Tâm lý học căn bản - Chương 15 - Phần 1

Chương 15. SỐNG VỚI THA NHÂN TRONG MỘT THẾ GIỚI MUÔN MÀU

DÀN BÀI

Mở đầu

Triển khai chủ
đề

I. STRESS VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC

1. Phải trả giá cao
đối với stress.

2. Mô hình Hội
chứng Thích ứng Tổng quát: Diễn biến của stress.

3. Bản chất các tác
nhân gây stress: stress đối với tôi lại là niềm vui đối với bạn.

ỨNG DỤNG TLH: Rối loạn stress hậu chấn thương: Thảm họa sống lại.

4. Biện pháp khắc
phục stress.

THỪA HƯỞNG THÀNH
QUẢ CỦA TLH
: Các biện pháp
khắc phục có hiệu quả.

5. Tóm tắt và học
ôn I

II. THÀNH KIẾN VÀ KỲ THỊ

1. Các thành kiến
về giới tính.

TRÍCH DẪN THỜI SỰ: Tệ nạn quấy rồi tình dục

2. Các dị biệt giới
tính: Tương đồng nhiều hơn khác biệt.

3. Tóm tắt và học
ôn II

III. TÂM LÝ HỌC TRONG VIỄN TƯỢNG TOÀN CẦU

1 Cá nhân chủ nghĩa
và chủ nghĩa tập thể: Cá nhân ngược lại tập thể.

2. Chiến tranh, hòa
bình và thủ đoạn khủng bố.

3. Tâm lý học và nỗ
lực cổ vũ hòa bình.

4. Tóm tắt và học
ôn III.

IV. NHỮNG ĐIỂM CẦN GHI NHỚ.

V. GIẢI ĐÁP CÂU HỎI

MỞ ĐẦU

TRƯỜNG HỢP RODNEY
KING

Nếu không bị thu
hình vào băng video, vụ Rodney King bị đánh đập tàn nhẫn có lẽ không bao giờ
được đưa ra ánh sáng. Nhưng bởi vì một cư dân sống gần đại lộ Los Angeles muốn
thử ống kính thu hình mới, nên sự bất hạnh của King trở thành hàng tít lớn trên
các tờ báo khắp cả nước.

Biến cố khởi đầu
khi cảnh sát Los Angeles chặn một người Mỹ da đen tên là Rodney King sau một
cuộc rượt đua căng thẳng bằng ôtô vào đầu năm 1991. Theo báo cáo của cảnh sát,
King đã kháng cự lệnh bắt nên họ bị buộc phải đánh hạ anh ta. Thế nhưng, những
người xem cuốn băng video lại thấy diễn biến sự việc hoàn toàn khác hẳn. Trong
cuốn băng hình, các cảnh sát viên đã đánh đập King liên hồi trong khi anh té
nằm dưới đất, cố gắng ngồi dậy. Anh đã bị đánh đến 40 cú bằng dùi cui cảnh sát,
và bị đá vào người nhiều lần bởi một vài cảnh sát. Dây đeo súng của cảnh sát
vẫn còn cột quanh người anh. Một nhóm rất đông cảnh sát viên và cảnh sát tuần
tra xa lộ đang đứng gần hiện trường, điềm nhiên theo dõi. King bị gãy xương
nhiều nơi, đến xương sống cũng bị gãy, một khóe mắt bi rách, và một chân bị gãy
lìa.

Theo những người
chỉ trích phía cảnh sát, vụ đả thương King chỉ là một trong rất nhiều vụ bê bối
đã xảy ra mà động cơ phần lớn là thành kiến chủng tộc. Một điều tra về các
thông điệp do máy điện toán lưu trữ đã xác nhận quan điểm ấy.

Chẳng hạn, trong
một thông điệp chuyển đi trước đó vào hôm xảy ra vụ đả thương King, một trong
số bốn cảnh sát viên bị cáo buộc ra tay hành hung đã ám chỉ một vụ cãi vã trong
nội bộ một gia đình Mỹ gốc châu Phí sống gần nhà mình là “đúng y như một cảnh
trong cuốn phim Dã nhân trong sương mù” một cảnh sát viên khác cười to đáp: “Ha
ha ha ha Để tôi đoán xem họ là ai nhé.”

