Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Quyển 06 - Phần 1

Đại Việt Sử Ký Ngoại Kỷ Toàn Thư

Quyển I

[1a]

Kỷ nhà Đinh

Tiên Hoàng Đế

Họ Đinh, tên húy là Bộ
Lĩnh, người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng247 con của Thứ sử châu Hoan Đinh Công Trứ, dẹp
yên các sứ quân, tự lập làm đế, ở ngôi mười hai năm (968 - 979), bị nội nhân là
Đỗ Thích giết, thọ năm mươi sáu tuổi (924 - 979), tán ở sơn lăng Trường Yên.

Vua tài năng sáng suốt
hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, quét sạch các hùng trưởng, tiếp nối quốc
thống của Triệu Vũ (Đế), song không biết dự phòng, không giữ được trọn đời,
tiếc thay!

247 Đại
Hoàng: tên châu, nay là đất huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.

Xưa, cha của vua là
Đinh Công Trứ làm nha tướng của Dương Đình Nghệ, được Đình Nghệ giao giữ chức
quyền Thứ sử châu Hoan, sau theo về với Ngô Vương, vẫn được giữ chức cũ, rồi
mất.

Vua mồ côi cha từ bé,
mẹ họ Đàm đưa gia thuộc vào ở cạnh đền sơn thần trong động. Vào tuổi nhi đồng,
vua thường cùng bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng. Bọn trẻ tự biết kiến thức
không bằng vua, [1b] cùng nhau suy tôn làm trưởng. Phàm khi chơi đùa, thường
bắt bọn chúng chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa lau đi hai bên để rước như
nghi trượng thiên tử. Ngày rỗi, thường kéo nhau đi đánh trẻ con thôn khác, đến
đâu bọn trẻ đều sợ phục, hàng ngày rủ nhau đến phục dịch kiếm củi thổi cơm.

Bà mẹ thấy vậy mừng
lắm, mổ lợn nhà cho chúng ăn. Phụ lão các sách bảo nhau: "Đứa bé này khí
lượng như thế ắt làm nên sự nghiệp, bọn ta nếu không theo về, ngày sau hối thì
đã muộn". Bèn dẫn con em đến theo, rồi lập làm trưởng ở sách Đào Áo.

Người chú của vua giữ
sách Bông chống đánh với vua. Bấy giờ, vua còn ít tuổi, thế quân chưa mạnh,
phải thua chạy. Khi qua cầu ở Đàm Gia Nương Loan248, cầu gãy, vua rơi
xuống bùn, [2a] người chú toan đâm, bỗng thấy hai con rồng vàng hộ vệ vua, nên
sợ mà lui. Vua thu nhặt quân còn sót, quay lại đánh, người chú phải hàng. Từ
đấy ai cũng sợ phục, phàm đi đánh đến đâu đều dễ như chẻ tre, gọi là Vạn Thắng
Vương.

248 Nguyên
văn: "Đàm Gia Nương Loan". Loan là chỗ sông uốn vòng. Các bản in khác
đều bỏ chữ "Nương", chỉ chép Đàm Gia Loan. Nay ở Điền Xá, huyện Gia
Viễn, tỉnh Ninh Bình.

Bấy giờ Mười hai sứ
quân đều tự xưng hùng trưởng, cát cứ đất đai. Ngô Xương Xí chiếm Bình Kiều, Ngô
Nhật Khánh chiếm Đường Lâm, Kiểu Tam Chế chiếm Phong Châu, Nguyễn Thái Bình
chiếm Nguyễn Gia Loan, Đỗ Cảnh Thạc chiếm miền sông Đỗ Động, Nguyễn Lệnh Công249 chiếm Tây Phù Liệt, Tế
Giang thì có Lữ Tá Đường, Tiên Du có Nguyễn Thủ Tiệp, Siêu Loại có Lý Lãng
Công, Hồi Hồ có Kiểu Lệnh Công, Đằng Châu có Phạm Phòng Át, Bố Hải có Trần Minh
Công250. Vua một phen cất quân là dẹp yên, bèn tự lập làm
đế. Chọn được chỗ đất đẹp ở Đàm thôn, vua muốn dựng [2b] đô ở đó, nhưng vì thế
đất chật hẹp lại không có lợi về việc đặt hiểm, nên vẫn đóng đô ở Hoa Lư251 (nay là phủ
Trường Yên).

249
đoạn trước, NK5 chép là Nguyễn Hữu Công.

