Phân Tâm Học Nhập Môn - Chương 2 - Phần 01
Phần thứ hai: Giấc mơ
Những khó khăn đầu tiên
Một hôm loài người tìm ra rằng những triệu
chứng bệnh hoạn của những người thần kinh không vững, chắc chắn có một ý nghĩa.
Đó là điểm khởi đầu của phương pháp trị bệnh bằng phân tâm học. Trong lúc chữa
chạy người ta thấy rằng các người bệnh thường coi những giấc mơ như những dấu
hiệu chứng bệnh hoạn. Vì thế người ta đồn rằng những giấc mơ đó cũng có một ý
nghĩa gì.
Đáng lẽ phải theo thứ tự lịch sử trong công
việc khảo sát, chúng ta lại bắt đầu bằng cách đi từ dưới lên trên, từ sau ra
trước. Để chuẩn bị cho việc khảo sát các bệnh thần kinh chúng ta tìm hiểu ý
nghĩa của những giấc mơ. Sở dĩ chúng ta có thể đảo lộn trật tự trước sau như
thế là vì giấc mơ không những giúp nhiều trong công việc chuẩn bị khảo sát về
bệnh thần kinh mà giấc mơ còn là một triệu chứng của bệnh thần kinh này. Đó là
một triệu chứng rất tốt vì chúng ta có thể quan sát thấy gần như ở khắp mọi
người kể cả những người sức khỏe bình
thường. Khảo sát những người khỏe mạnh
bình thường mà nằm mơ, chúng ta cũng thu lượm được những kết quả như khi khảo
sát người mắc bệnh thần kinh.
Chính vì thế nên giấc mơ trở thành đối
tượng khảo sát của môn phân tâm học. Giấc mơ là một hiện tượng tầm thường, một
hiện tượng không được coi là quan trọng, bề ngoài có vẻ chẳng có giá trị thực
tế gì, cũng như những người khỏe mạnh
bình thường, vì thế nên giấc mơ không hiến cho chúng ta những điều kiện khảo
sát có giá trị. Những hành vi sai lạc không được khoa học để ý đến và mọi người
chỉ hơi để ý đến thôi; nhưng dù sao khảo sát các hành vi sai lạc này chả có gì
đáng xấu hổ, người ta có thể tự nhủ là những hành vi sai lạc cũng có thể hiến
cho chúng ta những dữ kiện để khảo sát những công trình quan trọng hơn. Nhưng
khảo sát các giấc mơ thường được coi như làm một công việc chẳng có ích lợi gì
trong thực tế đã vô ích mà còn bị coi như một trò giải trí đáng xấu hổ nữa, một
công việc phản khoa học chứng tỏ người muốn khảo sát là một người muốn làm một
chuyện thần bí. Làm sao một bác sĩ lại có thể khảo sát về giấc mơ được trong
khi môn bệnh lý thần kinh học và môn thần kinh học hiến cho chúng ta những hiện
tượng đúng đắn hơn nhiều: những cái nhọt bọc trong cơ năng thần kinh hệ, những
sự xuất huyết, những chứng viêm mạn v v... không được! Giấc mơ là một thứ vô
nghĩa không đáng cho chúng ta khảo cứu.
Ngoài ra giấc mơ còn là một thứ gì phản
trái hẳn với những đòi hỏi của khoa học, mà nhà khảo cứu không thể có một yếu
tố gì chắc chắn. Ví dụ như một ý tưởng cố chấp cũng có những giới hạn rõ ràng.
Một người bệnh tuyên bố rầm rĩ: “Tao là Hoàng đế nước Trung Hoa đây.” Chứ còn
giấc mơ! Nhiều khi người ta không kể cho ta nghe giấc mơ nữa. Khi một người kể
cho ta nghe giấc mơ của họ, có gì chứng tỏ rằng những điều anh ta kể là đúng,
rằng trong khi kể anh ta lại không tìm cách phóng đại ra, có gì chứng tỏ anh ta
lại không thêm thắt một vài điều tưởng tượng bởi vì anh ta không nhớ rõ. Đó là
chưa nói đến chuyện nhiều khi người ta không nhớ lại cả giấc mơ nữa, chỉ nhớ
được một vài mảnh vụn chả có nghĩa lý gì. Vậy mà, người ta tạo lập cả một khoa
học tâm lý và một phương pháp trị bệnh trên những nền móng mỏng manh như thế?