Phán quyết vô tội ở
phiên tòa sơ thẩm xử bốn cảnh sát viên liên quan đến vụ đả thương trái phép ấy
đã làm dấy lên một làn sóng bạo loạn khiến thiệt mạng nhiều người và tổn thất
tài sản lên đến hàng tỉ đô la. Trong phiên tòa phúc thẩm sau đó, hai trong số
bồn cảnh sát viên bị cáo ấy đã bị chứng minh phạm tội xâm phạm quyền công dân
của King; và mặc dù không còn các vụ bạo loạn xảy ra nữa, nhưng các quan hệ
chủng tộc ở Los Angeles, cũng như ở khắp nước Mỹ, vẫn còn là vấn đề phát sinh
tai họa.

TRIỂN KHAI CHỦ ĐỀ

Vụ đả thương King
là dấu hiệu của tệ nạn thành kiến và kỳ thị lan tràn khắp thế giới ngày nay.
Chúng ta chứng kiến nó hoành hành ở xứ Nam Tư cũ, nơi các phe tham chiến tàn
sát lẫn nhau trong cuộc “thanh tẩy chủng tộc”. Chúng ta cũng thấy nó hiện diện
ở các khuôn viên đại học, nơi phát sinh các trường hợp căng thẳng giữa rất
nhiều nhóm chủng tộc, tôn giáo và sắc tộc thiểu số khác nhau.

Trong chương này,
chúng ta thảo luận xem các nhà tâm lý học chủ trương ra sao về một số vấn đề
cực kỳ hệ trọng mà thế giới ngày nay đang phải đối đầu. Trước hết, chúng ta chú
trọng đến vấn đề liệu với tư cách cá nhân chúng ta làm sao để đối phó với
stress gặp phải trong cuộc sống thường ngày. Qua đó, chúng ta tìm hiểu các
nguyên nhân gây ra stress và một số biện pháp nhờ đó con người đối phó hữu hiệu
với stress. Sau đó chúng ta quay sang đề tài thành kiến và kỳ thị, cân nhắc xem
thành kiến phát sinh ra sao và ảnh hưởng thế nào đến cách cư xử của chúng ta
đối với người khác. Chúng ta đặc biệt chú trọng đến vấn đề liệu nam giới và nữ
giới bị phân biệt đối xử ra sao và lối đối xử như thế gây ra các hậu quả nào.

Cuối cùng, chúng ta
quay sang các vấn đề phản ảnh tính đa dạng của nhân loại, mở ra cho bộ môn tâm
lý học một viễn cảnh toàn cầu. Chúng ta tìm hiểu các chiều kích theo đó các dân
tộc thuộc các nền văn hóa dị biệt có lối tư duy và cư xử khác biệt nhau, nhân
đó khảo xét một số khám phá gặt hái được nhờ các cuộc nghiên cứu quan trọng về
mặt giao lưu văn hóa. Chương này – và chính tác phẩm này – kết thúc bằng việc
khảo xét kiến thức mà các nhà tâm lý đã gặt hái được về các nhân tố gây ra
chiến tranh, cũng như về các biện pháp cổ vũ cho nền hòa bình thế giới.

Tóm lại, đọc xong
chương này bạn sẽ đủ sức trả lời các câu hỏi sau đây:

– Stress là gì, nó
tác động đến chúng ta ra sao, và chúng ta làm thế nào đối phó hữu hiệu nhất?

– Các nguyên nhân
nào gây ra thành kiến và kỳ thị?

– Giữa các vai trò
giới tính của nam giới và nữ giới có các điểm khác biệt chủ yếu nào?

– Nền văn hóa gây
ảnh hưởng gì đối với cách cư xử của con người?

– Làm cách nào ngăn
chặn chiến tranh và nuôi dưỡng hòa bình?

I. STRESS VÀ
BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC

Bây giờ là 10 giờ
26 phút sáng. Là một nội trợ, vừa là bà mẹ, và phụ tá quản lý một bệnh viện ở
khu trung tâm thành phố Teaneck thuộc tiểu bang New Jersey, Cathy Collins đã
thức dậy trước đây 5 tiếng đồng hồ. Bà đã chuẩn bị điểm tâm dành sẵn cho mấy
đứa con rồi đáp hai chuyến xe buýt đến phòng làm việc chật hẹp và không có cửa
sổ thông gió.

– Bà đang đứng tại
bàn làm việc với chiếc điện thoại từ trên vai, nỗ lực giải quyết cho xong một
số công việc cần kíp sau:

– Một bệnh nhân
trước bàn làm việc của bà, chờ dịp hỏi bà một số việc.

