cơ xe máy của chú Foley Can Đảm.

Trong khi chờ đợi, bà McAnsh kể cho
chúng tôi nghe lần gặp mặt đầu tiên với ông Bandy; về đám cưới của hai người và
lời chúc phúc của mọi người. Bọn tôi ngồi nghe câu chuyện tình lãng mạn nhà
McAnsh một cách chăm chú.

“Ngay từ ban đầu ta đã chú ý tới ông ấy”
– bà cười tươi với tụi tôi, sau đó quay qua mỉm cười âu yếm với ông Bandy –
“Cái cách ông ấy đi vào và gọi đồ uống. Cái cách ông ấy nhấc mũ lên gật đầu
chào mọi người, và đó luôn là một dấu hiệu tốt lành cho quán bar đông khách của
ta. Hai chân gần như không đứng vững khi nhìn thấy nụ cười lịch lãm của Bandy.
Trước đó, ta chưa từng trải qua cảm giác hồi hộp như vậy trong cuộc đời mình.
Sau đó, ngày nào ông ấy cũng băng qua cả một quả đồi, lặn lội tới quán bar của
ta chỉ để làm một vại bia hay một cốc rượu. Cứ nhìn theo bóng ông ấy lủi thủi
đi về một mình là tim ta như thắt lại. Tất nhiên là khi đó ta đã biết khá nhiều
về Bandy, một người đàn ông tốt, có công việc làm vườn ổn định tại tư gia
Hodge. Ông ấy từng sát cánh bên người chồng quá cố của phu nhân Hodge trong đội
kỵ binh hồi chiến tranh. Đúng không, mình?”

“Chính xác” – ông Bandy gật gù.

Ta đã không ngừng tự hỏi xem mối quan hệ
giữa hai chúng ta sẽ đi đến đâu. Cho tới một ngày ông Bandy bỏ cả buổi chiều để
ngồi ở quán bar của ta, và trước khi Mặt trời xuống núi, ta đã trở thành bà
McAnsh tương lai. Em nói đúng không, mình?”

“Không sai” – ông Bandy nói.

“Khi đó ta đã nói – và giờ ta vẫn nói
như vậy – một người đàn ông luôn thể hiện rõ bản chất của mình qua cái cách họ
uống rượu. Có rất nhiều người không xác định được mình muốn gì. Những người chỉ
hớp từng ngụm nhỏ là những người khá kỹ tính, còn những người tu liền một hơi lại
là những người thô kệch, lỗ mãng. Bandy của ta thì khác hẳn, luôn biết bản thân
muốn gì, biết phải thưởng thức đồ uống sao cho đúng cách. Và ông ấy cũng là người
yêu cầu một câu trả lời ngay lập tức, không có chuyện lần lữa với Bandy McAnsh.
Sau câu trả lời đồng ý đầy hạnh phúc của ta, một đám cưới long trọng được tổ chức
tại nhà thờ. Có thể nói phương châm chung của vợ chồng ta về sự cho và nhận đã
mang lại cho chúng ta năm năm chung sống hạnh phúc cho tới hôm nay. Chúng ta là
vậy, đúng không quý ngài McAnsh? Sống và được sống, đó chẳng phải là cách sống
của chúng ta sao?”

“Chính xác lời của tôi là sống để yêu.
Chúng ta là vậy.”

Cuối cùng thì cũng tới giờ chúng tôi phải
đi ngủ. Không có đứa nào tìm cách chống lại điều đó. Cả lũ lần lượt thay sang bộ
quần áo ngủ mà các sơ đã tự tay may lấy, sau đó dàn hàng ngang ra đứng ngoài cửa,
dõi mắt nhìn về phía con đường gập ghềnh trên đỉnh đồi, lắng nghe tiếng chim hải
âu, tiếng đàn piano hòa quyện cùng tiếng rì rầm của sóng biển.