Chúng ta bao giờ cũng nên ghi nhớ những lý
luận hơi quá đáng. Quả là những điều đưa ra để bài bác giấc mơ có đi hơi quá
xa.. Người ta bảo rằng những giấc mơ có một ý nghĩa chả có gì. Thì chúng ta
chẳng có cơ hội để trả lời bài bác tương tự như thế rồi sau khi khảo cứu các
hành vi sai lạc sao? Lúc đó chúng ta đã tự nhủ là những việc quan trọng nhiều
khi cũng được phát hiện bằng những dấu hiệu rất tầm thường. Còn việc giấc mơ có
tính cách mơ hồ thì đó cũng chỉ là một đặc tính như những đặc tính khác; chúng
ta làm sao có thể bắt buộc sự việc phải có những đặc tính mà chúng ta muốn. Vả
lại cũng có những giấc mơ rõ ràng và có giới hạn nhất định. Ngoài ra chính
những nhà thần kinh học cũng khảo sát những hiện tượng cũng có tính chất mơ hồ
như thí dụ những trường hợp có những ý tưởng cố chấp mà nhiều vị bác sĩ thần
kinh học nổi tiếng thường khảo cứu. Tôi nhớ đến một trường hợp đã gặp trong
thời kỳ chữa bệnh. Người bệnh bắt đầu kể chuyện cho tôi nghe: “Tôi có cảm tưởng
muốn làm hại một sinh vật nào đó.. Hại một đứa trẻ con! Không phải, hình như là
hại một con chó thì phải. Tôi có cảm tưởng là vừa vứt một con chó xuống sông
hay làm gì cho nó bị đau đớn lắm.” Để sửa chữa tính cách mơ hồ của những giấc
mơ, chúng ta phải nói ngay là chúng ta chỉ coi là những giấc mơ những điều mà
người nằm mơ kể lại cho chúng ta nghe thôi chứ không để ý đến việc người đó có
thể nhớ không kỹ hay sửa đổi những điều anh ta nhớ lại. Sau cùng người ta không
có quyền cho rằng giấc mơ là một hiện tượng không quan trọng. Ai cũng đều biết
có những trường hợp trong đó căn bệnh bắt đầu bằng một giấc mơ và người bệnh cứ
giữ mãi một ý tưởng bắt nguồn trong giấc mơ. Người ta kể rằng có nhiều nhân vật
lịch sử đã tìm thấy trong giấc mơ động lực thúc đẩy mình làm nên những chuyện
to tát. Vì thế chúng ta có thể tự hỏi xem sự coi khinh các giấc mơ trong giới
khoa học bắt nguồn từ đâu?
Tôi cho rằng nó bắt nguồn ở chỗ ngày xưa
người ta lại gán cho những giấc mơ một tầm quan trọng quá đáng. Ai cũng biết là
chúng ta không thể dễ dàng quay trở lại quá khứ nhưng chúng ta có thể không
ngần ngừ gì mà không cho rằng tổ tiên của chúng ta cách đây hai ngàn năm hay
hơn nữa cũng nằm mơ như chúng ta vậy. Theo chỗ chúng ta biết thì tất cả những
dân tộc cổ xưa đều gán cho các giấc mơ giá trị rất cao và coi những giấc mơ như
một thứ gì có thể dùng được việc, ví dụ như dùng để đoán trước tương lai hay
coi đó là một điềm báo trước một sự gì. Đối với người Hi lạp ngày xưa cũng như
đối với một số người dân tộc Phương Đông, đi đánh trận mà không đem theo những
người chuyên môn giải các giấc mơ là việc không thể có được, cũng như ngày nay
chúng ta đi đánh trận mà không có máy bay trinh sát. Khi Đại đế Alexandre đi
chinh phục mọi nơi, bao giờ ngài cũng đem theo những nhà chuyên môn giải các
giấc mơ nổi tiếng nhất. Trong cuộc tấn công thành Tyr, trước sức chống giữ mãnh
liệt của thành này, nhà vua định không bao vây nữa, nhưng đột nhiên nằm mơ thấy
một con quỷ nhảy nhót điên cuồng. Người thầy bói đoán rằng đó là một điềm chiến
thắng. Vua liền ra lệnh tiếp tục tấn công và hạ được thành. Dân tộc Etrusques
và La Mã tuy có dùng những phương pháp khác nhau để dự đoán tương lai nhưng
cũng dùng những giấc mơ trong suốt thời gian La Hy. Về vấn đề này chúng ta chỉ
còn giữ lại được một cuốn Artémidore ở Ephesé từ thời Hoàng đế Adrien.