250 Tên
địa phương cát cứ của các sứ quân, xem chú thích (7), tr. 209.

251 Động Hoa Lư: Cương mục: ở về sơn phận hai xã
Uy Viễn và Uy Tế tỉnh Ninh Bình cũ; nơi đây bốn mặt đều có núi đá dựng đứng như
bức vách, trong có một chỗ hơi bằng phẳng rộng rãi, người địa phương gọi là
động Hoa Lư (CMTB5, 24b). Nay thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Hà Nam Ninh.

Mậu Thìn, năm thứ 1
(968), (Tống Khai Bảo năm thứ 1). Vua lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt,
dời Kinh ấp về động Hoa Lư, bắt đầu dựng đô mới, đắp thành đào hào, xây cung
điện, đặt triều nghi. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế.

Vua muốn dùng uy chế
ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng:
"Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn". Mọi người đều
sợ phục, không ai dám phạm.

Lê Văn Hưu nói: Tiên
Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương
lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà
mười hai sứ quân phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng hoàng đế, đặt trăm
quan, lập sáu [3a] quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý trời vì nước Việt ta mà lại
sinh bậc thánh triết để tiếp nối quốc thống của Triệu Vương chăng?

Kỷ Tỵ, năm thứ 2
(969), (Tống Khai Bảo năm thứ 2). Tháng 5 nhuận, phong con trưởng là Liễn
làm Nam Việt Vương.

Canh Ngọ, Thái
Bình năm thứ 1 (970), (Tống Khai Bảo năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, đặt
niên hiệu.

(Sử cũ nói rằng nước
Việt ta có niên hiệu bắt đầu từ đây. Nhưng Lý Nam Đế (trước đó) đã đặt niên
hiệu là Thiên Đức (544 - 548). Sai sứ sang nhà Tống giao hảo. Bấy giờ nhà Tống
sai Đại tướng Phan Mỹ dẹp yên Lĩnh Nam (chỉ Lưu Xưởng252), cho nên mới có mệnh
ấy. Lập năm hoàng hậu (một là Đan Gia, hai là Trinh Minh, ba là Kiểu Quốc, bốn
là Cồ Quốc, năm là Ca Ông).

252 Lưu Xưởng: vua cuối cùng của Nam Hán (958 -
970), đầu hàng tướng nhà Tống là Phan Mỹ.

Lê Văn Hưu nói: Trời
đất cùng che chở, mặt trời mặt trăng cùng chiếu soi, mới sinh thành muôn vật,
nảy nở mọi loài, cũng như hoàng hậu sánh với ngôi vua, cho nên mới có thể [3b]
đứng đầu tiêu biểu cho nội cung, tác thành cho thiên hạ. Từ xưa chỉ lập (hoàng
hậu) một người để chủ việc nội trị mà thôi, chưa từng nghe nói lập đến năm
người. Tiên Hoàng không kê cứu cổ học, mà bầy tôi đương thời lại không có ai
biết giúp sửa cho đúng, để đến nổi chìm đắm trong tình riêng, cùng lập năm
hoàng hậụ Sau đến hai triều Lê, Lý cũng phần nhiều bắt chước làm theo, ấy là do
Tiên Hoàng khởi xướng sự rối loạn thứ bậc vậy.

Tân Mùi, (Thái
Bình) năm thứ 2 (971), (Tống Khai Bảo năm thứ 4). Bắt đầu quy định cấp bật văn
võ, tăng đạo. Lấy Nguyễn Bặc làm Định quốc công, Lưu cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư253, Lê Hoàn làm Thập đạo
tướng quân254, Tăng thống255, Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư,
Trương Ma Ni làm Tăng lục256, Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được trao chức Sùng chân
uy nghi257.

253 Đô
hộ phủ sĩ sư: chức quan coi việc hình án ở phủ đô hộ, tức là trong cả nước (nhà
Đinh dùng tên phủ đô hộ thời thuộc Đường).

254 Tướng
chỉ huy mười đạo quân, tức quân đội cả nước.

255 Tăng
thống: chức quan phong cho vị sư được triều đình coi là người đứng đầu Phật
giáo.

256 Tăng
lục: chức quan trông coi Phật giáo dưới chức Tăng thống.

257 Sùng
chân uy nghi: chức quan trông coi về đạo giáo.

[4a] Nhâm
Thân, (Thái Bình) năm thứ 3 (972), (Tống Khai Bảo năm thứ 5). Sai Nam Liệt
Vương Liễn sang sứ thăm nhà Tống.

Quý Dậu, (Thái
Bình) năm thứ 4 (973), (Tống Khai Bảo năm thứ 6). Nam Việt Vương Liễn đi sứ về.
Nhà Tống sai sứ sang phong cho vua làm Giao Chỉ Quận Vương, Liễn làm Kiểm hiệu
thái sư Tỉnh Hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ.

