Tâm lý học căn bản - Chương 15 - Phần 4
c. Nguyên nhân các dị biệt giới tính. Nếu như việc nhận diện các dị biệt giữa hai giới tính đã được đề ra cho các nhà nghiên cứu một vấn đề hóc búa và phức tạp, thì việc tìm kiếm nguyên nhân các dị biệt lại càng tỏ ra khó khăn và dễ gây tranh luận hơn. Giả sử sự kiện không thể bàn cãi rằng giới tính là một biến cố sinh học, thì việc tìm hiểu các nhân tố liên quan đến các dị biệt sinh học giữa hai giới tính dường như là việc làm hợp lý. Nhưng người ta cũng khó lòng gạt bỏ các nhân tố hoàn cảnh, bởi vì tầm quan trọng hiển nhiên của qúa trình trưởng thành trong một thế giới mà con người bị đối xử khác biệt nhau vì giới tính của họ ngay từ lúc chào đời.
Trước khi tìm hiểu cả hai loại nhân tố sinh học và hoàn cảnh góp phần giải thích các dị biệt giữa hai giới tính, chúng ta nên lưu ý rằng chỉ riêng nhân tố sinh học hoặc nhân tố hoàn cảnh đều không thể đưa ra được một giải thích trọn vẹn. Đúng ra, có lẽ một phối hợp nào đó gồm hai loại nhân tố tương tác lẫn nhau sẽ giúp chúng ta hiểu rõ các nguyên nhân gây ra các dị biệt giữa hai giới tính.
a. Các nguyên nhân sinh học: phải chăng khác biệt giữa cấu trúc não bộ của hai giới tính làm cơ sở cho các dị biệt ấy? Quan điểm khá thú vị này, đề cập ở chương 2, đã được nêu ra mấy năm gần đây bởi các nhà tâm lý chuyên nghiên cứu về cấu trúc và chức năng của não bộ. Chẳng hạn, Jullan Stanley và Camilia Benbon (1987) đã khám phá được rằng những trẻ có năng khiêu toán học nổi bật đặc trưng bởi một số biểu hiện thể chất lạ thường, như thuận tay trái và rất dễ mắc phải dị ứng cũng như tật cận thị chẳng hạn. Hóa ra, những đặc điểm dường như không liên quan gì với nhau này có lẽ liên hệ với mức sản sinh kích thích tố androgen, loại hormone sinh dục nam, từ lúc còn trong bào thai mẹ. Loại hormone này có thể làm chậm đà phát triển bán cầu não bên trái. Theo một lý thuyết, bán cầu não bên phải – chuyên về năng khiếu toán học – sau đó sẽ bù đắp cho các thiếu sót của bán cầu não trái nhờ phát triển ngày càng vững chắc hơn, nhờ đó thành tích của nam giới trong một số lĩnh vực toán học ngày càng tăng thêm. Tương tự, chứng cứ từ ít nhất một khảo cứu cho rằng trong các công tác đòi hỏi năng khiếu ngôn ngữ và sự phối hợp các cơ bắp nữ giới sẽ thực hiện khéo léo hơn trong các thời kỳ mức sản sinh kích thích tố estrogen, tức là hormone sinh dục nữ, tương đối cao hơn so với thời kỳ mức sản sinh này thấp. Ngược lại, họ thực hiện các công tác liên quan đến năng khiếu không gian khả quan hơn khi mức sản sinh estrogen tương đối thấp.
Chúng ta chưa biết các nguyên nhân sinh học làm nền tảng cho các dị biệt giữa hai giới tính đến mức nào, nhưng ngày càng có nhiều chứng cứ cho thấy rằng ít ra các nhân tố này có thể giải thích phần nào dị biệt tác phong cư xử giữa hai giới tính. Tuy vậy, hiển nhiên rằng các nhân tố hoàn cảnh đóng vai trò quyết định làm nảy sinh các dị biệt giữa hai giới tính. Ngoài ra, bởi vì các nhân tố hoàn cảnh có thể cải thiện được, nên các ảnh hưởng cải biến ấy đem đến cho chúng ta một cơ hội giảm bớt hậu quả tai hại của thành kiến giới tính.