Tại sao nghệ thuật đoán mộng lại suy sụp và
những giấc mơ không còn được tin cậy nữa? Tôi chịu không thể nói cho các bạn
nghe được. Người ta có thể cho rằng học vấn chính là nguyên nhân của sự suy sụp
và coi khinh nó vì Thời trung cổ hãy còn giữ lại được những điều khó hiểu gấp
bội sự đoán mộng. Nhưng sự thực là giấc mơ dần dần trở thành một thứ mê tín dị
đoan chỉ còn được những kẻ vô học để ý đến mà thôi. Mãi tận ngày nay người ta
vẫn hay còn tin tưởng vào giấc mơ để mua vé số. Trái lại khoa học ngày nay lại
càng để ý đến những giấc mơ, nhưng với ý định áp dụng vào đó những lý thuyết về
tâm lý học. Các thầy thuốc coi giấc mơ không phải là một hoạt động tinh thần
nhưng là một sự phát biểu của các sự kích thích về cơ thể có dính dáng đến tinh
thần. Năm 1987, Binz tuyên bố rằng “giấc mơ là một sự hoạt động của thể xác,
chẳng có ích lợi gì nhiều khi còn có tính cách bệnh hoạn nữa. Đối với linh hồn
bao quát và sự bất tử, giấc mơ ở vào địa vị của một mảnh đất cát đầy cỏ dại, dưới
một cái vực nào đó với bầu không khí trong xanh trên nền trời cao vút”. Maury
coi giấc mơ như những sự nhảy nhót điên cuồng của vũ điệu Saint Guy, trái với
những hành động có trật tự của những con người bình thường. Ngày xưa người ta
còn so sánh những giấc mơ với những thanh âm do một người thông thạo về âm nhạc
phát ra trên phím đàn.
Giải thích tức là tìm những ý nghĩa chưa rõ
rệt: nhưng người ta không thể nói đến chuyện giải thích các giấc mơ khi người
ta khinh chúng như thế. Các bạn hãy đọc trong tác phẩm của Wund, Jodt và các
triết gia khác: tất cả đều chỉ liệt kê những điểm khác nhau giữa giấc mơ và
tình trạng thức, hay chú ý đến những sự phân hóa của các liên tưởng, sự biến
mất của trí óc phê bình, của mọi trí thức và những dấu hiệu tỏ ra rằng giấc mơ
không có giá trị gì hết. Khoa học chỉ đóng góp vào việc tìm hiểu giấc mơ bằng
mỗi một điểm, đó là việc xét ảnh hưởng của những sự kích động về cơ thể trong
khi ngủ đối với nội dung giấc mơ. Một tác giả người Na uy đã để lại cho chúng
ta hai cuốn sách về những thí nghiệm về giấc mơ liên quan đến các kết quả của
sự chuyển động chân tay thôi. Người ta cho rằng những công trình khảo cứu đó là
những công trình có giá trị về giấc ngủ. Nhưng khoa học sẽ nói thế nào nếu biết
rằng chúng ta đang tìm hiểu ý nghĩa của những giấc mơ? ý kiến của khoa học ra
sao thì mình đã biết rồi, nhưng tôi không hề thấy nản lòng trước ý kiến đó. Một
khi các hành vi sai lạc cũng có một ý nghĩa thì chẳng có gì ngăn cản các giấc
mơ cũng có một ý nghĩa và trong nhiều giấc mơ chúng ta đã thấy là quả thực là
chúng có một ý nghĩa mà khoa học không tìm ra được. Vì vậy chúng ta hãy công
nhận làm của riêng của chúng ta và cái quan niệm của người xưa về các giấc mơ,
và chúng ta hãy đi lại con đường của họ về cách đoán mộng.
Trước hết, chúng ta phải tìm hướng đi cho
công việc của chúng ta và duyệt lại phạm vi của giấc mơ. Vậy giấc mơ là gì?
