Phân Tâm Học Nhập Môn - Chương 3 - Phần 01
Phần thứ ba: Thuyết tổng quát về
chứng bệnh thần kinh
Phân tâm học và thần kinh học
Tôi sung sướng khi lại
được tiếp tục câu chuyện với các bạn. Trước đây tôi đã nói cho các bạn nghe về
quan niệm phân tâm học của các hành vi sai lạc và giấc mơ. Ngày nay tôi muốn
các bạn làm quen với những hiện tượng chứng bệnh thần kinh, những hiện tượng
này có hơn một điểm tương đồng với những hành vi sai lạc cũng yêu cầu các bạn
có một thái độ như đối với các hiện tượng trên. Trước đây tôi không hề tiến
thêm một bước nào trước khi được sự đồng ý của các bạn; tôi đã thảo luận nhiều
và đã giải hết những điều thắc mắc của bạn; tôi đã tin cậy ở các bạn và lẽ phải
của các bạn để tiến được những bước tiến quyết định. Ngày nay sự việc không thể
xảy ra như thế nữa, bởi một lẽ rất thường: Hành vi sai lạc và giấc mơ đối với
các bạn không phải là những hiện tượng xa lạ gì, các bạn có thể cũng có những
kinh nghiệm giống như của tôi. Nhưng phạm vi chứng bệnh thần kinh đối với các
bạn hoàn toàn mới lạ. Nếu không phải là thầy thuốc các bạn chẳng làm sao biết
thêm được gì ngoài những điều tôi nói cho các bạn nghe, trong khi sự phán đoán
chỉ có giá trị khi người đưa ra phán đoán đó quen thuộc với các vật liệu được
đưa ra ánh sáng.
Tuy nhiên các bạn đừng
cho rằng tôi sẽ nói cho các bạn nghe những điều có tính giáo điều, tôi cũng
không bắt buộc các bạn phải đồng ý với tôi vô điều kiện, nếu các bạn tưởng lầm
thì sẽ xảy ra nhiều điều tai hại lắm. Tôi không hề có ý muốn bắt buộc ai công
nhận những điều mình nói, tôi chỉ muốn kích thích các bạn, làm tan những thành
kiến. Khi nào vì thiếu thốn tài liệu mà bạn không giải quyết được vấn đề gì, bạn
đừng vội tin, hay vứt bỏ ý tưởng này hay ý tưởng khác. Các bạn chỉ cần ngồi
nghe và lĩnh hội những điều nghe nói. Có được vài điều tin tưởng đâu phải là
chuyện dễ, những điều nào đến với mình một cách quá dễ dàng thường là những
điều chẳng có giá trị gì. Chỉ có những người nào dầy công làm việc đêm ngày
trong bao nhiêu năm ròng rã, tự mình làm đi làm lại biết bao nhiêu thí nghiệm
cá nhân mới mẻ, kỳ thú mới có quyền tự cho là mình biết được nhiều điều. Về
phương diện trí thức, những quan niệm hấp tấp, chớp nhoáng, những sự phán đoán
vội vàng dùng được gì? Những tiếng sét ái tình chỉ có trong phương diện tình
cảm thôi. Chúng ta không đòi hỏi thân chủ của chúng ta tin tưởng vào sự hiệu
nghiệm của phương pháp phân tâm học, hay đứng về phía chúng ta. Nếu họ làm như
thế chúng ta sẽ bị nghi ngờ, chúng ta chỉ yêu cầu họ có một thái độ bi quan
khoan hoà. Vậy các bạn hãy thử để cho thấm dần trong lòng mình những ý niệm về
phân tâm nào đó những quan niệm khác nhau này hòa hợp với nhau, liên kết với
nhau để hợp thành một quan niệm cuối cùng có tính quyết định.