– Các nguyên
nhân hoàn cảnh. Ngay từ lúc
chúng chào đời, với chiếc chăn xanh cho bé trai và chiếc chăn hồng cho bé gái,
hầu hết các bậc cha mẹ và các vị trưởng bối khác đã mang lại các hoàn cảnh khác
biệt về nhiều khía cạnh quan trọng tùy theo giới tính của đứa trẻ. Chẳng hạn,
các loại đồ chơi dành cho chúng khác biệt nhau, và các ông cha chơi đùa với bé
trai mạnh bạo hơn so với các bé gái của họ. Các bà mẹ thuộc tầng lớp trung lưu
có khuynh hướng trò chuyện với các bé gái nhiều hơn với các bé trai của họ. Mặc
dù mức độ khác biệt giữa cách đối xử nói chung của các bậc cha mẹ đối với các
bé trai so với các bé gái có lẽ không lớn lắm, nhưng rõ ràng các bậc trưởng bối
khác thường đối xứ với trẻ khác biệt nhau do giới tính của chúng.
Các khác biệt cư xử
như thế, và còn nhiều thí dụ khác nữa, khiến cho nam giới và nữ giới trải qua
tiến trình xã hội hóa khác biệt nhau. Xã hội hóa (socialization) là một tiến
trình nhờ đó một cá nhân học hỏi được các quy luật và chuẩn mực cư xử thích
hợp. Trong trường hợp này, có liên quan đến việc học hỏi những quy luật và
chuẩn mực nào mà xã hội cho là cách cư xử thích hợp cho nam giới hay cho nữ
giới. Theo các tiến trình thuộc lý thuyết học tập xã hội tính (đã bàn ở chương
5), các bé trai và các bé gái được dạy dỗ và khích lệ vì đã thể hiện cách cư xử
mà xã hội cho là phù hợp với giới tính của chúng.
Dĩ nhiên, không
phải chỉ các bậc cha mẹ là những người duy nhất cống hiến cho trẻ các kinh
nghiệm xã hội hóa. Toàn thể xã hội truyền đạt các thông điệp minh họa cho trẻ
trong quá trình trưởng thành của chúng. Theo truyền thống xã hội, việc đọc sách
của trẻ đã khuôn định các bé gái vào các vai trò theo thành kiến có tính dưỡng
dục, trong khi các bé trai được định hướng nhiều hơn về thể chất và hành động.
Cũng vậy, vô tuyến truyền hình tác động như là nguồn thông tin xã hội hóa có
ảnh hưởng đặc biệt lớn lao. Mặc dù các chương trình như L.A Law và Murphy Brown
phác họa nữ giới trong các vai chính, nhưng nói chung nam giới vẫn xuất hiện
trên TV đông hơn nữ giới và nữ giới thường bị phân vào các vai diễn theo thành
kiến như nội trợ, thư ký, y tá, và làm mẹ chẳng hạn. Hiệu lực của TV như là một
lực lượng xã hội hóa được nêu rõ qua sự việc một số dữ kiện cho rằng thiếu nhi
càng xem TV nhiều chừng nào thì chúng càng kỳ thị giới tính nhiều chừng ấy.
Hệ thống giáo dục
của chúng ta cũng phân biệt đối xử với các bé trai và các bé gái. Chẳng hạn,
các bé trai có lẽ được các thầy cô quan tâm nhiều gấp 5 lần các bé gái. Các bé
trai nhận được lời khen, bị quở trách, và giúp đỡ cải sửa nhiều hơn các bé gái.
Ngay ở các lớp trên đại học, nam sinh viên được các giáo sư để mắt nhiều hơn
đến các nữ sinh viên, nam sinh viên được gọi lên bảng nhiều hơn, và họ cũng dễ
được các giáo sư giúp đỡ ngoại khóa hơn.