Thực khó trả lời câu hỏi đó bằng một định nghĩa. Vì thế nên chúng ta sẽ không
cố gắng đưa ra một định nghĩa trong khi không ai là người không biết đến giấc mơ
cả. Nhưng chúng ta phải đưa ra ánh sáng những đặc tính của giấc mơ. Nhưng tìm
đâu ra bây giờ? Trong phạm vi các giấc mơ có biết bao nhiêu thứ. Những đặc tính
cần thiết chúng ta nêu ra sẽ là những đặc tính chung cho mọi giấc mơ.
Đặc tính chung thứ nhất là chúng ta chỉ nằm
mơ khi chúng ta ngủ thôi. Dĩ nhiên những giấc mơ chỉ là một sự hoạt động của
tinh thần trong khi ngủ, và nếu đời sống tinh thần này có một vài điểm gì giống
như đời sống trong trạng thái thức tỉnh thì trái lại cũng có những điểm khác với
đời sống này. Đó là định nghĩa của Aristote. Giữa giấc ngủ và giấc mơ có thể có
những liên quan chặt chẽ. Nhiều khi chúng ta bị giấc mơ đánh thức dậy, nhiều
khi đang mơ chúng ta đột nhiên tỉnh dậy, hay bị đánh thức dậy một cách đột
ngột. Như vậy tức là giấc mơ là một tình trạng trung gian giữa giấc ngủ và tình
trạng thức tỉnh. Như thế tức là chúng ta lại quay về với giấc ngủ. Vậy giấc ngủ
là gì?
Giấc ngủ là một vấn đề của sinh lý hay của
đời sống, đến nay người ta hãy còn bàn cãi chưa dứt khoát. Chúng ta phải tìm
những đặc tính của giấc ngủ về phương diện sinh lý... Giấc ngủ là một trạng
thái mà trong đó người ta ngủ không muốn biết gì về đời sống bên ngoài nữa,
quyền lợi của người ngủ thoát hẳn ra thế giới bên ngoài, muốn thoát khỏi sự
kích động của thế giới bên ngoài vào. Tôi đi ngủ khi mệt mỏi vì đời sống bên
ngoài và vì sự kích động đó. Khi đi ngủ tôi bảo đời sống bên ngoài biết nên để
cho tôi yên vì tôi muốn ngủ. Đứa bé con, trái lại lại nói: “Tôi chưa muốn đi
ngủ, tôi không mệt, tôi muốn thức nữa.” Vậy khuynh hướng đời sống của giấc ngủ
là sự không thèm để ý đến đời sống bên ngoài nữa. Đối với thế giới mà chúng ta
bị bắt buộc phải bước vào mà không hề muốn, chúng ta ở vào một trạng thái làm
cho chúng ta không thể nào chịu đựng được một cuộc sống liên tục mãi mãi không
ngừng. Vì thế cho nên thỉnh thoảng ta lại phải ru mình vào trạng thái của chúng
ta trước khi ra đời trong lúc còn đang nằm trong dạ con. Ít nhất trong tình
trạng đó chúng ta cũng tự tạo cho ta những điều kiện của đời sống: nào nhiệt
độ, nào bóng tối, nào sự vắng mặt của mọi sự kích động. Nhiều người trong chúng
ta nằm ngủ co quắp như khi đang còn nằm trong bụng mẹ. Người ta có thể cho rằng
khi đã trưởng thành chúng ta chỉ sống hai phần ba đời người trong trạng thái
trưởng thành thôi còn phần ba kia chúng ta sống như chưa ra đời. Trong những
điều kiện đó, mỗi buổi sáng khi tỉnh dậy chúng ta có cảm tưởng như vừa mới sinh
ra đời vậy. Chúng ta chẳng vẫn thường nói về trạng thái của chúng ta khi tỉnh
dậy rằng chúng ta như một đứa trẻ sơ sinh sao? Nói như thế thực ra chúng ta có
một ý niệm rất sai về đứa bé sơ sinh. Sự thực là ta phải đồ rằng đứa bé lúc mới
ra đời chẳng có gì là dễ chịu cả. Nói về sự sinh ra đời chúng ta chẳng thường
nói là ra ngoài ánh sáng đó sao?