Ngoài ra các bạn không
nên cho rằng điều tôi trình bày với các bạn về phân tâm học có một tính cách vụ
lợi nào. Đó chỉ là một sự kiện bắt nguồn ở thực nghiệm, một sự quan sát trực
tiếp hay hậu của những công trình quan sát hay thực nghiệm này. Chính những
tiến bộ đạt được trong lĩnh vực khoa học sẽ giúp chúng ta biết những công trình
khảo cứu của chúng ta đã đầy đủ chưa, có hợp lý không. Riêng tôi, dựa vào cuộc
sống khá dài và hai mươi lăm năm kinh nghiệm, tôi có thể cam đoan với các bạn
là tôi đã phải làm việc rất cần cù mới có thể có được một mớ kinh nghiệm xã
hội, quan điểm của tôi về môn phân tâm học. Tôi luôn luôn có cảm tưởng rằng
những đối thủ của tôi không nhận ra những điều đó, và cho rằng những ý kiến của
tôi chỉ là những ý kiến chủ quan có thể chống đối được dễ dàng. Tôi quả thực
không hiểu thái độ này. Có thể là các thầy thuốc ngại không muốn giao thiệp quá
thân mật với những thân chủ mắc bệnh thần kinh của họ, không thèm chú ý đến
những lời họ nói nên không thể lợi dụng được những điều này để tìm ra những
hiểu biết có giá trong việc trị liệu, không thể đưa ra được những điều quan sát
giúp cho họ đạt được những kết luận có tính cách tổng quát hơn. Tôi sẽ cố tránh
không đả động đến những sự cãi vã vô ích trong phạm vi những bài học này. Tôi
không tin là bút chiến có thể dùng được việc gì. Bút chiến chỉ là con đẻ của
lối lý luận giáo điều ngày xưa của người Hy Lạp, sở dĩ không thành công vì
người ta đã quá chú trọng đến lối biện chứng. Riêng tôi, tôi cho rằng những
cuộc bút chiến trong phạm vi khoa học chả đưa đến kết quả gì, cụ thể nhất là
chúng thường có khuynh hướng đề cao cá nhân. Từ trước tới nay, tôi chỉ có thảo
luận gay go với một nhà bác học thôi, đó là nhà bác học Lowenfeld ở Munich và
kết quả của cuộc thảo luận đó đã làm cho chúng tôi trở thành hai người bạn sau
khi đã là đối thủ của nhau. Vì không tin rằng những cuộc bút chiến sau này cũng
đưa đến kết quả khả quan như thế nên tôi đã không làm lại cuộc thí nghiệm.
Các bạn có thể cho
rằng thái độ lẩn tránh những cuộc bút chiến như thế chứng tỏ là mình không đủ
lý lẽ để bào chữa, hay một thái độ ngoan cố. Tôi trả lời nghi vấn đó là một khi
người ta đã dày công học hỏi khảo cứu để đưa ra một quan niệm khoa học, người
ta có đủ can đảm để tự bào chữa và giữ nguyên quan điểm của mình chống lại với
bất cứ trở lực nào. Tôi cũng cần thêm rằng, tôi đã nhiều lần hoàn bị quan điểm
của tôi, nhiều lần thay đổi ý kiến và lần nào cũng công bố những sự thay đổi đó
công khai trước mắt mọi người. Hậu quả của sự thành thực đó ra sao các bạn có
biết không? Có người không hề chú trọng đến những điều thay đổi đó và tiếp tục
chỉ trích tôi về những quan điểm mà tôi không còn giữ nữa. Người khác lại cho
rằng thay đổi như thế chứng tỏ là người ta không thể tin cậy nơi tôi được, vì
kẻ nào luôn luôn thay đổi quan niệm của mình thì không đáng được tin cậy và
những điều thay đổi này cũng chẳng có giá trị gì hơn những điều đưa ra từ
trước. Nhưng kẻ nào cứ giữ nguyên quan niệm của mình từ đầu đến cuối lại bị
chính những người đó cho là ngoan cố, cứng đầu cứng cổ. Đứng trước hai thái độ
đó, tôi thấy chẳng còn gì khác hơn là “đường ta ta cứ đi”. Tôi nhất định cứ
tiếp tục con đường đã vạch sẵn, không có điều gì ngăn cấm tôi thay đổi một vài
quan điểm tuỳ theo đà tiến triển của khoa học, mặc dù vẫn giữ nguyên những ý
tưởng căn bản trong môn phân tâm học.