Theo Sandra Bem
(1987), tiến trình xã hội hóa tạo ra một lược đồ giới tính (gender schema)
trong tâm trí; nó là một cơ cấu trí tuệ sắp xếp có hệ thống và hướng dẫn trẻ
tìm hiểu các thông tin thích hợp cho giới tính. Trên cơ sở các thông tin mà
lược đồ tâm trí của chúng cho là phù hợp hay không với giới tính của mình, trẻ
bắt đầu cư xử theo các cung cách phản ảnh các vai trò giới tính mà xã hội áp
đặt cho chúng. Do đó, một đứa trẻ đi trại hè và được tạo cơ hội may vá một bộ
trang phục có thể đánh giá hành động ấy, không theo các thành tố bên trong tiến
trình (như cách sử dụng kim chỉ chẳng hạn), mà theo cách thức liệu hành động đó
có ăn khớp với lược đồ giới tính trong tâm trí của em hay không.
Theo Bem, các lược
đồ giới tính có thể bị phá vớ bằng cách khuyến khích các em biểu hiện lưỡng
tính (androgynous), tức là một trạng thái trong đó các vai trò giới tính bao
quát các đặc điểm bị gán là tiêu biểu cho cả hai giới tính. Đặc biệt, một nam
giới lưỡng tính không chỉ có thể năng nổ và sinh động (được xã hội xem là các
đặc điểm tiêu biểu cho nam tính) trong một số tình huống, mà còn có thể biểu
hiện lòng trắc ẩn và tao nhã (được xem là các đặc điểm tiêu biểu cho nữ tính)
khi tình huống cần đến. Ngược lại, một phụ nữ lưỡng tính có thể biểu hiện lòng
trắc ẩn và ăn nói dịu đàng, đồng thời khi cần cũng có thể tỏ ra quyết đoán và
tự tin.
Khái niệm lưỡng
tính không hàm ý rằng bắt buộc không có dị biệt gì giữa nam giới và nữ giới.
Đúng ra, nó cho rằng các dị biệt nên căn cứ vào sự lựa chọn và ý chí tự do của
mỗi người nhằm bao hàm các đặc điểm phản ảnh tính nhân bản nhiều nhất, chứ
không nên căn cứ vào kho dự trữ hạn chế và giả tạo gồm các đặc điểm mà xã hội
độc đoán cho là chỉ thích hợp cho nam giới hay cho nữ giới.
3. Tóm tắt và học
ôn II
A. TÓM TẮT
– Thành kiến
(stereotype) là các niềm tin và kỳ vọng hình thành đối với các thành viên thuộc
một nhóm chủng tộc hay tầng lớp xã hội chỉ căn cứ vào tư cách thành viên của họ
trong nhóm hay tầng lớp ấy.
– Thành kiến thường
nhắm vào các thành viên thuộc các nhóm chủng tộc, sắc tộc thiểu số giới tính và
tuổi tác. Mặc dù ít có hiệu lực, nhưng chúng có thể gây ra các hậu quả tai hại
cho tương tác xã hội vì tệ nạn kỳ thị (discrimination) và tiên đoán để tự an ủi
(self–fulfilling prophecy).
– Vai trò giới tính
(gender role), tức là các kỳ vọng của xã hội về lối cư xử nào thích hợp cho nam
giới và lối nào cho nữ giới, dẫn đến tệ nạn thành kiến giới tính và kỳ thị giới
tính (sexism).
– Tuy có các khác
biệt giữa hai giới tính về nhân cách lẫn về khả năng trí tuệ, nhưng các dị biệt
ấy thường không đáng kể và các dị biệt đặc thù có thể thay đổi qua thời gian.
– Các dị biệt giữa
hai giới tính gây ra bởi sự tương tác của các nhân tố sinh học và các nhân tố
hoàn cảnh.
B. HỌC ÔN
1/Bất cứ kỳ vọng
nào – dù tốt hay xấu – về một cá nhân chỉ căn cứ vào tư cách thành viên của
người ấy trong một nhóm hay tầng lớp người đều là một thành kiến. Đúng hay
Sai?...
2/ Khuynh hướng
quan niệm dành đặc ân nhiều nhất cho các cộng đồng mà chúng ta là thành viên
được gọi là:
a. Có thành kiến
b. Thiên kiến phân
biệt tầng lớp xã hội
c. Tiên đoán để tự
an ủi
d. Kỳ thị
3/ Paul là quản lý
một cửa hàng ông ta không thích phụ nữ thành công trong công ty. Do đó, ông ta
chỉ dành trách nhiệm quan trọng và độc quyền cho nam giới. Nếu như các nữ nhân
viên không thăng tiên được trong công ty ông, thì đây có thể là thí dụ về một
tiên đoán:...