Mấy đứa bị mừng hụt tới hai lần. Lần đầu
là chiếc xe của người đàn ông chuyên đóng tàu vào các ngày cuối tuần mà ông
O’Leary vừa nhắc tới ban chiều. Chiếc thứ hai xuống dốc với tốc độ nhanh hơn một
chút, sau đó dừng lại bên ngoài căn lều của câu lạc bộ lướt sóng, nơi một vài
thành viên của đội cứu hộ thường cắm trại vào các ngày thứ Bảy và Chủ nhật. Cả
đám vẫn tiếp tục kiên nhẫn chờ đợi, cái nóng của mùa hè vẫn len lỏi lẩn khuất
trong không khí ẩm ướt của biển.

Vào những đợt nắng nóng cao điểm mùa hè,
chúng tôi hiếm khi ló mặt ra khỏi bốn bức tường của viện St. Roderick lúc muộn
thế này, trừ phi phải tham gia đoàn diễu hành lễ hội của nhà thờ, trong những bộ
lễ phục đậm mùi hương trầm. Còn bây giờ người đứa nào đứa nấy toát ra toàn mùi
kem chống nắng và tảo biển. Cả vịnh như đang nín thở chờ đợi. Khắp nơi, các ánh
đèn lần lượt được thắp sáng, từ tòa biệt thự của quý bà giàu có, đến căn nhà tạm
bợ của ông lão tự pha chế rượu, và cái đèn lồng treo lủng lẳng trước của nhà
Lão Làng. Đám chúng tôi đã chuẩn bị tinh thần cho một màn hành động bất ngờ và
vô cùng kịch tính – những tiếng nổ vang rền, ánh đèn pin chói lòa phát ra từ
cái mũ bảo hiểm lóe sáng như thanh kiếm bạc xé tan màn đêm tĩnh lặng của các vịnh
nhỏ bé này. Tuy nhiên âm thanh đầu tiên mà chúng tôi nghe được chỉ là mấy tiếng
brừm brừm nho nhỏ phát ra từ sau đỉnh đồi. Cái tiếng brừm brừm nho nhỏ kia đã
biến thành tiếng động cơ nổ vang rền, như muốn đánh thức cả cái thị trấn này dậy.
Một tia sáng chói lòa quét ngang toàn thung lũng. Càng ngày, tiếng động cơ càng
trở nên mạnh mẽ, như một con quái vật bằng sắt phì phò mài vuốt chuẩn bị cho một
cuộc tấn công. Chú Foley và chiếc xe lao như bay xuống triền dốc, cả thung lũng
và vịnh Captain ngập tràn tiếng động cơ, làm rung chuyển toàn bộ bầu không khí
nơi đây. Bóng đêm như bị chia cắt thành từng mảnh nhỏ, rung rinh va đập vào
nhau, vang vọng ra tận biển khơi – ngôi nhà của chú cá mú tinh ranh Henry và
các loài cá lớn nhỏ khác.

“Chắc chắn đó là người đàn ông can đảm
và vĩ đại nhất thế giới” – Misty trầm trồ thán phục.

Chiếc xe vẫn tiếp tục xuyên thủng màn
đêm, lao bon bon trên sườn đồi khúc khuỷu đó. Ánh đèn pin trên trán chú ấy vụt
quét qua mặt chúng tôi. Thật bất ngờ, nó như một cái tát nhẹ lên má, một cái
xiên vào mắt, và cả đám lũ lượt chạy lên chỗ cao nhất của cồn cát gần nhà, trên
người có độc bộ quần áo ngủ. Chúng tôi cũng kịp nhìn thấy hình ảnh chú Foley
Can Đảm ngoặt tay lái rẽ thẳng vào căn tiệm nơi cô Teresa đang nhảy tưng tưng
reo hò trong chiếc áo khoác dài.

Tiếng động cơ đột nhiên tắt ngúm, ánh
đèn pin cũng lịm dần, kéo theo tiếng chó sủa phát ra từ căn biệt thự nhà Hodge,
rồi chúng tôi nghe thấy tiếng ai đó cười vang, một tiếng cười đậm chất đàn ông,
sau đó là tiếng phụ nữ ríu rít: “Anh yêu, anh yêu!”