(Lời chế đại lược nói:
"Họ Đinh đời làm vọng tộc, gìn giữ được phương xa, chí hâm mộ phong hóa
Trung Hoa, thường nghĩ đến việc nội phụ. Nay chín châu hợp một, miền Ngũ Lĩnh
sạch quang258, bèn trèo non vượt biển đến dâng đồ cống. Khen
người làm con biết giữ lễ phiên thần, vậy ban cho cha ngươi theo lối cắt đất
phong tước, xếp phẩm trật cho vào hạng được cầm quân, được hưởng mức 'tỉnh phú'259. Như thế là để khen
thưởng đức tốt của người già, há chỉ hạn chế trong điển chương thường lệ
đâu?".

258 Chỉ
việc nhà Tống đã diệt Hán, lấy được miền Nam Trung Quốc.

259 Nguyên văn: "Trù chi tỉnh phú". Theo Tống
sử, Thực Hóa chí thì "tỉnh phú" (chữ tỉnh trong từ tỉnh điên) là chế
độ quy định các điạ phương đóng góp 1/5 binh mã cho chính quyền trung ương.

Giáp Tuất, (Thái
Bình) năm thứ 5 (974), (Tống Khai Bảo năm thứ 7). Mùa xuân, tháng hai, quy định
về quân mười đạo: mỗi đạo có mười quân, một quân mười lữ, một lữ 10 mười tốt,
một tốt mười ngũ, một ngũ mười người, đầu đội mũ bình đính260 vuông bốn góc
(loại mũ này làm bằng da, chóp phẳng, bố bên khâu liền, trên hẹp dưới rộng, quy
chế này đến đời bản triều khởi nghĩa vẫn còn dùng, đời sau vẫn theo thế).

260 Bình đính: phẳng đầu.

Hoàn thứ tử là Toàn
sinh.

[4b] Ất Hợi, (Thái
Bình) năm thứ 6 (975), (Tống Khai Bảo năm thứ 8). Mùa xuân, quy định áo mũ cho
các quan văn võ. Sai Trịnh Tú 261 đem vàng lụa, sừng tê, ngà voi sang nhà Tống.

Mùa thu, nhà Tống sai
Hồng lô tự khanh Cao Bảo Tự dẫn đầu bọn Vương Ngạn Phù đem chế sách sang gia
phong cho Nam Việt Vương Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư,
Giao Chỉ Quận Vương. Từ đó về sau, sai sứ sang nhà Tống đều lấy Liễn làm chủ.

261 Theo
Cương mục: Trịnh Tú người châu Đại Hoàng (CMTB1, 6b).

Bính Tý, (Thái
Bình) năm thứ 7 (976), (Tống Khai Bảo năm thứ 9. Từ tháng 10 trở về sau thuộc
về Tống Thái Tông (Triệu) Khuông Nghĩa, niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc năm thứ
nhất). Mùa xuân, thuyền buôn của các nước ngoài đến dâng sản vật của nước họ.
Sai Trần Nguyên Thái sang đáp lễ nhà Tống.

Mùa đông, tháng 10,
Tống Thái Tổ băng.

Đinh Sửu, (Thái
Bình) năm thứ 8 (977), (Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 2). Sai sứ sang nhà
Tống mừng Thái Tông lên ngôi.

Mậu Dần, (Thái
Bình) năm thứ 9 (978), (Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 3). Mùa xuân, tháng
giêng, động đất. Lập con nhỏ là Hạng Lang [5a] làm hoàng thái tử, phong con thứ
là Toàn làm Vệ Vương. Tháng hai, mưa đá.

Mùa hạ, tháng sáu, nắng
hạn.

Kỷ Mão, (Thái
Bình) năm thứ 10 (979), (Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 4). Mùa xuân, Nam
Việt Vương Liệt giết hoàng thái tử Hạng Lang. Liễn là con trưởng của vua, thuở
hàn vi cùng chịu gian khổ, đến khi định yên thiên hạ, ý vua muốn truyền ngôi
cho, mới phong làm Nam Việt Vương, lại từng xin mệnh và nhận tước phong của nhà
Tống. Sau vua sinh con nhỏ là Hạng Lang, rất mực yêu quý, lập làm thái tử. Liễn
vì vậy bất bình, sai người ngầm giết đi.