4/... là một loạt
các kỳ vọng của xã họ về lối cư xử nào thích hợp cho nam giới và lối nào cho nữ
giới.
5/ Ngày nay thành
kiến giới tính dường như đã kém thịnh hành hơn vài chục năm trước đây. Đúng hay
sai?
6/ Phát biểu nào
dưới đây đúng đối với khác biệt giữa hai giới tính về tính gây hấn?
a. Nam giới chỉ cư
xử gây hân hơn nữ giới trong thời thơ ấu.
b. Khác biệt về
tính gây hấn giữa hai giới tính khởi đầu hiện rõ vào tuổi thanh xuân.
c. Nam giới cư xử
gây hấn hơn nữ giới suốt đời.
d. Hai giới tính
đều cảm thấy lo âu ngang nhau về hành động gây hấn của họ.
7/ Tuy Lee thường
hành động dịu dáng và nhân ái, nhưng đôi khi anh cũng hành động gây hấn. Theo
thuật ngữ về vai trò giới tính, Lee có thể được xem là người có bản chất...
8/... là cơ cấu tâm
trí tổ chức việc tìm hiểu các thông tin đặc biệt về giới tính.
C. CÂU HỎI TỰ VẤN
Bạn được yêu cầu
tham dự một thể nghiệm về vấn đề dưỡng dục thiếu nhi (child rearing). Người ta
giao cho bạn một đứa trẻ và yêu cầu bạn dưỡng dục đứa bé có cách cư xử lưỡng
tính càng nhiều càng tốt. Bạn sẽ làm gì? Đứa trẻ ấy sẽ đối đầu với các khó khăn
nào trong đời sống thực tế? Bạn có cho rằng đây là biện pháp dưỡng dục thiếu
nhi hoàn hảo nhất trong xã hội hiện nay không?
(Giải đáp câu hỏi
học ôn ở cuối chương)
III. TÂM LÝ
HỌC TRONG VIỄN TƯỢNG TOÀN CẦU
Một du khách đến
một vùng đất Ả Rập vừa ngạc nhiên vừa khó chịu: Mỗi khi chuyện trò với một
người dân bản xứ, ông ta đều nhận thấy người ấy nghiêng người kề sát vào ông
đến mức má của hai người chỉ cách nhau vài phân. Ông ta cảm thấy vừa nhột nhạt
vừa nồng nặc hơi thở của người đối thoại trong lúc nói chuyện. Tuy khó chịu,
nhưng du khách này dường như không sao ngăn chặn được lối cư xứ này. Dù ông ta
cố gắng tránh né đến mức nào, người đối thoại cứ dai dẳng gí sát vào ông hơn
khiến ông rất khó chịu.
Bất kỳ ai đã từng
du lịch ở nước ngoài đều biết phong tục và cách cư xử thường ngày của dân bản
xứ nói chung rất khác biệt với mọi thứ mà chúng ta đã quen thuộc ở nước nhà.
Trong trường hợp vừa miêu tả, các quy luật thường ngày chi phối cách cư xử của
chúng ta so với các quy luật mà chúng ta thậm chí chưa hề biết đến ấy rất khác
biệt nhau.
Ngay cả trong
trường hợp hiểu rõ các quy luật của một nền văn hóa, thì tình trạng đó không
nhất giúp cho người ta bớt cảm thấy khó chịu khi phải đối mặt với các quy luật
ấy. Chẳng hạn trong trường hợp tác phong đối thoại, các chuẩn mực văn hóa trong
xã hội Ả Rập quy định rằng ngay các cuộc đàm thoại sơ giao cũng phải giữ khoảng
cách đúng một bộ (khoảng 3 phân) để cho những người đối thoại cảm nhận và ngửi
được hơi thở của nhau khi trò chuyện. Ngược lại, ở các nền văn hóa phương Tây
các quy định khác biệt hẳn: Các cuộc đàm thoại tình cờ với bạn bè sơ giao
thưởng diễn ra ở khoảng cách tự 1,2 tấc đến gần 4 tấc và tình trạng để người
khác cảm nhận và ngửi được hơi thở của mình là điều tối kỵ.