Tôi có bổn phận trình
bày cho các bạn nghe về quan điểm của môn phân tâm học về các hiện tượng náo
loạn thần kinh. Tôi sẽ nói đến những điểm tương đồng và trái ngược giữa những
hiện tượng này và những hiện tượng đã học phần trên. Lấy thí dụ về một triệu
chứng thường có trong số thân chủ, chúng ta sẽ không để ý đến những điều khổ
não trong phân tâm học không thể bảo thân chủ của họ là họ chẳng có bệnh tật gì
hết rồi cho họ một liều thuốc bổ. Một trong các bạn đồng nghiệp của tôi khi
được hỏi về thái độ nên có đối với các thân chủ đã trả lời là “Tôi yêu cầu họ
trả tôi một số tiền là bao nhiêu đó”. Vì thế cho nên những bác sĩ hành nghề
phân tâm học thường không có nhiều thân chủ. Cửa phòng khám bệnh của tôi thường
bọc bằng cao su và có hai lần cửa. Làm như thế không phải là không có ý nghĩa
đâu. Khách hàng vào phòng khám bệnh thường quên đóng cửa phòng. Tôi luôn luôn
nhắc họ phải đóng cửa phòng lại bất kể địa vị của họ trong xã hội ra sao. Đó quả
là một điều khó chịu vì phần lớn họ là những người từ trước tới nay chưa hề giơ
tay ra sờ vào quả đấm cửa bao giờ, vì họ luôn luôn có người mở cửa cho họ ra
vào. Nhưng dù sao tôi làm thế vẫn là phải vì kẻ nào vào phòng mà không đóng cửa
thường là những kẻ không được giáo dục hẳn hoi và chúng ta không có lý do gì
gượng nhẹ đối với họ. Các bạn đừng vội phán đoán trước khi biết rõ câu chuyện.
Thân chủ chỉ không đóng cửa phòng khi trong phòng đợi không có ai cả thôi.
Nhưng khi trong phòng đợi có người là thế nào họ cũng đóng cửa rất kỹ, vì họ
không muốn cho người khác nghe được những điều họ sắp nói với ông thầy thuốc.
Như thế tức là việc
thân chủ không đóng cửa phòng khám bệnh không phải là việc ngẫu nhiên, không
phải là không có ý nghĩa, không phải là không có một tầm quan trọng nào đó.
Thân chủ thường là những người muốn nổi tiếng, muốn được người đời săn sóc. Họ
thường gọi điện hỏi trước xem có thể đến vào giờ nào và tưởng tượng như có hàng
dãy dài người đang đứng chờ trước cửa phòng khám bệnh. Nhưng khi đến nơi họ chỉ
gặp một căn phòng trống rỗng, đồ đạc rất tầm thường. Họ bực mình, tỏ vẻ khinh
thường ông thấy thuốc bằng thái độ không thèm đóng cửa có vẻ như muốn bảo thẳng
ông thầy này: “Đóng cửa làm gì khi chẳng có ma nào trong phòng đợi”, rồi trong
lúc khám bệnh họ thường tỏ vẻ vô lễ ngang bướng.