Nếu giấc ngủ như chúng ta vừa nói thì giấc
mơ không thể là một thành phần trong giấc ngủ mà lại còn là một cái gì rất khó
chịu. Chúng ta thường cho rằng những giấc ngủ không mơ là những giấc ngủ tốt
đẹp nhất, đó mới chính là một giấc ngủ độc nhất thực sự; không có một hoạt động
tinh thần nào được có trong giấc ngủ. Nếu có một hoạt động tinh thần nào thì
tức là chúng ta không thành công trong công việc quay lại trạng thái của bào
thai, chưa rũ bỏ lại được những cái gì còn sót lại trong đời sống bên ngoài.
Giấc mơ không gì khác hơn là những cái gì còn sót lại đó, và có vẻ như những
giấc mơ không có ý nghĩa gì cả. Những hành vi sai lạc, những hoạt động của tình
trạng tỉnh có tính chất khác hẳn. Nhưng khi tôi ngủ sau khi đã thành công trong
việc chấm dứt mọi hoạt động tinh thần ngoài một dư âm còn sót lại, thì những dư
âm này cần gì phải có ý nghĩa. Dù rằng có ý nghĩa thì tôi cũng chẳng thể dùng
được vào việc gì cả, vì đời sống tinh thần của tôi đã ngừng lại khi tôi ngủ.
Giấc mơ có thể chỉ là những phản ứng xuất hiện dưới hình thức những sự co quắp,
những hiện tượng tinh thần do sự kích động cơ thể gây nên. Những giấc mơ có thể
là những cái gì còn sót lại của đời sống tinh thần lúc đang thức, những cái còn
sót lại có thể làm cho giấc ngủ không yên; và như thế chúng ta chỉ còn có việc
bỏ rơi vấn đề coi như không thuộc môn phân tâm học.
Dù cho rằng những giấc mơ chẳng có ích lợi
gì cả, đó vẫn là những sự gì có thực mà chúng ta cần cố gắng cắt nghĩa sự có
thực này. Tại sao đời sống tinh thần lại không ngủ nhỉ? Chắc chắn là có một vài
sự gì chống lại giấc ngủ đó. Có lẽ có những sự kích động làm cho đời sống tinh
thần phản ứng lại.
Vậy giấc mơ chính là sự phản ứng của linh
hồn chống lại những sự kích động phát sinh ra trong giấc ngủ. Đến đây chúng ta
đã nhìn thấy một con đường bỏ ngỏ trong việc tìm kiếm giấc mơ. Chúng ta có thể
tìm xem có những kích động nào đã làm cho giấc ngủ không yên và người ngủ phản
ứng lại. Như thế chúng ta sẽ đưa ra được đặc tính chung thứ nhất cho các giấc
mơ.
Ngoài ra còn đặc tính chung nào nữa không?
Tất nhiên là có nhưng khó nắm được và mô tả được. Sự hoạt động tâm lý trong lúc
ngủ khác hẳn trong khi thức. Trong lúc ngủ, người ta chứng kiến những biến cố
mà người ta tin tưởng trong khi thực tế đó có thể chỉ là những sự kích động cơ
thể làm cho giấc ngủ không yên. Người ta nhìn thấy các hình ảnh nhiều khi có
kèm theo những tình cảm, ý kiến và cảm giác do các giác quan khác hơn là thị
giác cung cấp, nhưng dù sao thì những hình ảnh bao giờ cũng trội hơn. Cho nên
khi chúng ta kể lại một giấc mơ, điều khó cho chúng ta là làm sao diễn tả những
hình ảnh đó thành lời nói. Có nhiều khi một người nằm mơ bảo là: tôi có thể vẽ
lại cho ông xem giấc mơ của tôi chứ tôi không thể kể lại được. Đó không phải là
một hoạt động tinh thần sút kém như trong trường hợp những người kém tinh thần
bên cạnh những người có tài: hình như có một sự khác biệt về phẩm nhưng không
ai biết khác biệt ra sao. G.Th. Fisher cho rằng sân khấu của giấc mơ khác hẳn
sân khấu của tình trạng thức tỉnh. Đó là một điều chúng ta không hiểu, không
biết nghĩ ra sao nhưng cũng biết diễn tả được cảm giác lạ lùng khi ta nằm mơ
rồi thức dậy. Sự so sánh những hoạt động trong giấc mơ với những thanh âm phát
ra từ các phím đàn do tay của một người không hiểu biết về âm nhạc đối với
chúng ta chẳng có ích lợi gì hết, vì dù không thạo về âm nhạc đi chăng nữa thì
trường hợp khi đặt tay lên phím đàn người ta cũng làm phát ra những thanh âm,
và những thanh âm này không cần du dương cho lắm. Đó là đặc tính chung thứ hai
của các giấc mơ, dù chưa được hiểu rõ.