Ngoài ra, các dị
biệt hiển nhiên về một văn hóa, như giữ khoảng cách giữa những người đối thoại,
kiểu trang phục và cách ẩm thực chẳng hạn đều che giấu những điểm khác biệt căn
bản còn lớn hơn và nhiều hơn thế nữa giữa các dân tộc thuộc các nền văn hóa
khác nhau. Niềm tin, thang giá trị, và thậm chí đến quan điểm về cách vận hành
thế giới cũng khác biệt nhau.
Bất kể tầm quan
trọng của văn hóa, cho đến nay lãnh vực nghiên cứu của Bộ môn tâm lý học phần
lớn nhắm vào các dân tộc Bắc Mỹ và Châu Âu. Như chúng ta đã thảo luận ở chương
1, đại đa số các cuộc nghiên cứu hiện hành đều xuất phát từ Hoa Kỳ, và sau đó
là Châu Âu. Tình trạng thiếu tính đa dạng này gây trở ngại cho mục tiêu của bộ
môn tâm lý nhằm giải thích tác phong cư xử của nhân loại nói chung, khiến cho
nhiều người phê phán rằng bộ môn này chỉ cống hiến các lối giải thích đúng đắn
cho lối cư xử diễn ra trong bối cảnh các nền văn hóa phương Tây.
Tuy vậy, trong
những năm gần đây các nhà tâm lý ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các khảo
hướng giao lưu văn hóa để giải thích hành vi ứng xử của con người. Tâm lý học
giao lưu văn hóa (cross–cultural psychology), là chuyên ngành tâm lý tìm hiểu
các điểm tương đồng và dị biệt về sinh hoạt tâm lý giữa nhiều nền văn hóa và
nhóm chủng tộc khác nhau, đã trở nên ngày càng quan trọng hơn trong lãnh vực
tâm lý.
Chẳng hạn, một số
nhà tâm lý đã chú trọng đến các ảnh hưởng của văn hóa đối với hành vi ứng xử
của nhân loại, so sánh các dị biệt về cách cư xử và cách tư duy giữa các dân
tộc thuộc các nền văn hóa khác biệt nhau. Còn các nhà tâm lý khác nỗ lực phát
minh các biện pháp ngăn chặn hành vi gây chiến và củng cố hòa bình giữa các xã
hội và các nền văn hóa cực kỳ khác biệt nhau. Chúng ta sẽ tìm hiểu số đề tài
này khi thảo luận về viễn tượng toàn cầu ngày càng được quan tâm hơn trong lãnh
vực bộ môn tâm lý học.
1. Cá nhân chủ
nghĩa và chủ nghĩa tập thể: Cá nhân ngược lại tập thể
Bạn cho rằng có nên
quan tâm đến quan điểm của cha mẹ bạn trong việc chọn lựa nghề nghiệp không? Bạn
có cho rằng mình phải giúp đỡ người láng giềng thoát khỏi cảnh khốn quẫn tài
chánh không? Bạn có cho rằng mình có nghĩa vụ cho anh bạn học không đến lớp
mượn tập ghi chép bài học của bạn không?
Nếu bạn trả lời
“có” đối với tất cả các câu hỏi này, thì bạn vốn được định hướng giá trị tương
tự như người dân ở nhiều nền văn hóa châu Á và các nền văn hóa khác ngoài
phương Tây. Ngược lại, nếu như bạn trả lời “không”, thì cách trả lời của bạn
tiêu biểu hơn cho các nền văn hóa phương Tây.
Hai định hướng đối
chọi nhau này được mệnh danh là chủ nghĩa tập thể và cá nhân chủ nghĩa. Chủ
nghĩa tập thể (collectivism) là quan điểm cho rằng hạnh phúc của tập thể quan
trọng hơn hạnh phúc cá nhân, trong khi cá nhân chủ nghĩa (individualism) là
quan điểm cho rằng sự khẳng định bản thân, tính độc đáo, tự do, và giá trị của
cá nhân có tầm quan trọng chủ yếu.