Phân tích thái độ này,
chúng ta không biết gì hơn những điều đã biết rồi, nghĩa là thái độ đó không
phải ngẫu nhiên, mà có một ý nghĩa, lệ thuộc vào một toàn thể tinh thần nhất
định, dấu hiệu của một trạng thái tinh thần quan trọng. Không một thân chủ nào
lại thú nhận rằng họ có ý muốn tỏ ra vô lễ với ông thầy thuốc, điều đó chứng tỏ
rằng họ không hề có ý thức về việc mình làm. Có thể có người thú nhận rằng họ
đã thất vọng khi nhìn thấy căn phòng đợi vắng như chùa bà Đanh, nhưng điều chắc
chắn là họ không ý thức về thái độ của họ.
Tôi so sánh thái độ
này với một điều quan sát được nơi một thân chủ khác. Sự quan sát này hết sức
mới mẻ có thể được kể lại một cách vắn tắt tuy trong môn phân tâm học nhiều khi
khó lòng tránh được những lối kể chuyện dài dòng.
Một sĩ quan trẻ tuổi
yêu cầu tôi chữa bệnh cho bà mẹ vợ. Bà này tuy sống trong một hoàn cảnh hết sức
sung sướng nhưng vẫn đầu độc cuộc sống của mình và của người khác bằng một
thiên kiến chẳng có nghĩa lý gì. Bà ta khoảng chừng 53 tuổi, còn giữ được vẻ
đẹp ngày xưa, dáng điệu niềm nở, dễ chịu, vui vẻ, giản dị. Bà kể cho tôi nghe
chuyện của bà, bà sống rất sung sướng bên cạnh chồng, một ông Giám đốc một cơ
xưởng, bà chả có điều gì phàn nàn về thái độ của chồng đối với mình. Hai người
lấy nhau vì tình đã 30 năm nay, không hề xảy ra cãi cọ, ghen tuông gì. Hai
người con đã lập gia đình, người chồng chưa hề có ý định về hưu. Nhưng cách đây
một năm có một việc không tưởng tượng nổi xẩy ra. Bà ta nhận được một bức thư
nặc danh tố cáo chồng bà dan díu với một người con gái khác. Hạnh phúc gia đình
bắt đầu tan rã từ khi đó. Cuộc điều tra cho biết có một chị bồi phòng của bà
ghét cay ghét đắng một người bạn cũ tuy cũng sinh ra trong hoàn cảnh nghèo nàn
như mình nhưng đã thành công hơn mình, thay vì đi ở đợ như mình người bạn này
đã học hỏi và trở thành một người thư ký trong xưởng của chồng bà chủ. Tổng
động viên đã thu hút ra mặt trận một số nhân viên trong xưởng người bạn trở nên
một nhân vật quan trọng, được ăn ở ngay trong xưởng, giao thiệp với các ông tai
to mặt lớn được mọi người trọng vọng. Mụ hầu phòng tức bực tìm hết cách nói xấu
người bạn cũ. Một hôm nhân dịp một ông khách ly thân với vợ, đang sống chung
với tình nhân đến chơi, bà chủ nói cho mụ hầu phòng nghe là ở địa vị bà ta chắc
bà ta không chịu nổi cảnh chồng có tình nhân như thế. Sáng hôm sau bà ta nhận
được bức thư nặc danh nói trên. Bà ta đồ chừng tác giả bức thư chính là mụ hầu
phòng vì bà biết mụ này ghét cay ghét đắng cô thư ký. Nhưng bà ta vẫn bị cái
thư đó ám ảnh, bà nổi trận lôi đình, xỉ vả chồng rất thậm tệ. Ông chồng tươi
cười cố trấn tĩnh vợ, nhờ hai vị bác sĩ trong gia đình và ở xưởng đến trấn tĩnh
giúp mình. Mụ hầu phòng bị đuổi, người thư ký vẫn giữ nguyên địa vị cũ. Người
vợ luôn luôn tuyên bố rằng mình không còn nghi ngờ gì và không để ý đến bức thư
nữa. Nhưng đó chỉ là bề ngoài, mỗi khi nghe nói đến tên người con gái hay gặp
người này ngoài phố là bà ta lại nổi trận lôi đình ghen tuông, bực tức.