Còn có những đặc tính chung nào khác nữa
không? Tôi không tìm ra nữa, tôi chỉ thấy những sự khác biệt về mọi điểm: về
điểm thời gian nằm mơ cũng như về tính cách rõ ràng hay không, về vai trò của
các sự xúc động, về sự kéo dài ra.. Theo tôi thì sự việc xảy ra chẳng khác gì
người ta phải chống lại một sự kích động dù là bị bó buộc, dù chỉ có tính chất
chốc lát, giành giật. Có những giấc mơ rất ngắn, có khi chỉ có một hình ảnh,
một tiếng nói; có những giấc mơ rất dài, rất dồi dào, kéo dài như một cuốn tiểu
thuyết. Có những giấc mơ rất rõ ràng chẳng khác gì đời thực, rõ đến nỗi nhiều
khi người ta tự hỏi không biết mình mê hay tỉnh; có những giấc mơ rất yếu, mơ
hồ, mờ mịt, có khi lại rõ ràng lại vừa mờ mịt, có những giấc mơ có nhiều ý
nghĩa, vui vẻ, đẹp đẽ; có những giấc mơ trái lại loạn xạ, ngớ ngẩn, khó hiểu,
ly kỳ. Có khi chúng ta thờ ơ với giấc mơ nhưng có khi chúng ta thấy cảm động,
đau đớn, có khi phát khóc, xúc động, ngạc nhiên, thích thú... Nhiều giấc mơ bị
quên ngay sau khi thức dậy và nếu có còn được nhớ lại thì cũng mờ dần đi; trái
lại có những giấc mơ mà người ta nhớ mãi, nhất là những giấc mơ trẻ con, đến
nỗi ba mươi năm sau mà còn rõ ràng như vừa mới xảy ra ngày hôm qua. Có những
giấc mơ chỉ xảy ra có một lần; có những giấc mơ xảy đi xảy lại cho một người
nhiều lần, hoặc y nguyên như lần trước, hoặc có thay đổi chút ít. Nói tóm lại,
sự hoạt động của tinh thần này thực ra có rất nhiều hình thức, có khả năng diễn
lại những gì đã xảy ra ban ngày nhưng không bao giờ giống nhau cả.
Chúng ta có thể cắt nghĩa những hình thức
khác nhau này của những giấc mơ bằng cách cho rằng chúng tương ứng với những
trạng thái trung gian giữa giấc ngủ và tình trạng thức tỉnh, hoặc với những
giai đoạn khác nhau của giấc ngủ không hoàn toàn. Nhưng nếu thực như thế thì
mỗi khi giấc mơ càng ngày càng có giá trị hơn, rõ ràng hơn, có nội dung dồi dào
hơn, chúng ta phải cho rằng đó không phải là một tình trạng nửa thức nửa ngủ mà
là một giấc mơ thực sự, bởi vì trong những giấc mơ loại này, đời sống tinh thần
càng ngày càng gần với đời sống tinh thần lúc thức hơn. Điều cần là những giấc
mơ đó phải thực rõ chứ không thể có lúc rõ lúc mờ hay có lúc hợp lý rồi có lúc
lại ngớ ngẩn vô nghĩa. Nếu chúng ta chấp nhận điều giải thích nói trên tức là
chúng ta đã gán cho đời sống tinh thần khả năng thay đổi tính chất say sưa của giấc
ngủ theo một tốc độ và một cách rõ ràng không có trong thực tế. Vì vậy chúng ta
có thể nói rằng cách giải thích đó không đứng vững được. Thường thường sự việc
không đơn giản như thế.