Sử thần Ngô Sĩ Liên
nói: Nối ngôi dùng con đích là đạo thường muôn đời, bỏ đạo ấy, chưa từng không
gây loạn. Cũng có khi nhân thời loạn mà lập Thái tử, thì trước hết chọn người
có công, [5b] hoặc con đích trưởng quá ác phải bỏ thì sau mới lập con thứ. Thế
là xử việc lúc biến mà vẫn được đúng đắn, người xưa vẫn từng làm. Nam Việt
Vương Liễn là con trưởng, lại có công, chưa thấy lầm lỗi gì. Tiên hoàng yêu con
thứ mà quên con trưởng, cho như thế mới đủ tỏ tình yêu quý, không biết như thế
là làm hại con.

Liễn lại nhẫn tâm, đến
nỗi giết em, thiên đạo nhân luân mất hết, chuốc họa chết thiệt thân, còn liên
lụy cả cha nữa, há chẳng rùng rợn lắm thay! Không thế thì tội đại ác của Đỗ
Thích do đâu nảy ra để hợp với lời sấm được?

Mùa đông, tháng mười,
Chi hậu nội nhân Đỗ Thích262 giết vua ở sân cung. Bọn Đinh quốc công Nguyễn Bặc
bắt được đem giết.

262 Cương
mục chú: Đỗ Thích người xã Đại Đê, huyện Thiên Bản, nay là huyện Vụ Bản, tỉnh
Hà Nam Ninh (CMTB1,8b).

Trước đó Đỗ Thích làm
chức lại ở Đồng Quan, đêm nằm trên cầu, bỗng thấy sao sa rơi vào miệng, Thích
cho là điềm tốt, bèn nảy ra ý định giết vua. Đến đây, nhân lúc vua ăn yến ban
đêm, say rượu nằm trong sân, [6a] Thích bèn giết chết, lại giết luôn cả Nam
Việt Vương Liễn.

Khi ấy lệnh lùng bắt
hung thủ rất gấp, Thích phải lén núp ở máng nước trong cung qua ba ngày, khác
lắm, gặp lúc trời mưa thò tay hứng nước uống, cung nữ trông thấy liền đi báo.
Đinh quốc công Nguyễn Bặc sai người bắt đem chém, đập nát xương, băm thịt ra
từng mảnh, chia cho người trong nước ăn, chẳng ai không tranh lấy mà nhai nuốt.

Ngày trước, khi vua còn
hàn vi, thường đánh cá ở sông Giao Thủy, kéo lưới được viên ngọc khuê to nhưng
va vào mũi thuyền, sứt mất một góc. Đêm ấy vào ngũ nhờ ở chùa Giao Thủy, giấu
ngọc ở dưới đáy giỏ cá, đợi sáng ra chợ bán cá. Bấy giờ vua đang ngũ say, trong
giỏ có ánh sáng lạ, nhà sư chùa ấy gọi dậy hỏi duyên cớ, vua nói thực và lấy
ngọc khuê cho xem. Sư than rằng: "Anh ngày sau phú quý không thể nói hết, chỉ
tiếc phúc không được dài".

Lại vào năm Thái Bình
thứ 5 (974), có lời sấm ngữ: "Đỗ Thích thí Đinh Đinh, Lê gia xuất thánh
minh, cạnh đầu đa hoành nhi263, đạo lộ tuyệt nhân hành. Thập nhị xưng đại vương,
thập ác vô nhất thiện [6b], thập bát tử đăng tiên, kế đô264 nhị thập
thiên". (Đỗ Thích giết hai Đinh, nhà Lê nỗi thánh minh, tranh nhau nhiều
hoành nhi, đường sá người vắng tanh. Mười hai xưng đại vương, toàn ác không một
thiện, mười tám con lên tiên, sao kế đô hai chục ngày)265.

263
đây Toàn thư chép là hoành nhi, tức một loại nô tỳ, còn Đại Việt sử lược (quyển
1, 17b) lại chép là hoành tử, nghĩa là chết phi lý, chết oan uổng.

264 Kế
đô: là tên Trung Quốc phiên âm tên ngôi sao Kethu trong lịch cổ Ấn Độ. Thiên
văn cổ Ấn Độ cho rằng hệ mặt trời có chín sao (Trung Quốc dịch là Cửu diệu),
ngoài mặt trời, mặt trăng và năm sao Thủy (Bhuda), Kim (Sukra), Hỏa (Angaraka),
Mộc (Brhaspati), Thổ (Sanaiscara hay Sani), còn có hai sao nữa là Kethu và Rahu
(Trung Quốc phiên âm là La hầu), hai sao này thường che mặt trời, mặt trăng,
làm thành nhật thực và nguyệt thực.