Kế đó, hai vợ chồng họ vui vẻ cùng nhau
vào nhà, trên vai chú Foley khoác một chiếc balô to sụ.

Sóng biển rì rầm như đang vỗ tay tán thưởng.
Còn năm thằng chúng tôi vẫn còn chưa hết choáng ngợp trước màn biểu diễn ngoạn
mục vừa diễn ra trên sườn đồi.

Dưới chân chúng tôi, triền cát bỗng trở
nên ẩm ướt lạ thường, mát lạnh như những cánh hoa rơi, như thể chúng đã mất đi
toàn bộ hơi ấm của mình khi màn đêm buông xuống, giống như cái cách mà mấy bông
hoa giọt băng vẫn thường khép lại khi Mặt Trời xuống núi.

Chúng tôi rón rén tiến về nơi chiếc xe
mô-tô đang được dựng sừng sững. Sức nóng của động cơ vẫn còn lan tỏa trong
không khí, mấy chiếc xi-lanh vẫn còn nóng tới mức khi Spark vừa sờ nhẹ lên nó,
ngay lập tức phát ra tiếng xèo xèo cùng làn hơi nước.

Năm đứa thay phiên nhau ra sờ mó chiếc
xe, cho tới khi thấy bóng chú Foley xuất hiện trước cửa. Chú ấy bước ra ngoài
hiên, vươn vai thở phào khoan khoái rồi quay lưng đi vào trong nhà. Còn mấy thằng
chúng tôi, đang thập thò nấp sau bờ giậu, nhanh chóng rút về chỗ cồn cát, sau
đó chạy thẳng một mạch về nhà chui vào dưới mấy tấm ga có hình “tín hiệu xấu”.
Trên đường về nhà, chúng tôi đã giẫm phải đám tảo biển rơi rớt ra từ mấy cái áo
giáp lá ban chiều. Đúng là giờ chúng đã đặc quánh lại và không còn độ đàn hồi
như trước nữa.

Giờ thì tụi tôi đã lờ mờ hiểu được tại
sao cô Teresa lại thích nhào lộn vào các ngày thứ Sáu đến như vậy.

7

Tiếng
chuông cầu nguyện trong nhà thờ, tiếng leng keng của chuỗi tràng hạt khi sơ vào
phòng đánh thức mọi người, tiếng be be của đàn cừu và đám gia súc ngoài chợ -
đó là những âm thanh buổi sáng duy nhất mà chúng tôi đã được biết, cho tới khi
đặt chân tới vịnh Captain’s Folly này. Giờ thì chúng tôi thức dậy trong tiếng
gáy của đàn chim biển và ánh bình minh đỏ rực trải dài lên làn nước trong xanh.

Trước
khi ăn sáng, cả đám dắt díu nhau chạy ra ngoài chiêm ngưỡng con xe máy hầm hố tối
hôm qua giữa ánh sáng ban ngày. Trông nó chẳng khác nào một con bò tót khổng lồ
được làm bằng thép và lắp thêm bánh xe.

“Có
ai thách tớ ngồi lên đó không?” – Spark hỏi.

“Tớ
thách” – Maps nói, và thường thì cũng chỉ có cậu ấy là chịu mở miệng.

Phải
tới khi Spark trèo lên con xe đó, bốn đứa còn lại mới hình dung ra được hết sự
đồ sộ của chiếc xe. Trông Spark như đang bò ra trên một cái xẻng ngoại cỡ. Cậu
ta bắt đầu oằn èo thể hiện, phải rướn gần như hết người về phía trước thì hai
tay Spark mới với được tới tay cầm của xe. Kế đó cậu bóp bóp cái bầu nhựa màu
đen của cái còi. Một tiếng bíp ré lên. Spark tụt vội xuống khỏi xe và cả đám
chúng tôi phi như bay ra sau cồn cát để nấp. Nhưng chẳng thấy bóng dáng của chú
Foley hay cô Teresa đâu.