– Viên thư ký yêu
cầu xem phác đồ điều trị của một bệnh nhân khác.

– Hai cú điện thoại
phải liên hệ, và chiếc máy intercom đang léo nhéo truyền lệnh.

– Một vài mẫu hồ sơ
phải hoàn tất nằm trên bàn, và bà đang cố gắng điền vào trong khi bận trả lời
điện thoại.

– Một lô hồ sơ dày
cả tấc trong hộp “công văn đến”.

– Ông sếp vừa bước
vào yêu cầu là sao một số giấy tờ.

Giờ đây, một bộ máy
đeo quàng lên ngực và cổ tay cho thấy huyết áp và nhịp tim của bà đều tăng lên
tuần tự 25 và 15% trên mức bình thường. Dù sao, các số đo này cũng không phải
là mức gia tăng cao nhất trong ngày của bà Collins.

Bởi vì Cathy
Collins đang tham dự một cuộc khảo cứu về stress của bệnh viện nơi bà phục vụ,
nên chúng ta biết được phản ứng sinh lý kín đáo của bà đối với sự việc xảy ra
vào lúc này. Và dù không có các con số đo lường các phản ứng xúc cảm này của
bà. Dường như hầu hết chúng ta đều đoán được tình trạng mà bà sẽ báo cáo đang trải
qua trong thời gian này là stress.

* Stress: bất kỳ nhân tố nào đe dọa đến sức khỏe cơ thể hay có tác
động phương hại đến các chức năng cơ thể, như tổn thương, bệnh tật, hay tâm
trạng lo âu chẳng hạn. Một dạng stress hiện hữu có khuynh hướng làm giảm sức đề
kháng của con người đối với dạng stress khác. Bị stress liên tục sẽ gây thay
đổi tình trạng cân bằng hormone trong cơ thể (theo Từ điển Y học).

Hầu hết chúng ta
đều ít được giới thiệu về hiện tượng stress* mà theo chính thức định nghĩa là
phản ứng trước các sự kiện đe dọa hoặc thách thức con người. Cho dù sự việc ấy
là hạn nộp bài tiểu luận hay bài thi, là một rắc rối trong gia đình, hay cả đến
một lô tích lũy các sự việc tầm thường như Cathy Collins gặp phải trong công
việc thường ngày, thì cuộc sống vẫn dẫy đầy các sự kiện hay tình huống – gọi là
tác nhân gây stress (stressor) – đe dọa đến hạnh phúc của chúng ta. Ngay đến
các sự kiện thú vị – như dự định tổ chức một buổi tiệc hoặc khởi đầu một công
việc ưa thích chẳng hạn cũng có thể gây ra stress, tuy các biến cố tiêu cực đưa
đến các hậu quả tác hại hơn các biến cố tích cực.

Tất cả chúng ta đều
gặp phải stress trong cuộc sống của mình. Một số nhà tâm lý về sức khỏe tâm
thần cho rằng cuộc sống thường ngày trên thực tế bao gồm một loạt các chuỗi
diễn biến lặp đi lặp lại, mà trong một chuỗi ấy con người nhận thức mối đe dọa,
tìm cách đối phó, và sau cùng tìm cách thích ứng với đe dọa ấy; và mức độ thích
ứng thành công không phải lúc nào cũng được như ý. Tuy bình thường sự thích ứng
ấy không có gì đáng kể và xảy ra ngoài phạm vi ý thức của chúng ta, nhưng trong
các trường hợp stress nghiêm trọng hơn và kéo dài hơn thì sự thích ứng đòi hỏi
rất nhiều nỗ lực và có thể gây ra các phản ứng sinh lý và tâm lý nguy hại cho
sức khỏe của con người.

1. Phải trả giá cao
đối với stress

Stress có thể hoành
hành theo nhiều cách, gây ra các hậu quả về mặt sinh lý lẫn tâm lý. Thông
thường phản ứng tức thời nhất đối với stress là phản ứng sinh lý, bởi vì sự
tiếp cận với stress làm tăng số lượng tiết ra của một vài loại hormone ở tuyến
thượng thận, nhịp tim và áp huyết tăng vọt lên, và gây biến động mức dẫn truyền
xung điện ở da. Trong ngắn hạn, con người có thể chịu đựng được các phản ứng
này bởi vì chúng gây ra một “phản ứng khẩn trương” – phản ứng của phân hệ thần
kinh giao cảm đã được thảo luận ở chương 2 – giúp cho con người đối phó hữu
hiệu hơn với tình huống căng thẳng.