Ngày nay ta biết không phải như vậy và không có hai ngôi
sao đó. Lịch pháp cổ Ấn Độ (người Trung Quốc gọi là Phạn lịch đã truyền vào
Trung Quốc cùng với Phật Giáo). Trong kinh Phật (chẳng hạn Đại Nhật kinh), thường
gặp tên sao Kế đô này. Một số học giả thời Tống cũng đã bàn về sao này (xem Mộng
khe bút đàm của Thâm Quát, chương tượng số). Người làm bài sấm trên - nhiều khả
năng là nhà sư - đưa thêm tên ngôi sao này vào cho thêm phần bí hiểm, đồng thời
chữ đô, có thể ám chỉ việc đóng đô, hay làm vua, của nhà Lý.

265 Bài
thơ sấm này hẳn là do người đời sau làm ra, vì trong đó không những đã biết việc
Đỗ Thích giết hai cha con vua Đinh, Lê Hoàn lên ngôi, mà còn nói trước việc nhà
Lý làm vua (gộp ba chữ thập, bát, tự thành chữ Lý).

Người ta cho là số trời đã định như thế. Khi ấy Định quốc
công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, cùng thập đạo tướng quân Lê Hoàn rước Vệ
Vương Toàn lên ngôi Hoàng đế, tôn gọi vua là Tiên Hoàng Đế, tôn mẹ đẻ (vua mới)
là Dương Thị làm Hoàng thái hậu. Rước linh cữu Tiên Hoàng Đế về táng ở sơn lăng
Trường Yên266.

266 Trường
Yên: Ở đây là tên xã, chứ không phải tên phủ. Xã Trường Yên, gồm Trường Yên Thượng
và Trường Yên Hạ, là vùng thành Hoa Lư. Lăng vua Đinh ở trên núi Mã Yên (núi
Yên Ngựa) thuộc xã Trường Yên tỉnh Ninh Bình.

Sử thần Ngô Sĩ Liên
nói: Đế vương dấy nghiệp không ai không nhờ ở trời. Nhưng thánh nhân không cậy
có mệnh trời mà làm hết phận sự của mình. Việc đã thành, lại càng lo nghĩ đề
phòng. Sửa sang lể nhạc hình án chính sự là để phòng giữ lòng người. Đặt nhiều
lần cửa, đánh hiệu canh là đề phòng kẻ hung bạo. Bởi vì [7a] lòng dục không
cùng, việc đời không bến, không thể không đề phòng trước. Đó là nghĩ xa cho đời
sau, mưu tính cho con cháu cũng chính là ở đó. Cho nên Tiên Hoàng không được
trọn đời là do chưa làm hết việc người, không phải mệnh trời không giúp. Cũng
vì vua không giữ được trọn đời khiến cho cái thuyết sấm đồ đắc thắng, đời
sau không thể không bị mê hoặc vì điều đó.

Phế Đế

Tên húy là Toàn, con
thứ của Tiên Hoàng, ở ngôi tám tháng. Họ Lê cướp ngôi, giáng phong là Vệ Vương,
thọ mười tám tuổi (974 - 991). Vua còn thơ ấu phải nối nghiệp lớn gian nan,
cường thần nhiếp chính, người trong nước lìa lòng, nhà Đinh bèn mất.

Vua nối ngôi khi mới
sáu tuổi. Lê Hoàn nhiếp chính, làm công việc như Chu Công267, tự xưng là Phó Vương.
Bọn Định quốc công Nguyễn Bặc, ngoại giáp Đinh Điền, Phạm Hạp ngờ Hoàn sẽ làm
điều bất lợi cho vua nhỏ, bèn cùng nhau dấy binh, chia hai đường thủy bộ, muốn
tiến về kinh đô giết [7b] Hoàn, nhưng không đánh nổi, bị giết.

267 Chu Công: tức Cơ Đán, em Vũ Vương, nhà Chu
(Trung Quốc), có tiếng là người hiền. Thành Vương nối ngôi còn nhỏ tuổi, Chu
Công làm nhiếp chính, từng bị lời dèm pha nói rằng Chu Công sẽ làm điều bất lợi
cho vua nhỏ…

Trước đó khi Điền và
Bặc cất quân, Thái hậu nghe tin, lo sợ bảo Hoàn rằng: "Bọn Bặc dấy quân
khởi loạn làm kinh động nước nhà ta. Vua còn nhỏ yếu chưa kham nỗi nhiều nạn,
các ông nên liệu tính đi chớ để tai họa về sau". Hoàn nói: "Thần ở
chức Phó Vương nhiếp chính, dù sống chết biến họa thế nào, đều phải đảm đương
trách nhiệm". Rồi đó chỉnh đốn quân lữ, đánh nhau với Điền, Bặc ở Tây Đô
(Hoàn người Ái Châu, sau lên ngôi đóng đô ở Hoa Lư, cho nên sử gọi Ái Châu là
Tây Đô). Điền, Bặc thua chạy, lại đem quân thủy ra đánh. Hoàn nhân chiều gió
phóng lửa đốt thuyền chiến, chém Điền tại trận, bắt được Bặc đóng củi đưa về
kinh sư, kể tội rằng: "Tiên đế mắc nạn, thần người đều căm thẹn. Ngươi là
tôi con lại nhân lúc tan tóc bối Krối mà dấy quân bội nghĩa. Chức phận tôi con
có đâu như thế?". Bèn chém đầu đem bêu.