Sáng
hôm đó, hai ông bà McAnsh cũng không dậy sớm, vì vậy tụi tôi quyết định đi dạo
quanh thung lũng. Đầu tiên, chúng tôi bị thu hút bởi mấy cái quai búa trên con
thuyền đang đóng dở nằm hớ hênh trên cát. Không thấy bóng dáng chủ nhân của nó
đâu. Có lẽ ông ấy đang lúi húi sửa chữa gì đó ở trong thân tàu.

Thảm
hoa giọt băng trắng muốt đang vươn mình đón lấy tia nắng Mặt Trời, từng bông từng
bông một, tiếp đó là từng khóm từng khóm, trải dài từ vườn nhà McAnsh uốn lượn
quanh các triền đồi trong thung lũng. Một bên là rừng thông xanh mướt, và những
dải hoa đậu màu vàng, màu tím đang nở rộ. Xa hơn một chút là vết tích của những
căn lều tạm bợ khi cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra – nơi chúng tôi quyết định sẽ
phải lên đó khám phá cho thật kỹ.

Chúng
tôi tha thẩn dạo chơi quanh bãi rác khổng lồ của thung lũng, xới tung mọi thứ
lên, như thể khơi lại ngọn lửa vẫn đang âm ỉ cháy trong suốt quãng thời gian
ông lão O’Leary săn lùng con cá mú Henry. Spark bắt đầu phiên đấu giá cái khung
giường gỉ sắt. Hồi ở St. Roderick, bốn đứa còn lại vẫn thường hùa theo các
phiên đấu giá của cậu ta bằng những câu trả giá rẻ bèo, nhưng hôm nay cả đám
sôi nổi hò hét qua làn khói bụi với những cái giá cao đến ngất trời. Như thể
chúng tôi đang sở hữu những khoản tiền kếch xù và cái khung giường cũ nát đó
đáng giá cả một gia tài vậy.

Chợt
tôi nhìn thấy một mẩu gỗ chạm khắc được mạ vàng đã nhạt màu. Tôi cúi xuống bới
tung mọi thứ lên, lấy cho bằng được miếng gỗ đang bị vùi dưới một lớp bụi dày.
Đó là một khung ảnh nhỏ được chạm trổ khá tinh vi.

Hình
ảnh cái chong chóng mạ vàng trên nóc nhà Hodge hiện rõ qua cái khung ảnh hình
vuông đã được lau chùi cẩn thận. Khung ảnh vừa đủ to để tôi có thể nhét cái mặt
mình vào đó, nhưng không đủ to để chui lọt đầu. Nếu so với mấy đứa còn lại thì
cái tôi tìm được vẫn đáng giá hơn hẳn: Misty với mẩu gạc hươu, Maps với mấy quyển
tạp chí cũ, Fido khệ nệ kéo theo cái xuồng bằng thiếc, trong khi Spark vẫn
khăng khăng đòi bán đấu giá những thứ bọn tôi vừa tìm được.

Không
khí trong nhà McAnsh yên ắng đến thảm hại. Mọi người lặng lẽ ngồi ăn, không ai
nói tiếng nào, ngoài tiếng dĩa, cốc lanh canh và tiếng ợ hơi của ông Bandy. Thật
trái ngược hẳn với hình tượng hào hoa phong nhã mà bà McAnsh đã kể cho chúng
tôi tối qua. Bà vừa liếc xéo sang phía chồng một cái nhìn sắc lẹm. Công nhận là
hình tượng của ông Bandy đã sụt thảm hại chỉ sau có một đêm. Tôi nhận thấy ánh
mắt của ông cứ liên tục nhìn về phía chai rượu rỗng không một cách tiếc nuối.

Trên
cồn cát cũng chưa hề thấy bóng dáng chú Foley Can Đảm đâu.