Những người sống
trong các nền văn hóa theo chủ nghĩa tập thể chú trọng đến phúc lạc chung của
toàn thể mọi thành viên trong xã hội và đặc biệt của những người cùng chung tập
thể của họ. Đôi khi, hạnh phúc của tập thể còn quan trọng hơn hạnh phúc và
thành tựu của cá nhân nữa.
Ngược lại, các nền
văn hóa đặt nền tảng trên cá nhân chủ nghĩa chú trọng đến sự khẳng định bản
thân, tính độc đáo, tự do, và giá trị của cá nhân. Những người sống trong các
xã hội theo cá nhân chủ nghĩa (như Hoa Kỳ chẳng hạn) chú trọng nhiều hơn đến
mục tiêu cá nhân của họ so với mục tiêu của cộng đồng hoặc của xã hội họ đang
sống.
Tình trạng ưu thắng
của chủ nghĩa tập thể hay cá nhân chủ nghĩa trong một xã hội đặc biệt phát sinh
một số hậu quả. Chẳng hạn, sự phát triển kinh tế và công nghiệp thành công
thường gắn liền với hệ thống giá trị cá nhân chủ nghĩa. Ngược lại, thành quả
công nghiệp hóa thường yếu kém hơn ở các xã hội theo chủ nghĩa tập thể, như Ấn
Độ chẳng hạn.
Con người sống ở
các xã hội theo chủ nghĩa dị biệt này cũng khác biệt nhau về cách phán đoán các
nguyên nhân của hành vi ứng xử. Chẳng hạn, những người sống ở các nền văn hỏa Á
Châu chủ yếu theo chủ nghĩa tập thể thường khác biệt rất nhiều so với người da
trắng trong việc quy trách lý do cho thành quả học tập của mình. Thực tế các dị
biệt này có thể rất đáng kể đến mức giải thích được thành tích cao hơn của sinh
viên Châu Á, vượt trội hẳn sinh viên Mỹ trong các so sánh thành tích học tập của
sinh viên trên bình diện Quốc tế.
Đặc biệt, cuộc
nghiên cứu của nhà tâm lý giáo dục Harold Stevenson cho rằng sinh viên Nhật Bản
thường quy trách thành tích học tập của họ cho các nhân tố hoàn cảnh nhất thời,
và nhất là cho mức độ học tập chuyên cần của họ. Ngược lại, sinh viên Mỹ thường
xem thành tích học tập của họ là hậu quả của các nguyên nhân bền vững, không
thể cải biến được, và nhất là cho năng khiếu bẩm sinh của họ. Bởi vì sinh viên
Nhật cho rằng thành công học vấn là kết quả của sự chuyên cần, nên họ thường có
động cơ dốc hết nỗ lực vào việc học tập. Ngược lại, niềm tin vào năng khiếu bẩm
sinh không thể cải biến được làm cơ sở vững chắc cho thành quả học tập của sinh
viên Mỹ khiến cho họ ít dốc công sức vào việc học. Dù sao, nếu như sinh viên
cho rằng năng khiêu vốn có của họ là nguyên nhân chủ yếu của thành quả học tập
thì tại sao họ lại phải dốc nhiều công sức vào việc học kia chứ?.
Dù theo chủ nghĩa
nào, nền văn hóa cũng phải tìm cách chia sẻ số tài nguyên khan hiếm cho mọi
người trong xã hội. Chẳng hạn, người dân sống ở các nền văn hóa theo chủ nghĩa
tập thể chủ yếu sử dụng chuẩn mực bình đẳng (norm of equality) để xác định cách
thức phân chia số tài nguyên có giới hạn ấy. Chuẩn mực bình đẳng quy định rằng
tất cả mọi người phải được phân chia đồng đều, bất kể người được chia phần là
ai hay năng lực và thành tích của họ đến mức nào. Thí dụ, theo quy luật bình
đẳng mọi công dân trong một doanh nghiệp sẽ được trả lương đồng đều, bởi vì tất
cả mọi người đều được xem là bình đẳng với nhau.