Bây giờ cho tới khi có quyết định mới,
chúng ta sẽ không tìm hiểu ý nghĩa của những giấc mơ nữa, nhưng sẽ tìm cách
hiểu rõ những giấc mơ bằng cách dựa vào những đặc tính của nó. Nói về liên quan
giữa giấc mơ và giấc ngủ, chúng ta đã nói rằng giấc mơ là một phản ứng đối với
một sự kích động trong giấc ngủ, làm cho giấc ngủ không yên. Đó chính là điểm
độc nhất mà môn Tâm lý học thực nghiệm có thể giúp đỡ chúng ta bằng cách hiến
cho chúng ta bằng chứng rằng những sự kích động xảy ra trong giấc ngủ cũng xuất
hiện trong giấc mơ. Chúng ta có nhiều công trình khảo sát về vấn đề này kể cả
công trình Maury Vold đã nói trong những dòng trên, và mỗi người chúng ta có
thể xác nhận điều đó dựa vào những kinh nghiệm cá nhân. Tôi đơn cử những thí
nghiệm chọn trong những thí nghiệm cũ nhất. Chính Maury đã thí nghiệm ngay trên
bản thân mình. Trong lúc ông ta ngủ có người cho ông ta ngửi nước Cologne: ông
ta mơ thấy mình ở Cario kinh đô xứ Ai cập, trong tiệm Jean Maria Farina, rồi từ
đó phát sinh ra bao nhiêu chuyện ly kỳ. Người ta bấm nhẹ vào gáy ông: ông luôn
mơ thấy một miếng thuốc dán và đến ông thầy thuốc săn sóc ông trong lúc ông còn
nhỏ. Người ta nhỏ lên trán ông một giọt nước: ông mơ thấy mình ở bên Ý mồ hôi
ra như tắm và uống rượu vang Orvieto.
Điều đáng chú ý trong những giấc mơ do
những sự kích thích gây ra sẽ xuất hiện rõ ràng hơn trong một loại giấc mơ
khác. Đó là ba giấc mơ gây ra do một tiếng động của một chiếc đồng hồ báo thức
(thí nghiệm của Hildebrant).
“Một buổi sáng mùa xuân, tôi đi dạo qua một
cánh đồng đến một làng bên cạnh, thấy dân làng kéo nhau đi nhà thờ, quần áo
đẹp, tay cầm cuốn kinh. Hôm đó là chủ nhật và có dự thánh lễ bắt đầu rồi, tôi
quyết định vào xem lễ nhưng vì trời nóng quá nên tôi ngồi nghỉ trong nghĩa địa
chung quanh nhà thờ. Vừa chăm chú đọc những dòng chữ trên mộ tôi vừa nghe tiếng
người kéo chuông nhỏ sắp gióng lên để báo hiệu là buổi cầu kinh sắp bắt đầu.
Lúc đầu chuông còn đứng im, nhưng sau đó những tiếng chuông lanh lảnh làm tôi
tỉnh giấc. Thì ra chính chiếc đồng hồ báo thức đã vừa kêu lên.”
“Một chuyện nữa: Hôm đó là một ngày mùa
đông trong sáng. Tuyết rơi đầy đường, tôi định đi xe trượt tuyết nhưng phải chờ
xe. Trước khi lên xe, tôi phải sửa soạn lại áo ấm, đem lò sưởi theo. Rồi tôi
ngồi vào xe, lại phải chờ nữa cho đến khi ngựa bắt đầu đi. Ngựa bắt đầu đi,
tiếng nhạc vang lên nghe rất khó chịu làm tôi tỉnh giấc. Thì ra lần này cũng
vẫn là cái đồng hồ báo thức lanh lảnh.”
“Thí dụ ba: Tôi nhìn cô người làm mang một
chồng đĩa từ bếp theo hành lang vào phòng ăn. Chồng đĩa quá cao, tôi chỉ sợ
không giữ thăng bằng thì vỡ hết. Tôi bảo chị ta nên cẩn thận. Lần nào chị cũng
trả lời là chị quen rồi. Nhưng tôi vẫn nhìn chị ta bằng con mắt e ngại. Quả
nhiên chị vấp ngã, đĩa rơi xuống đất kêu nghe kinh khủng. Nhưng tôi có cảm
tưởng như đó không phải là tiếng đĩa vỡ, nhưng là một tiếng gì kéo dài mãi như
tiếng chuông. Lúc tỉnh dậy, tôi mới thấy đó là tiếng chuông đồng hồ báo thức.”