Câu chuyện như thế đó,
chả cần phải có nhiều kinh nghiệm về thần kinh mới thấy là bà ta luôn luôn tìm
cách giấu giếm tình cảm thực của mình và trong thâm tâm, bà ta không hề rứt bỏ
được lòng tin nơi bức thư nặc danh kia.
Thái độ của nhà thần
kinh học đứng trước sự việc này ra sao? Thái độ này khác hẳn với thái độ đối
với thân chủ không đóng cửa phòng khám bệnh. Nhà thần kinh học không cho thái
độ không đóng cửa là quan trọng về phương diện tâm lý, đó chỉ là một sự ngẫu
nhiên. Nhưng đứng trước người đàn bà ghen tuông này thì khác. Hành động của
người này không quan trọng, nhưng triệu chứng của căn bệnh mới đáng để ý. Về
phương diện chủ quan, triệu chứng này làm cho người đàn bà đau đớn khổ sở; về
phương diện khách quan triệu chứng đó đe dọa hạnh phúc của một gia đình. Do đó
nhà thần kinh học không thể không quan tâm đến. Nhà thần kinh học trước hết tìm
cách xác định hiện tượng bằng một trong các tính chất thực sự của nó. Người đàn
bà không phải là không có lý khi nghi ngờ người chồng. Vì kinh nghiệm cho thấy
có nhiều người đàn ông tuy đã có vợ mà vẫn có những cô nhân tình trẻ. Nhưng có
một vài điều khác không tưởng tượng được, như có vẻ vô nghĩa lý. Ngoài những
điều nói trong thư nặc danh, người đàn bà không có lý do nào khác để nghi ngờ
chồng. Bà ta biết rõ nguồn gốc của bức thư và bức thư quả thực không đáng tin
chút nào. Vậy đáng lẽ bà ta phải cho rằng mình không có lý do gì để ghen tuông
cả. Chính bà cũng tự nhủ như thế. Tuy nhiên, bà vẫn không thể không đau đớn
chẳng khác gì có đủ chứng cớ là chồng mình ngoại tình thực. Y học gọi đó là
những ý kiến ám ảnh, nghĩa là những ý kiến bỏ ngoài tai mọi lý lẽ hợp lý, đúng
sự thực. Bà khách này quả đang bị lòng ghen ám ảnh. Đó là đặc tính thiết yếu
của trường hợp này.
Sau nhận xét đầu tiên
này, nhà thần kinh học còn quan tâm đến một sự kiện khác nữa. Nếu sự ám ảnh bỏ
ngoài tai hết mọi sự thực thì tức là nó không bắt nguồn ở sự thực. Vậy nó bắt
nguồn ở đâu? Những trường hợp ám ảnh nhiều không tả. Tại sao ở đây lại là sự
ghen tuông? Nhà thần kinh học chẳng có gì nói với chúng ta về điểm này cả. Ông
ta chỉ quan tâm đến một trong các câu hỏi của chúng ta thôi. Ông ta sẽ tìm hiểu
về di truyền của người bệnh và có lẽ sẽ trả lời rằng: “Sự ám ảnh chỉ xảy ra đối
với những người có tính cách di truyền. Nghĩa là có những người cha, ông đã bị
chứng bệnh đó.” Nói khác đi, nếu người đàn bà này bị ám ảnh là vì bà ta đã có
sẵn trong máu sự di truyền. Lời giải thích này quả rất thú vị nhưng có giải hết
những điều thắc mắc không? Có còn nguyên nhân nào khác nữa không? Thường thường
sự ám ảnh hay xảy ra đối với sự ghen tuông hơn đối với các sự khác; điều này có
phải là một sự ngẫu nhiên không? Có tính cách võ đoán không? Có thể giải thích
được không? Và có phải một khi một người đã bị ám ảnh rồi thì không làm sao cho
người đó thoát khỏi sự ám ảnh đó không? Tại sao nhà thần kinh học không giảng
giải rõ hơn cho chúng ta biết? Trả lời câu hỏi này chúng ta có thể nói: kẻ nào
cho hơn cái gì mình có là không lương thiện. Nhà thần kinh học không có phương
tiện đi sâu này, nên chẳng thể làm gì hơn là đưa ra một lời đoán bệnh không có
gì chắc chắn.