Ngược lại, người
dân sống ở các xã hội theo cá nhân chủ nghĩa thường sử dụng chuẩn mực công bằng
(norm of equlity), trong đó việc phân chia số tài nguyên có giới hạn ấy căn cứ
vào công sức đóng góp của một người hoặc theo thành quả gặt hái được của họ.
Người nhận được phần chia nhiều nhất là những cá nhân đã đóng góp nhiều nhất,
còn người nhận được phần chia ít nhất là những cá nhân đã đóng góp ít nhất.
Trong một xã hội theo cá nhân chủ nghĩa – như Hoa Kỳ chẳng hạn – công nhân được
trả lương theo giá trị công sức của họ. Do đó, tiền công mỗi người nhận được
chênh lệch nhau rất nhiều.
Tóm lại, định hướng
giá trị tổng quát của người dân sống trong một nền văn hóa đặc biệt ảnh hưởng
đến hành vi ứng xử của họ theo rất nhiều chiều kích khác nhau. Nếu không chú ý
đến các nhân tố này, chúng ta không thể hiểu thấu toàn diện chiều rộng cũng như
chiều sâu của hành vi ứng xử của con người.
2. Chiến tranh, hòa
bình, và thủ đoạn khủng bố
Tuy mối đe dọa xảy
ra cuộc chiến tranh nguyên tử đã giảm đi sau khi kết thúc cuộc chiến tranh lạnh,
nhưng nó vẫn còn là mối đe dọa tiềm tàng đồi với chính sự tồn tại của nhân
loại. Các kho vũ khí hạt nhân lớn lao vẫn tiếp tục được duy trì bởi các cường
quốc chủ yếu trên thế giới, ngay đến các nước nhỏ cũng đang chạy đua phát triển
loại vũ khí giết người hàng loạt này.
Mặc dù mối đe dọa
xảy ra chiến tranh nguyên tử là một vấn đề nổi cộm, nhưng chỉ mới gần đây các
nhà tâm lý mới bắt đầu chú ý đến vấn đề này. Các đề tài tâm lý quan trọng làm
nền tảng cho cuộc chạy đua vũ trang nguyên tử bao gồm cách nhận định về kẻ thù
của chúng ta, các phản ứng đối với khả năng xảy ra chiến tranh nguyên tử và chủ
nghĩa khủng bố, cùng các biện pháp tâm lý nhằm cổ vũ việc tài giảm binh bị.
a. Ngộ nhận kẻ
thù. Cứ sáu mươi giây,
các quốc gia trên thế giới chi tiêu khoảng một triệu đô la vào mục đích trang
bị vũ khí cho mình. Trong thời gian một năm, các nước ấy chi tiêu hơn phân nửa
tổng lợi tức của dân số toàn thế giới. Nhằm mục đích như chúng ta đã nói là để
bảo vệ chúng ta trước kẻ thù.
Vậy mà quan niệm
của chúng ta về các vấn đề như ai là kẻ thù của chúng ta, họ hành động ra sao,
và tại sao họ cư xử như thế lại thường lệch lạc. Nhà tâm lý Ralph White đã lập
luận rằng, trong nhiều trường hợp sự hiểu biết của chúng ta về kẻ thù quá sai
lạc đến mức khiến cho chúng ta phạm sai lầm nghiêm trọng về mặt chiến lược. Như
là một trường hợp điển hình, White nêu ra một số sai lầm ảnh hưởng đến quyết
định tham chiến ở VN của Hoa Kỳ bao gồm hình dung kẻ thù độc ác ghê tởm, bản
thân oai hùng, cả tin vào khả năng của quân đội, thiếu cảm thông với kẻ thù, cố
tình làm ngơ trước các sự kiện thực tế, và tự cho mình hành động hợp luân lý.
Các ngộ nhận như
thế về kẻ thù (và về chính mình) không chỉ xảy ra trong cuộc chiến tranh ở VN;
nhân dân và các vị lãnh đạo các cường quốc trên thế giới vẫn cứ hay ngộ nhận
các tuyên ngôn của nhau, nên công việc giải đoán ý nghĩa lời nói của kẻ khác
quả là một công việc rất đáng sợ.