Tay
vẫn giơ cao cái khung ảnh rỗng, tôi đưa con ngựa già Socrates vào tầm ngắm. Nó
vẫn đang đứng bất động, mơ mộng nhìn ra ngoài biển khơi. Không thấy bóng mẹ con
đàn mèo hoang đâu. Trên trời, một con chim hải âu đang lượn lờ bay trong gió,
nó bay chậm đến nỗi tôi cứ ngỡ nó đang đứng yên, ngoài một chút phe phẩy ở đầu
cánh. Ở phía đằng xa, những cột sóng va đập vào nhau tung bọt trắng xóa. Chứng
kiến bức tranh sống động đó, tôi chợt nhận ra một điều: đại dương làm tôi liên
tưởng tới sự vĩnh cửu. Nó dường như không có giới hạn, cứ trải dài mãi mãi. Có
lẽ do được nuôi dạy bởi các sơ trong tu viện từ tấm bé nên trong tôi luôn mang
một nỗi sợ hãi về sự vĩnh cửu. Hoặc có lẽ đây cũng chỉ là một bằng chứng rằng đức
tin của con người – niềm tin vào sự bất diệt của bản thân – tồn tại ngay từ
giai đoạn đầu đời.

Cảnh
vật trong khung ảnh đột nhiên thay đổi, lọt vào chính giữa khung hình là chân
dung của chú Foley Can Đảm.

8

Buổi
sáng thứ hai tại vịnh Captain’s Folly, chúng tôi đã phải mất một lúc lâu mới dụ
được ông O’Leary mở miệng. Chỉ tại câu hỏi ngu ngơ của Misty:

“Ông
đã từng ở trên con tàu đó đúng không ạ?”

“Ta?
Ta ở trên con tàu nào?” – ông kinh ngạc hỏi lại.

“Con
tàu ngoài kia kìa!” – Misty chỉ về phía con tàu đang đậu ngoài khơi.

“Mi
đang lảm nhảm cái gì thế?”

“Tại
ông nói mình là thủy thủ mà”.

“Mi
nghĩ ta bao nhiêu tuổi rồi hả?”

“Cháu
nghĩ ông phải cỡ tuổi của thuyền trưởng Cook” – Misty ngây ngô trả lời.

“Kiểu
đùa đó chẳng hay ho chút nào đâu” – Ông O’Leary cao giọng, để lộ hai cái răng
nanh trông như hai dấu ngoặc đơn.

Chẳng
hiểu sao ông ấy lại tỏ vẻ khó chịu đến vậy khi được khen sống lâu như thuyền
trưởng Cook. Ông chỉ hào hứng trở lại khi nói về chú Foley: “Đúng vậy, như mấy
đứa đã nhìn thấy, khi trở về vào mỗi đêm thứ Sáu, trông cậu ta hùng dũng là thế,
nhưng chỉ đến sáng hôm sau đã biến thành một người trông đến là mệt mỏi. Nếu giờ
chẳng may có ai đó bị chết đuối ngoài kia thì cậu ta sẽ chẳng có đủ sức mà cứu
đâu, mặc dù là thành viên chủ chốt của đội cứu hộ dưới đường hầm thì đúng là cậu
ta đã chẳng còn đủ sức để làm việc gì khác thật.”

“Đường
hầm nào cơ ạ?” – bọn tôi hỏi bật lại.

“Chẳng
phải cậu ta là đội trưởng sao?” – ông nói như thể đó là điều hiển nhiên mà ai
cũng phải biết – “Họ đang xây dựng đường tàu điện ngầm mới dưới lòng thành phố,
công việc rất tốn công sức và mệt mỏi, mặc dù nghe nói tiền công cũng khá lắm”.

“Tại
sao họ lại phải xây dựng đường tàu ở dưới lòng đất ạ?” – Fido tò mò.

“Ngốc
thế!” – Spark chế giễu – “Trên mặt đất không còn chỗ chứ sao. Cháu nói có đúng
không ạ?”