Tuy nhiên, tiếp cận
thường xuyên với stress sẽ khiến cho toàn bộ chức năng sinh học của cơ thể sút
giảm đi bởi vì các loại hormone liên quan đến stress tiết ra không ngừng. Lâu
ngày, các phản ứng căng thẳng ấy có thể gây ra tình trạng thoái hóa thực sự ở
các mô cơ thể, như mạch máu và bộ phận tim chẳng hạn. Sau cùng, chúng ta sẽ lâm
vào tình trạng dễ bị nhiễm bệnh bởi vì khả năng đề kháng vi trùng gây bệnh của
cơ thể đã giảm đi.

* Rối loại cơ thể
tâm thần
(psychosomatic
disorders) các rối loạn liên quan đến hay bao gồm các nhân tố tâm trí lẫn cơ
thể, thường để chỉ các bệnh phát sinh do tương tác giữa các nhân tố vừa kể. Một
số bệnh cơ thể như suyễn (asthma), eczema và loét đường tiêu hóa (peptic ulcer)
bị cho là phần nào do các stress tâm lý và xã hội gây ra. Các biện pháp trị
liệu tâm lý đôi khi có tác dụng rõ rệt, nhưng thường kém hậu quả hơn các biện
pháp trị liệu cơ thể đối với các chứng bệnh này (theo Từ điển Y học).

Không kể các chứng
bệnh nghiêm trọng, rất nhiều cơn đau nhức lặt vặt của chúng ta đều có thể do
stress gây ra hoặc làm cho trầm trọng hơn. Các triệu chứng này gồm nhức đầu,
đau lưng, ban ngứa ở da (skin rashes), khó tiêu, mệt mỏi và táo bón. Ngoài ra,
toàn bộ một nhóm rối loạn bệnh lý, gọi là các rối loạn cơ thể tâm thần
(psychosomatic disorders), thường là hậu quả của stress. Các dạng rối loạn bệnh
lý này phát sinh do sự tương tác giữa các rối loạn tâm lý, tình cảm và cơ thể.
Các rối loạn cơ thể tâm thần thường thấy nhất là loét bao tử (ulcer), hen
suyễn, viêm khớp (arthritis), áp huyết cao và chàm (eczema). Thực tế, khả năng
khởi phát các chứng bệnh nghiêm trọng dường như đều liên quan đến nhiều biến cố
căng thẳng xảy ra cho người bệnh (xem bảng 15–1).

BẢNG 15–1

Dự đoán bệnh trong
tương lai căn cứ vào stress trong quá khứ

Phải chăng trong
tương lai bạn sẽ mắc phải một chứng bệnh liên quan đến stress? Các cuộc điều
tra nghiên cứu đều cho nhiều tác nhân gây stress trong cuộc sống một người có
liên hệ đến một cơn bệnh nặng của người ấy.

Để biết mức độ
stress trong cuộc sống của bạn, hãy lấy trị số gán cho tác nhân gây stress ghi
bên cạnh mỗi biến có mà bạn đã từng trải qua nhân với số lần xảy ra biến cố ấy
trong năm qua (tối đa 4 lần), rồi cộng các điểm số ấy lại:

87 Cái chết của
người hôn phối

77 Kết hôn

77 Cái chết của
người thân trong gia đình

76 Ly hôn

74 Bắt đầu sống ly
thân

68 Cái chết của một
người bạn thân

68 Mang thai hoặc
tác giả của bào thai

65 Bị thương tích
hay bệnh nặng

62 Bị mất việc làm

60 Từ hôn hoặc kết
thúc quan hệ lâu dài

58 Gặp rắc rối
trong sinh hoạt tình dục

58 Hòa giải tranh
chấp với người hôn phối

57 Cải biến lớn
trong nhận định bản thân hay tự trị

56 Một thành viên
trong gia đình bị bệnh nặng hay thay đổi lớn lao về cách cư xử

54 Làm lễ hứa hôn

53 Thay đổi lớn về
tình trạng tài chánh

52 Nợ thế chấp hay
vay dưới 10.000 đô la tiền mặt

52 Thay đổi lớn về
thói quen sử dụng dược phẩm

50 Xung đột hoặc
thay đổi lớn về thang giá trị

50 Thay đổi lớn về
mức độ cải vã với người hôn phối

50 Tiếp nhận một
thành viên mới trong gia đình

50 Vào đại học

50 Đổi sang trường
mới

50 Đổi sang làm
việc ở một bộ phận mới trong sở làm

49 Thay đổi lớn lao
về mức độ độc lập và trách nhiệm

47 Thay đổi lớn lao
về trách nhiệm ở sở làm

46 Thay đổi lớn về
tửu lượng

45 Cải sửa các thói
quen thường ngày

44 Gặp rắc rối với
ban giám hiệu nhà trường

43 Nhận việc làm
trong thời gian đi học

43 Thay đổi lớn
trong các hoạt động xã hội

42 Gặp rắc rối với
ông bà nhạc

42 Thay đổi lớn về
giờ giấc hay điều kiện làm việc

42 Đổi chỗ ở hay
điều kiện sinh hoạt

41 Người hôn phối
bắt đầu đi làm hay nghỉ sở làm

41 Thay đổi bộ môn
học tập chủ yếu đã chọn

41 Thay đổi thói
quen hẹn hò

40 Đạt được thành
quả cá nhân nổi bật

38 Gặp rắc rối với
thượng cấp

38 Thay đổi lớn về
mức độ tham gia sinh hoạt học đường

37 Thay đổi lớn về
loại hình và/hoặc mức độ sinh hoạt giải trí

36 Thay đổi lớn về
sinh hoạt tôn giáo

34 Thay đổi lớn về
thói quen đi ngủ

33 Du ngoạn hay đi
nghỉ mát

30 Thay đổi lớn về
thói quen ẩm thực

26 Thay đổi lớn về
số lần họp mặt gia đình

20 Bị cáo buộc vi
phạm tội vi cảnh

Điểm số tổng
cộng
. Nếu tổng số điểm
của bạn vượt quá 1435, thì bạn thuộc loại bị stress nặng và theo Marx, Garrity,
Bowers (1975) bạn có nguy cơ sẽ bị bệnh có liên quan đến stress trong tương
lai. Ngược lại, bạn chớ nên tin rằng điểm số cao nhất định sẽ mắc bệnh trong
tương lai. Bởi vì nghiên cứu cho thấy tuy stress và bệnh tật có liên quan,
nhưng không thể nói rằng các biến cố căng thẳng quan trọng nhất thiết sẽ gây ra
bệnh tật. Ngoài ra, một số nghiên cứu cho rằng bệnh tật trong tương lai tốt hơn
nên được dự đoán theo các rắc rối đang diễn ra trong cuộc sống thường ngày, chứ
không nên dự đoán theo các biến cố lớn miêu tả trong bảng lục vấn này. Dù vậy,
mức độ nhiều biến cố căng thẳng trong cuộc sống là một nguyên nhân đáng quan
tâm, và do đó sẽ khiến cho việc áp dụng các biện pháp giảm stress thành ra có ý
nghĩa:

Trên bình diện tâm
lý, quá nhiều stress sẽ ngăn cản người ta đối phó đúng mức với cuộc sống. Nhận
định về hoàn cảnh sống của họ có thể kém sáng suốt đi (một phê phán không đáng
kể của một người bạn cũng làm cho họ mất bình tĩnh), và – khi stress quá mức –
các phản ứng xúc cảm có thể trầm trọng đến mức khiến cho ta không còn khả năng
hành động gì cả. Hơn nữa, người bị quá nhiều stress sẽ sụt giảm khả năng đối
phó với các tác nhân gây stress mới nảy sinh. Như vậy khả năng đề kháng stress
trong tương lai sẽ giảm đi do hậu quả của stress trong quá khứ.

2. Mô hình hội
chứng thích ứng tổng quát: Diễn biến của stress

Các ảnh hưởng của
stress được minh họa qua một mô hình do lý thuyết gia stress nổi tiếng là Hans
Selye (Selye, 1976) xây dựng. Mô hình này là Hội chứng thích ứng tổng quát
(General adaptation syndrome, viết tắt là GAS), cho rằng bất kể nguyên nhân đặc
biệt gây stress là gì cũng đều xảy ra một loạt phản ứng sinh lý giống nhau
trong mọi trường hợp.