Điền, Bặc đã chết, quân
Phạm Hạp mất hết khí thế, tan chạy về hương Cát Lợi ở Bắc Giang. Hoàn dẫn quân
đuổi theo, bắt sống được Phạm Hạp đem về [8a] Kinh sư.

Sử thần Ngô Sĩ Liên
nói: Chu Công là người vương thất rất thân, giúp vua nhỏ tuổi còn không tránh
khỏi những lời gièm pha phao truyền. Lê Hoàn là đại thần khác họ, nắm giữ binh
quyền, làm công việc như Chu Công, thường tình còn ngờ vực, huống là Nguyễn Bặc
ở chức thủ tướng và Đinh Điền là đại thần cùng họ hay sao? Bọn họ khởi binh
không phải làm loạn, mà là một lòng phù tá nhà Đinh, vì giết Hoàn không được mà
phải chết, ấy là chết đúng chỗ. Nay xem lời Đại Hành kể tội Nguyễn Bặc tựa như
vạch tội mình. Khi Bặc chết, ắt phải có nói một lời để bày tỏ chính nghĩa,
nhưng không thấy sử chép, thế là bỏ sót.

Phò mã Ngô Nhật Khánh
dẫn thuyền quân Chiêm Thành hơn nghìn chiếc vào cướp, muốn đánh thành Hoa [8b]
Lư, theo hai cửa biển Đại Ác và Tiểu Khang, qua một đêm, gặp gió bão nổi lên,
thuyền đều lật đắm, Nhật Khánh cùng bọn người Chiêm đều chết đuối, chỉ có
thuyền của vua Chiêm thoát trở về nước.

Nhật Khánh là con cháu
của Ngô Tiên chúa Quyền, trước xưng là An Vương, cùng mười hai sứ quân mỗi
người chiếm giữ một vùng. Tiên Hoàng dẹp yên, lấy mẹ Khánh làm hoàng hậu, lấy
em gái Khánh làm vợ Nam Việt Vương Liễn, còn lo sinh biến, lại đem công chúa gã
cho Khánh, ý muốn dập hết lòng oán vọng của hắn. Nhật Khánh bề ngoài cười nói
như không, nhưng trong lòng vẫn bất bình, bèn đem cả vợ chạy sang Chiêm Thành,
đến cửa biển Nam Giới268 rút đao ngắn xẻo má vợ kể tội rằng: "Cha
mày lừa dối ức hiếp mẹ con ta, lẽ nào ta vì mày mà quên tội ác của cha mày hay
sao? Cho mày trở về, ta đi đằng khác tìm kẻ có thể cứu ta". Nói xong bèn
đi. Đến đây nghe tin Tiên Hoàng băng, Khánh dẫn người Chiêm vào cướp.

268 Nam
Giới: tên cửa biển ở phía Nam, gần Chiêm Thành, còn có tên là Cửa Sót, nay thuộc
huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

[9a] Canh
Thìn, (Thái Bình) năm thứ 11 (980), (Phế Đế vẫn dùng niên hiệu Thái Bình,
từ tháng 7 về sau là niên hiệu Thiên Phúc năm đầu của Lê Đại Hành; Tống Thái
Bình Hưng Quốc năm thứ 5).

Mùa hạ, tháng 6,Tri Ung
Châu269 của nhà Tống là Thái thường bác sĩ Hầu Nhân
Bảo dâng thư tâu với vua Tống rằng:

269 Ung Châu: nay là huyện Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây,
Trung Quốc.

"An Nam Quận Vương
cùng với con là Liễn đều bị giết, nước ấy sắp mất, có thể nhân lúc này đem một
cánh quân sang đánh lấy. Nếu bỏ lúc này không mưu tính, sợ lở mất cơ hội. Xin
cho đến cửa khuyết để tâu Bày trực tiếp tình trạng có thể đánh lấy được".