“Chắc
chắc vậy” – ông O’Leary mím môi tỏ vẻ không chắc chắn. Sơ Catherine, giáo viên
tiếng Anh của tụi tôi mà ở đây chắc chắn sẽ quở trách ông vì tội nói sai ngữ
pháp cho mà xem. Nhưng e rằng ông già lắm điều này sẽ không vì thế mà sửa đổi.

Fido
vẫn không hiểu nổi tại sao người ta phải xây dựng đường tàu ở dưới lòng đất. Bởi
ở nơi chúng tôi sống, tàu hỏa có thể chạy hàng trăm dặm mà không sợ bị va vào
cái cây hay tổ kiến nào. Ấn tượng duy nhất của chúng tôi về thành phố là những
tòa nhà vắng vẻ, những cánh cửa sổ tối tăm và không khí ảm đạm.

Tuy
nhiên, những thông tin ông O’Leary vừa nói thật đáng để suy nghĩ. Trong mắt tụi
tôi, phải làm việc dưới hầm tối chẳng khác nào đi làm nô lệ. Cũng dễ hiểu tại
sao chú Foley vội vã quay trở về tận hưởng bầu không khí trong lành của đại
dương và sự ấm áp của ánh Mặt Trời vào ngày cuối tuần.

Vừa
nhìn thấy bóng chú Foley từ xa, cả bọn nhao nhao đặt ra những câu hỏi khiến một
người lão làng như ông O’Leary cũng phải lúng túng.

“Các
cậu ơi!” – Fido đột nhiên hạ giọng, khi thấy chú Foley phóng xe lao vùn vụt qua
cồn cát trắng – “Chú ấy trông như tượng đài í nhỉ”.

“Cái
gì?” – ông lão giật nảy mình hỏi lại.

“Tượng
đài!” – Fido dõng dạc nói.

“Tượnggggg
– đàiiiii!” – Spark ngân nga.

“Đúng
là da cậu ta có màu nâu bóng thật, và cậu ta có được tạc tượng hay không thì đó
là việc của vợ chồng cậu ta. Nhưng không ai lại đi ví một người đang còn sống với
cái tượng đài cả, hiểu chưa?” – ông lão lạnh lùng nói. Có lẽ tại ông không hiểu
ý của Fido thôi, chứ tụi tôi hiểu hết. Chú Foley Can Đảm có thân hình cân đối,
đôi chân rắn chắc, đôi vai vạm vỡ và cơ bắp cuồn cuộn của thần Adonis, bức tượng
bằng đồng đứng sừng sững giữa ngã tư, gần viện St. Roderick. Chiếc áo khoác duy
nhất mà bức tượng Adonis có được là lớp bụi dày cộp có màu vàng đỏ.

Chúng
tôi cũng không có thời gian giải thích điều đó với ông Lão Làng, bởi cả bọn còn
đang mải quan sát mọi cử động của chú Foley khi chú lên xe và đạp chân nổ máy.
Không ai bảo ai, đứa nào đứa nấy phi như bay trên nền cát cứng chạy về phía thần
tượng của mình. Vừa nhìn thấy tụi tôi, chú với tay bóp còi inh ỏi, như muốn giục
tụi tôi hãy chạy nhanh hơn nữa, bởi chú ấy sắp sửa rời đi.

Chú
Foley quả là bản sao của tượng đài Adonis trong hình dạng con người. Cái xe máy
trông đồ sộ là thế khi Spark ngồi lên nhưng lại rất vừa vặn với thân hình cao lớn
của chú ấy. Năm đứa chúng tôi vây xung quanh, trầm trồ thán phục, xen lẫn chút
e dè.