Như trình bày ở
Hình 15–1 dưới đây, mô hình này gồm ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất, gọi là
giai đoạn báo động và động viên năng lực (alarm and mobilization stage), xảy ra
khi người ta ý thức sự hiện diện của tác nhân gây stress. Thí dụ, giả sử bạn
biết rằng vào cuối học kỳ đầu ở đại học bạn phải qua thử thách học vấn vì điểm
thấp. Có lẽ trước tiên bạn sẽ phản ứng bằng sự báo động cảnh giác, cảm thấy lo
âu và bối rối. Dù vậy, sau đó có lẽ bạn sẽ bắt đầu động viên mọi nỗ lực của
mình; trù liệu kế hoạch và hứa với lòng sẽ học tập chuyên cần hơn trong học kỳ
sau.

Hình 15–1: Hội chứng thích ứng tổng quát (GAS) cho rằng phản ứng với
stress của con người bao gồm ba giai đoạn chủ yếu (Selye, 1976).

Về mặt tâm lý, phân
hệ thần kinh giao cảm được kích thích trong suốt giai đoạn báo động và động
viên này. Sự kéo dài tình trạng phát động hệ thần kinh này có thể dẫn đến các
rối loạn trong hệ tuần hoàn máu hoặc bệnh loét dạ dày và cơ thể dễ mắc nhiều
thứ bệnh khác.

Trong giai đoạn thứ
hai của mô hình, gọi là giai đoạn đề kháng (resistance stage), bạn sẽ dọn mình
để đấu tranh với tác nhân gây stress. Trong giai đoạn đề kháng, con người dùng
rất nhiều biện pháp để đối phó với tác nhân gây stress – đôi khi thành công –
nhưng với cái giá phải trả là đánh mất phần nào hạnh phúc nói chung về mặt cơ
thể hay về mặt sinh lý. Chẳng hạn, nỗ lực đề kháng của bạn có thể dưới dạng
dành nhiều thời gian để học tập hơn. Sau cùng, bạn có thể đạt được điểm thi cao
hơn, nhưng có lẽ bạn phải hy sinh thời gian dành để ngủ nghê và trải qua nhiều
lúc lo âu.

Nếu đề kháng không
đúng mức, bạn sẽ tiến đến thời kỳ cuối cùng là giai đoạn kiệt sức (exhaustion
stase). Trong giai đoạn này, khả năng thích ứng với tác nhân gây stress của con
người sút giảm xuống đến mức các hậu quả tệ hại của stress xuất hiện: bệnh cơ
thể, các triệu chứng tâm lý dưới dạng mất khả năng tập trung tinh thần, dễ cáu
giận, hoặc trong một vài trường hợp, bị mất định hướng và mất khả năng tiếp xúc
với thực tại. Theo một ý nghĩa nào đó, người ta hoàn toàn kiệt sức. Chẳng hạn,
nếu bạn bị đè bẹp bởi áp lực đạt được thành tích khả quan trong mọi môn học,
bạn có thể bị ngã bệnh hay thấy mình không còn đủ sức học nữa.

Dĩ nhiên, không
phải mọi người đều tiến đến giai đoạn kiệt sức. Nếu người ta có thể đề kháng
được tác nhân gây stress ở giai đoạn hai, thì năng lực thể chất của họ không bị
tiêu hao hết và có thể phục hồi được, nhờ đó tránh được tình trạng kiệt sức.

Người ta làm cách
nào để vượt qua giai đoạn thứ ba này một khi đã lỡ lâm vào? Trong một số trường
hợp, tình trạng kiệt sức cũng có nghĩa là người ta có thể tránh né được tác
nhân gây stress. Thí dụ, những người bị ngã bệnh vì làm việc quá sức có thể
được miễn trừ thi hành bổn phận trong một thời gian, nhờ đó họ được tạm thời
miễn trách. Như vậy, ít ra stress trước mắt bị giảm đi trong một thời gian.

Mô hình GAS có ảnh
hưởng quan trọng đối với việc tìm hiểu của chúng ta về stress. Chẳng hạn, nhờ
quan điểm cho rằng tình trạng cạn kiệt nguồn năng lượng trong giai đoạn thứ ba
gây tổn thương về mặt sinh lý, mô hình này đã đưa ra một lý giải đặc biệt về
hậu quả gây bệnh của stress. Ngoài ra, mô hình này có thể áp dụng cả cho con
người cũng như các loài động vật khác.