Thế môn phân tâm học
có làm được gì hơn không? Tất nhiên là có. Ngay cả trong trường hợp khó khăn
này chúng ta cũng có thể đưa ra những sự kiện giải thích được. Chúng ta cần để
ý đến chi tiết nhỏ nhặt có vẻ không quan trọng là chính người đàn bà đã là
nguyên nhân gây ra bức thư nặc danh đó: chính bà ta hôm trước đã phàn nàn với
mụ hầu phòng là mình sẽ khổ sở vô cùng khi biết chồng có nhân tình. Nói câu đó
chính bà ta đã gợi ý cho mụ hầu phòng gửi bức thư nặc danh. Vậy sự ám ảnh không
hề dính dáng gì đến bức thư cả, nó đã có từ trước trong tình trạng một mối lo
âu (hay một sự ham muốn). Thêm vào đó một vài sự kiện do tôi tìm ra sau hai giờ
đồng hồ phân tích. Sau khi nghe kể chuyện xong, tôi hỏi bà ta một vài điều
nhưng bà ta không sẵn sàng trả lời. Bà nói rằng, bà chẳng có điều gì cần nói
nữa và sau hai giờ nói chuyện bà tuyên bố là bà khỏi bị ám ảnh rồi, thấy trong
người khỏe khoắn dễ chịu. Tất nhiên bà
nói như thế vì cuộc nói chuyện tiếp tục. Nhưng trong hai giờ đó bà khách đã để
lộ một vài điểm giúp cho ta hiểu rõ tình trạng của bà. Bà có cảm tình đặc biệt
với một chàng trẻ tuổi, người con rể đã nhờ đến tôi săn sóc bà. Bà không hề có
ý thức gì về cảm tình đó, vì là mẹ vợ và chàng rể nên mối cảm tình biến thành
một tấm lòng âu yếm rất dễ hiểu. Chúng ta đủ kinh nghiệm để đi sâu vào cuộc đời
tinh thần của người đàn bà rất tốt này. Cảm tình của bà đối với con rể kinh
khủng quá nên không thể có trong ý thức bà ta được, nhưng nó vẫn tiềm tàng
trong vô thức và thúc đẩy mạnh mẽ ghê gớm. Bà cần có một cái gì để thoát khỏi sự
ám ảnh đó, chính sự di chuyển đề tài đã giúp bà giải quyết được vấn đề. Bà lý
luận là trong khi mình có thể yêu một chàng trẻ tuổi được thì không có lý do
nào khiến cho chồng mình lại không yêu một cô gái. Do đó bà không còn hối hận
về tình yêu của mình nữa. Việc chồng phụ tình mình như một liều thuốc an thần
dán trên một vết thương nóng bỏng. Vì không ý thức được tình yêu của mình nên
bà bị ám ảnh bởi hình bóng của tình yêu này, một bóng dáng mà bà cho là rất có
lợi cho mình. Mọi lý lẽ đưa ra đều không có hiệu quả gì vì chúng đâu có nhằm
đúng mục tiêu, chỉ nhằm vào cái mẫu của mục tiêu đó thôi, chính cái mục tiêu
này nấp trong vô thức truyền cho cái mẫu bên ngoài sức mạnh của mình.