Vua Tống sai chạy trạm
đến gọi Nhân Bảo. Lư Đa Tốn nói: "An Nam bên trong rối loạn, đó là lúc
trời làm mất, triều đình nên bất ngờ đem quân sang đáng úp, như người ta nói:
'sét đánh không kịp bịt tai'. Nếu trước gọi Nhân Bảo về, mưu ấy ắt bị lộ, kẻ
kia nhờ đó biết được, sẽ dựa núi ngăn mà phòng bị, cái thế thắng thua chưa biết
thế nào. Chi bằng giao cho Nhân Bảo trách nhiệm ngầm đem quân sang, theo lệnh
mà lo liệu việc ấy, chọn tướng đem ba vạn quân Kinh Hồ270 ruổi dài mà [9b]
tràn sang, tạo ra cái thế vạn toàn như xô bẻ cành khô gỗ mục, không phải lo tốn
một mũi tên".

270 Kinh Hồ: tên lộ thời Tống, gồm đất tỉnh Hồ Nam
và tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc ngày nay.

Vua Tống cho là phải.

Mùa thu, tháng 7, ngày
Đinh Mùi, nhà Tống lấy Hầu Nhân Bảo làm Giao châu lục lộ thủy lộ chuyển vận sứ,
Lan Lãng đoàn luyện sứ Tôn Toàn Hưng, Bất tác sứ Hác Thủ Tuấn, Yên bi khổ sứ
Tràn Khâm Tộ, Tả giám môn tướng quân Thôi Lượng làm Ung Châu Lộ binh mã bộ thư,
Ninh Châu thứ sử Lưu Trừng, Quân khi khố phó sứ Giả Thực, Cung phụng quan cáp
môn chi hậu Vương Soạn làm Quảng Châu Lộ binh mã đô bộ thư, họp quân cả bốn
hướng, hẹn ngày cùng sang xâm lược.

Bấy giờ, Lạng Châu nghe
tin quân Tống sắp kéo sang, liền làm tờ tâu báo về. Thái hậu sai Lê Hoàn chọn
dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm Cư Lạng271 làm đại tướng
quân.

271 Phạm
Cự Lạng: người huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng, ông nội là Chiêm giữ chức Đông
giáp tướng quân đời Ngô Quyền, cha là Man, Tham chính đô đốc, anh là Phạm Hạp,
vệ úy đời Đinh Tiên Hoàng, người đã cùng Đinh Điền, Nguyễn Bặc chống lại Lê Hoàn
(theo Ngô Thì Sĩ, Đại Việt sử ký tiền biên).

Khi triều đình đang bàn
kế hoạch xuất quân, Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng
vào Nội phủ, [10a] nói với mọi người rằng: "Thưởng người có công, giết kẻ
trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ,
chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có
ai biết cho? Chi bằng trước hãy tôn lâp ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ
xuất quân thì hơn".

Quân sĩ nghe vậy đều hô
"vạn tuế".

Thái hậu thấy mọi người
vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn272 khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng
đế. Từ đó Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc năm đầu (980),
giáng phòng vua làm Vệ Vương.

272 Áo
long cổn: áo của vua thêu hình rồng cuộn.

Truy phong cha của vua
(Hoàn) làm Trường Hưng Vương, mẹ họ Đặng làm Hoàng thái hậu.

Tháng 8, vua Tống xuống
chiếu đem quân sang xâm lược, sai Lư Đa Tốn đem thư sang nói rằng: "Trung
Hoa đối với Man Di, cũng như thân người có tứ chi, vận động duỗi co tùy ở tim
mình, cho nên nói tim là chủ. Nếu ở một [10b] tay một chân mà mạch máu ngừng
đọng, gân cốt không yên thì phải dùng thuốc thang để chữa. Chữa mà không công
hiệu thì lại phải châm cứu cho kỳ khỏi, không phải là không biết thuốc thang
thì đắng miệng, mà châm chích thì rách da. Phải làm như thế là vì tổn hại ít mà
lợi ích nhiều. Kẻ làm vua thiên hạ cũng phải làm như vậy chăng?

Cho nên Thái Tổ Hoàng
Đế ta nhận ngôi do nhà Chu nhường, đổi tên nước là Tống, văn vật trong sáng,
một phen biến đổi theo xưa, ở ngôi đế vương mà nhìn Man Di mắc bệnh. Cho nên
năm thứ 1 thứ 2 thì thuốc thang cho các đất Kinh, Thục, Tương, Đàm, năm thứ 3
thứ 4 thì châm cứu cho các miền Quảng, Việt, Ngô, Sở273, gân cốt huyết mạch ra
dáng trẻ non, có phần khỏe mạnh. Không do cơ trí thần diệu sáng suốt của bậc
vương giả mà trù liệu được đến thế ư? Đến khi ta nối giữ cơ nghiệp lớn, đích
thân coi chính sự, cho rằng đất Phần, đất Tinh274
bệnh ở lòng bụng, nếu lòng bụng chưa chữa khỏi thì làm sao chữa nổi tứ chi? Vì
thế mới luyện thuốc thang bằng nhân nghĩa, [11a] sửa đồ châm cứu bằng đạo đức,
hết sức chữa cho các đất Phần, Tinh chỉ một lần là khỏi bệnh, chín châu bốn
biển đã mạnh lại yên. Chỉ có Giao Châu của ngươi ở xa cuối trời, thực là ngoài
năm cõi275.