Mỗi
lần từ viện St. Roderick đi bộ tới nhà thờ trung tâm, chúng tôi thường dừng lại
chiêm ngưỡng cái tượng đài lừng lững giữa ngã tư. Tượng thần Adonis ăn mặc giống
như một vị thần Hy Lạp, nhưng tay lại cầm một khẩu súng trường ở tư thế nghỉ.
Trông bức tượng lúc nào cũng như đang mỉm cười, nét mặt không thay đổi dưới mọi
thời tiết. Chúng tôi vẫn luôn muốn nhìn thật gần vào khuôn mặt ấy, và ước mơ đó
đã trở thành hiện thực khi chú Can Đảm mỉm cười với chúng tôi – nụ cười thân
thiện và ấm áp, đủ dành cho tất cả mọi người ở St. Roderick.

“Tất
cả leo lên đây nào!” – chú Foley khoát tay gọi, giọng sang sảng.


chúng tôi vẫn còn chưa hết ngất ngây khi được nhìn ngắm tận mắt thần tượng của
mình nên chẳng đứa nào hiểu được câu đó nghĩa là thế nào, cho tới khi chú bế bổng
Spark lên đặt vào giữa hai tay lái, Misty ngồi trên nóc bình xăng, còn Maps,
Fido và tôi yên vị trên yên ghế sau. Ba đứa chúng tôi đứng hết cả lên, một tay
ôm chặt lấy nhau, tay còn lại vòng quanh cổ chú Foley.

Tiếng
động cơ rồ lên và bánh xe bắt đầu lăn. Cả đám bám chặt lấy nhau khi xe bắt đầu
tăng tốc. Tấm biển Không Có Công Lý
nhảy nhót phía trước mặt chúng tôi. Khi mấy chú cháu gần tới bãi đá bên dưới
căn lều của ông Lão Làng, đột nhiên chú Foley quặt tay lái lao thẳng về phía
mép nước, lướt nhanh qua đám bọt trắng xóa, để lại đằng sau những vệt dài trên
nền cát ướt. Có lẽ đất bên dưới chân chúng tôi cũng đang bị rạn nứt. Ở phía
trên tay lái, Spark hò hét ầm ĩ vì phấn khích. Cậu ta lại mở phiên đấu giá
chăng? Không, cậu ra đang kêu chú Foley phóng nhanh hơn nữa. Và chú ấy đã làm
như vậy. Cuộc phiêu lưu của mấy chú cháu tụi tôi càng lúc càng nhanh, càng lúc
càng tiến xa khỏi mép nước. Ông già Lão Làng hai tay chống nạng, từ trên cao
nhìn xuống với ánh mắt muốn tóe lửa. Các thành viên của CLB lướt sóng đang ngồi
nhàn rỗi trên bờ.

Chưa
bao giờ chúng tôi được la hét đã đời như vậy. Chỉ tội nghiệp chú Foley, đang bị
sáu cánh tay siết chặt lấy cổ. Nhưng tất nhiên chú ấy không vì thế mà phàn nàn,
trái lại, chú ấy ngửa đầu cười vang khi thấy sự phấn khích của năm đứa tụi tôi.

Rất
lâu sau đó, khi chiếc xe dừng hẳn lại, chúng tôi mới cảm nhận được hơi nóng bốc
ra từ động cơ bên dưới. “Thấy đã chưa?” – chú Foley nháy mắt hỏi.

Với
tôi, Misty và Fido, có lẽ như thế là quá đủ, ba đứa nhảy khỏi xe, loạng choạng
như say rượu. Trong khi Maps vẫn ôm chặt lấy cổ chú Foley, Spark nhảy tưng tưng
trên tay lái đòi chú đi thêm vài vòng nữa. Nếu Misty, Fido và tôi biết trước được
điều sẽ xảy ra sau ngày hôm đó (điều mà tôi tình cờ nghe lỏm được trong đêm
giao thừa), có lẽ chúng tôi đã cố gắng bám trụ tới cùng.

Thay
vào đó, ba đứa chúng tôi leo lên bờ ngồi nghỉ. Ai cũng phải công nhận một điều:
chú Foley Can Đảm là một tay lái bậc thầy, một nhà vô địch.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3