Chúng ta hãy tóm tắt
lại những dữ kiện thu lượm được trong việc phân tích này rồi dựa vào đó tìm
hiểu trường hợp của bà khách. Dữ kiện thứ nhất: ý cố định không phải là một thứ
gì vô lý, không hiểu được, ý đó có ý nghĩa, có lý do, lệ thuộc vào một biến cố
tình cảm trong đời sống người bệnh. Dữ kiện thứ hai ý cố định này là một sự kiện
cần thiết, phản ứng chống lại một sự hoạt động tinh thần vô thức mà chúng ta
đưa ra ánh sáng được nhờ một vài dấu hiệu khác. Chính vì có dây liên lạc với vô
thức mà ý đó mới có tính cách ám ảnh, mới chống lại mọi lý luận hợp lý, đúng
với sự thực. Ý đó còn là một niềm an ủi đối với người bệnh nữa. Dữ kiện thứ ba:
nếu hôm trước người bệnh kể lể tâm tình với mụ hầu phòng chính là vì bà ta đã
bị thúc đẩy bởi tình yêu thầm kín đối với con rể, tình yêu này chính là bức
phông che lấp hậu trường căn bệnh. Trường hợp này giống triệu chứng được phân
tích trong phần trên ở nhiều điểm, vì ở cả hai nơi chúng ta đều tìm ra được ý
nghĩa hay ý muốn của sự biểu thị tinh thần, những liên quan giữa chúng ta và
một yếu tố vô thức.
Tất nhiên chúng ta
chưa giải quyết được một thắc mắc trong vấn đề trên. Còn nhiều vấn đề chưa tìm
ra được giải pháp. Có những vấn đề không giải quyết nổi vì một vài điều kiện
đặc biệt khó khăn. Tại sao người đàn bà được chồng chiều chuộng này lại đi yêu
con rể? Tại sao niềm an ủi lại không có một hình thức khác hơn là bóng dáng, là
sự di chuyển về phía người chồng một tình trạng đặc biệt của người bệnh? Những
vấn đề đó có phải là những vấn đề gai góc không? Chúng ta có nhiều tài liệu để
trả lời những câu hỏi đó. Người đàn bà này có thể đã đến tuổi hồi xuân và cần
được thỏa mãn tình dục: riêng một sự kiện này có lẽ cũng đã giải thích được
nhiều. Có thể là ông chồng không có đủ sức cung phụng cho bà vợ về phương diện
sinh lý. Những người chồng như thế thường tỏ ra âu yếm đối với vợ và rất khoan
dung đối với tính nết cáu kỉnh của vợ. Việc người bệnh yêu con rể không phải là
không có ý nghĩa. Chính vì quá yêu con gái, yêu một cách say mê như người con
trai yêu con gái. Nên tình yêu đó đã biến thể thành tình yêu người con rể. Tôi
tưởng chẳng cần nhắc lại các bạn rằng những sự giao hợp giữa mẹ và con rể
thường bị phê phán thực gắt gao trong xã hội, ngay cả trong thời cổ những sự
loạn luân này cũng bị trừng trị ghê gớm. Sự loạn luân này vượt quá mức luân lý
mà xã hội có thể chịu đựng được. Vì không thể tiếp tục khảo sát sau hai giờ nói
chuyện nên tôi không thể nói rõ trong ba yếu tố nói trên, yếu tố nào đã giữ
phần quan trọng quyết định, một trong ba yếu tố đó, hay hai, hay cả ba cùng một
lúc.
Đó là những điều mà
tôi chưa sửa soạn kỹ càng cho các bạn hiểu. Tôi chỉ có ý so sánh giữa hai môn
thần kinh học và phân tâm học thôi. Các bạn có thấy hai môn này phản đối nhau
trong điểm nào không? Thần kinh học không áp dụng phương pháp kỹ thuật của phân
tâm học, không để ý đến ý tưởng cố định, chỉ cốt chứng minh rằng di truyền
chính là nguyên nhân gần hay xa của căn bệnh chứ không tìm những nguyên nhân
đặc biệt và gần hơn. Nhưng đó có phải là điều trái ngược không? Các bạn không
thấy rằng hai môn đó không hề trái ngược nhau mà còn bổ túc cho nhau nữa sao?