273 Chỉ
các cuộc hành quân tiêu diệt các thế lực cát cứ đầu thời Tống ở tỉnh Hồ Nam, Tứ
Xuyên, Lưỡng Quảng… - Trung Quốc.

274 Chỉ
miền Phần Dương và Thái Nguyên thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Ở đây Tống Thái
Tông muốn nhắc đến cuộc tiến quân tiêu diệt nước Bắc Hán ở tỉnh Sơn Tây năm
979.

275 Nguyên văn: "Ngũ phục", chữ dùng
trong Kinh Thư, chỉ năm vùng theo thứ tự xa cách kinh kỳ (hầu, diện, tuy, yêu,
hoang).

Nhưng phần thừa của tứ
chi, ví như ngón chân ngón tay của thân người, tuy chỉ một ngón bị đau, bậc
thánh nhân lại không nghĩ đến hay sao? Cho nên phải mở lòng ngu tối của ngươi,
để thanh giáo của ta trùm tỏa, ngươi có theo chăng? Huống chi từ thời Thành
Chu, nước ngươi đã đem chi trĩ trắng sang dâng, đến thời Viêm Hán276, dựng cột đồng làm
mốc, cho đến thời Lý Đường, vẫn thuộc về nội địa. Cuối thời Đường nhiều họa
nạn, chưa kịp xử trí.

276 Viêm
Hán: tức nhà Hán, tự coi là dòng dõi vua Nghiêu, ứng vào ngôi hỏa (trong ngũ
hành), cho nên gọi là Viêm Hán (Viêm đồng nghĩa với hỏa).

Nay thánh triều lòng
nhân trùm khắp muôn nước, cơ nghiệp thái bình kể cũng đã thịnh. Lễ phân phòng
đã sắp đặt sẵn, còn đợi ngươi đến chúc sức khỏe của ta. Ngươi đừng ru rú trong
bốn góc nhà, khiến cho ta buồn phiền, phải chém cờ bổ so277 làm cỏ nước
ngươi, hối sao cho kịp. Dù cho sông nước ngươi có ngọc, [11b] ta vứt xuống
suối; núi nước ngươi sản vàng, ta ném vào bụi, để thấy chẳng phải ta tham của
báu nước ngươi. Dân của ngươi bay nhảy (ý nói người hoàng dã) còn ta thì có
ngựa xe; dân ngươi uống mũi (nay người man ở miền rừng núi Giao Quảng278 vẫn còn tục ấy)
còn ta thì có cơm rượu để thay đổi phong tục của nước ngươi; dân ngươi bắt tóc
còn ta thì có áo mũ, dân ngươi nói tiếng chim, còn ta thì có Thi, Thư, để dạy
lễ cho dân ngươi. Cõi nóng chói chang, khói hơi mù mịt, ta tỏa mây Nghiêu, tưới
cho mưa ngọt. Khí biển hầm hập, cháy mày chảy đá, ta gảy đàn Thuấn, quạt làn
gió thơm. Sao trên trời nước ngươi, chẳng ai biết tên gì, ta quay chòm tử vi để
ngươi biết chầu về. Đất ngươi nhiều ma quỷ, ai cũng sợ chúng quấy, ta đã đúc
vạc lớn (để yểm trừ), khiến chúng không làm hại. Ra khỏi chốn đảo di của ngươi
mà xem nhà Minh đường, Bích ung279 chăng? Trút áo quần cỏ lá của ngươi mà mặc áo
cổn hoa thêu hình rồng núi chăng? Ngươi có theo về hay không, chớ mau chuốc lấy
tội.

277 Nguyên
văn: "tiệt phan đoạn tiết". Tiết là con so để làm tin, khi tướng ra
trận thì bổ đôi giao cho một nửa.

278 Chỉ
vùng biên giới giữa nước ta (Giao Châu) với đất Lưỡng Quảng, Trung Quốc.

279 Minh
Đường: chỗ vua các nước chư hầu triều kiế vua nhà Chu. Bích Ung: nhà học của
vua nhà Chu.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3