Ngược lại, người ta
cũng đã đặt nghi vấn về một vài điểm đặc biệt của mô hình GAS. Một trong những
phê phán quan trọng nhất nhắm vào quan niệm của lý thuyết này về phản ứng khẩn
trương của phân hệ thần kinh giao cảm được phát động trong suốt giai đoạn báo
động và động viên năng lực. Lý thuyết này cho rằng phản ứng đều giống nhau trên
căn bản đối với bất kỳ loại tác nhân gây stress nào. Thế nhưng, một số nhà phê
bình lập luận rằng một số tác nhân gây stress nhất định là nguyên nhân của các
phản ứng sinh lý cá biệt, như chúng thúc đẩy một vài loại hormone đặc biệt tiết
ra. Do đó, các phản ứng do stress gây ra có thể không tương đồng với nhau lắm
như chủ trương của GAS.

Hơn nữa, mô hình
này hoàn toàn căn cứ vào các nhân tố sinh lý nên không quan tâm nhiều đến các
nguyên nhân tâm lý, nhất là trong các trường hợp các tác nhân gây stress được
đánh giá khác biệt nhau tùy mỗi người. Dù sao, mô hình này vẫn đề ra một cơ sở
cho việc tìm hiểu stress của chúng ta.

3. Bản chất của các
tác nhân gây stress: stress đối với tôi, lại là niềm vui đối với bạn

Như đã đề cập ở
trên, mô hình GAS hữu ích cho việc giải thích phản ứng đối với stress, nhưng nó
lại thiếu cụ thể về các yếu tố hình thành tác nhân gây stress đối với một cá
nhân nhất định. Mặc dù hiển nhiên một số biến cố nhất định, như cái chết của
một người thân thương hoặc tham gia cuộc chiếc tranh chẳng hạn, hầu như đều gây
căng thẳng chung cho mọi người, nhưng các tình huống khác có thể hoặc không gây
căng thẳng cho một cá nhân nào đó. Thí dụ, hãy xét trường hợp đua ôtô chẳng
hạn. Một số người chúng ta cho rằng lái xe hơi với tốc độ nguy hiểm là một hành
động vô cùng căng thăng, một hành động rất có thể gây ra các phản ứng giống như
các biến cố gây căng thẳng khác. Nhưng đối với một số người khác thì đua ôtô là
một hành động thách đố rất hào hứng. Thay vì cảm thấy stress, họ mong chờ được
dịp lái xe trên vòng đua với tốc độ 200 dặm/giờ. Như vậy, đua xe gây căng thẳng
hay không còn tùy thuộc phần lớn vào cảm nhận của một người đối với hoạt động
này.

Đối với những người
xem một biến cố nào đó gây căng thẳng, họ phải nhận định biến cố ấy gây đe dọa và
không đủ năng lực để đối phó hữu hiệu. Do đó, cùng một sự việc đôi khi là biến
cố gây căng thẳng, nhưng vào lúc khác lại chẳng gây ra chút phản ứng căng thẳng
nào cả. Thí dụ, một thanh niên có thể cảm thấy căng thẳng khi bị thất hẹn – nếu
anh ta quy trách sự khước từ đó cho tình trạng kém hấp dẫn hay kém giá trị của
mình. Nhưng nếu anh ta quy trách sự khước từ ấy cho một nhân tố nào đó không
liên quan gì đến lòng tự ái, như sự giao hẹn trước đó của người phụ nữ khi anh
ta đề nghị gặp gỡ chẳng hạn, thì cảm nhận bị khước từ có thể không gây căng
thẳng chút nào cả. Do đó, các nhân tố thuộc tiến trình trí tuệ liên quan đến
cách giải thích biến cố của chúng ta cũng đóng một vai trò quan trọng trong
việc xác định xem biến cố nào gây ra tình trạng căng thẳng.

Nhiều nhân tố khác
cũng ảnh hưởng đến mức độ trầm trọng của stress. Chẳng hạn, mức độ căng thẳng
sẽ cao hơn khi tầm quan trọng cũng như số lượng mục tiêu muốn đạt đến tỏ ra
nhiều đe dọa, khi mối đe dọa cận kề, hoặc khi biến cố gây đe dọa có nguy cơ lan
rộng qua một thời gian dài.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3