Hai yếu tố di truyền và biến cố tinh thần cũng thế, không hề xa nhau, trái lại,
lại cộng tác với nhau chặt chẽ để đạt cùng một mục đích. Thần kinh học không
thể đưa ra một lý lẽ gì để phản đối phân tâm học hết. Chính nhà chuyên môn về
thần kinh học chứ không phải môn thần kinh học chống đối với môn phân tâm học.
Đối với thần kinh học, phân tâm học ở vào địa vị của môn học đối với giải phẫu
học: một đằng khảo cứu về hình thể bên ngoài của cơ quan, một đằng khảo cứu mô
và tế bào cấu thành các cơ quan. Không thể có mâu thuẫn giữa hai môn này được
vì môn này tiếp tục công việc của môn kia. Hiện nay giải phẫu học là môn căn
bản của khoa học y khoa nhưng có một thời người ta đã cấm không cho mổ xẻ xác
chết để khảo cứu về sự cấu thành các cơ quan bên trong cơ thể, cũng như bây giờ
người ta đang kết án những người muốn khảo cứu về phân tâm học để tìm hiểu sự
hoạt động của tinh thần. Nhưng mọi sự đều có vẻ hướng về một tương lai gần đây,
trong đó muốn khảo cứu hữu hiệu về thần kinh học chúng ta phải biết rõ về những
sự hoạt động bên trong và vô thức của đời sống tinh thần.
Môn phân tâm học
thường bị chỉ trích ghê gớm, có thể gây được cảm tình của một số các bạn vui
mừng nhìn thấy ở đó một phương pháp trị bệnh. Nhưng phương tiện hiện thời của
môn thần kinh học không có tác dụng gì đối với những ý cố định. Môn phân tâm
học có thành công hơn về phương diện này không? Không, phân tâm học cũng như
mọi môn trị liêu khác không có tác dụng đối với những ý kiến này. Hay ít nhất
cũng trong tình trạng hiện thời chúng ta có thể dùng phân tâm học tìm hiểu
những sự gì xảy ra ở người bệnh, nhưng không có tác dụng đối với những ý kiến
này. Hay ít nhất cũng trong tình trạng hiện thời, chúng ta có thể dùng phân tâm
học tìm hiểu những sự gì xảy ra ở người bệnh, nhưng không có phương tiện nào
làm cho người bệnh hiểu được chính mình. Trong trường hợp nói trên tôi đã không
thể đi quá sâu sau hai giờ nói chuyện. Có phải là sự phân tích vì không đưa đến
kết quả gì cụ thể nên phải bỏ đi không? Tôi không nghĩ thế. Chúng ta có quyền
và có bổn phận tiếp tục, công việc dù chưa đạt được mục đích gì hữu ích ngay
trước mắt. Sau cùng chúng ta không biết khi nào và tại đâu những điều hiểu biết
rất ít ỏi của chúng ta biến thành một phương pháp điều trị. Dù môn phân tâm học
bị bó tay trước những chứng bệnh thần kinh khác cũng như trước những ý kiến cố
định, môn đó vẫn tỏ ra không có gì thay thế được trong công cuộc khảo cứu khoa
học. Chúng ta chưa có đủ điều kiện hoạt động. Ngay chính những người chúng ta
đang tìm hiểu, những người còn sống hẳn hoi và có lý do cần giúp đỡ, chúng ta
cũng từ chối không chịu cộng tác. Vì thế cho nên tôi không muốn chấm dứt những
bài học này mà không nói cho các bạn biết rằng, có nhiều loại rối loạn thần
kinh mà chúng ta có thể trị được sau khi tìm hiểu rõ ràng hơn và môn phân tâm
học, với một vài điều kiện có thể thu lượm được những kết quả khả quan chẳng
kém gì những kết quả thu lượm được trong các môn khoa học khác.