Tâm lý học căn bản - Chương 12 - Phần 5
4/ Tóm tắt và học
ôn III
A. TÓM TẮT
– Mặc dù có nhiều
nhược điểm, các hệ thông phân loại vẫn cần thiết để miêu tả và sau đó để tìm
hiểu các dạng hành vi ứng xử bất bình thường.
– Cẩm nang chẩn
đoán và lập thông kê các dạng rối loạn tâm trí, phát hành lần thứ tư
(Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Fouth Editlon – viết
tắt là DSM–IV) miều tả hơn 200 cách chẩn đoán khác nhau về hành vi ứng xứ bất
bình thường.
– Các rối loạn dạng
lo âu (Anxiety disorders) xảy ra khi tình trạng lo âu quá nghiêm trọng đến mức
gây trở ngại cho sinh hoạt thường ngày của con người.
– Các rối loạn biểu
hiện ở cơ thể (Somatoform disorders) là có các rối loạn tâm lý biểu hiện ở cơ
thể con người.
– Các rối loạn phân
ly (Dissocialtive disorders) xảy ra khi có tình trạng tách biệt các bộ phận thuộc
nhân cách bình thường vốn hợp nhất với nhau.
B. HỌC ÔN
1/ Tài liệu DSM–IV
được soạn thảo nhằm miêu tả các dạng hành vi ứng xứ bất bình thường và đề nghị
các nguyên nhân căn bản lý giải các lối cư xử đó. Đúng hay Sai?...
2/ Tình trạng lo âu
kéo dài và nhất quán nhưng không có nguyên nhân rõ rệt được gọi là...
3/ Kathy kinh sợ
các thang máy. Rất có thể cô bị.
a. Rối loạn dạng ám
ảnh cưỡng bách (Obsessive – compulsive disorder).
b. Rối loạn dạng ám
ảnh sợ hãi (phobic disorder).
c. Rối loạn dạng
kinh khủng (panic disorder).
d. Rối loạn chứng
lo âu vô cớ (generalized anxiety disorder).
4/ John miêu tả một
trường hợp tình cờ trong đó tình trạng lo âu của anh đột ngột dâng lên đến cực
điểm khiến anh có cảm tưởng sắp chết đến nói vậy. Anh ấy đã trải qua một...
5/ Những ý tưởng
gây rắc rối kéo dài trong nhiều ngày hay nhiều tháng được gọi là:
a. Các ám ảnh
(obsessions)
b. Các tình trạng
bị cưỡng bách (compulsion).
c. Các nghi thức
(rituals).
d. Các cơn khủng
hoảng (panic attacks)
6/ Một thúc đẩy
không cưỡng lại được buộc phải thực hiện một nghi thức kỳ lạ được gọi là...
7/ Rối loạn chuyển
dạng (conversion disorder) khác biệt với bệnh tưởng (hypochondriasis) ở điểm
chủ yếu nào?
8/ Sự tách biệt các
bộ phận thuộc nhân cách, giúp người ta tránh né các tình huống căng thẳng, là
nhân tố then chốt các rối loạn...
9/ Sue Ann không
còn nhớ gì về khoảng thời gian kể từ khi cô dọn đến ở một tỉnh khác và thay đổi
lý lịch của mình. Có lẽ cô bị chứng.
a. Loạn trí bỏ nhà
ra đi (dissociative fugue).
b. Mất trí nhớ phân
ly (dissociative amnesia).
c. Nhân cách biến
động (varible personality).
d. Đa nhân cách
(multiple personality).
C. CÂU HỎI TỰ VẤN
Bạn tán thành hay
không tán thành ý kiến cho rằng cứ vài năm tài liệu DSM–IV phải được cập nhật?
Điều gì khiến cho bệnh tâm thần hay thay đổi đến thế? Tại sao không thể có một
định nghĩa bất biến về “bệnh tâm thần”?
(Giải đáp câu hỏi
học ôn ở cuối chương)
5. Các rối loạn tâm
trạng: tình cảm bất ổn
Tôi chẳng màng đến
mọi sự. Tôi không thích cưỡi ngựa, bởi vì môn thể thao ấy quá mạnh bạo. Tôi
không thích môn đi bộ đường dài, bởi vì nó đòi hỏi quá nhiều gắng sức. Tôi
không muốn nằm xuống, bởi vì hoặc tôi phải giữ mình ở tư thế nằm, mà tôi lại
không thích làm điều đó, hoặc tôi phải ngồi dậy, và tôi cũng không thích làm
như thế nữa... Tôi chẳng buồn thích thú gì cả.
Bạn đã từng nộp đơn
xin làm một việc làm mà bạn thực sự mong muốn, và sau khi trải qua một cuộc
phỏng vấn khổ sở chỉ để biết không nhận được việc làm sau đó không? Mặc dù các
phản ứng của bạn có lẽ không mãnh liệt bằng các phản ứng được triết gia Đan
Mạch Soren Kierkegaard miêu tả trong đoạn văn nói trên, nhưng rất có thể bạn đã
trải qua một thứ tình cảm u uất, một phản ứng buồn phiền và sầu muộn. Dù vậy,
không giống như Kierkegaard người đã chịu đựng tâm trạng trầm cảm trong một thời
gian rất lâu, rất có thể không lâu sau đó bạn sẽ quay trở lại tâm trạng tươi
vui hơn. Tất cả chúng ta đều đã nếm qua các đao động tâm trạng. Đôi khi chúng
ta cảm thấy hạnh phúc, thậm chí cảm thấy sảng khoái; những lúc khác chúng ta
lại cảm thấy bồn chồn lo ngại, u sầu, hoặc thất vọng chán chường. Các biến đổi
tâm trạng như thế là sự kiện bình thường trong cuộc sống hàng ngày. Thế nhưng,
ở một số người các tâm trạng ấy lại quá rõ nét và kéo dài khá lâu đến mức gây
trở ngại cho khả năng hoạt động hữu hiệu. Trong các trường hợp cực đoan, một
tâm trạng nào đó có thể đe dọa cuộc sống, và trong các trường hợp khác, nó có
thể khiến cho người ta không còn tiếp cận với thực tế được nữa. Các tình huống
ấy gọi là các rối loạn tâm trạng (mood disorders), tức là các rối loạn tình cảm
đến mức phương hại đến sinh hoạt thường ngày của con người.
a. Trầm cảm
nặng. Moses. Roursseau. Dostoevsky.
Nữ hoàng Victoria. Lincoin. Tchalkovsky. Freud.
Các nhân vật này có đặc điểm nào giống nhau? Người ta cho rằng các vị này
đều từng trải qua các cơn trầm cảm nặng (major depressions) định kỳ, là một
dạng rối loạn tâm trạng thường thấy nhất. Bình thường, khoảng 14 triệu người Mỹ
bị chứng trầm cảm nặng, và trầm cảm là dạng rối loạn thường chẩn đoán được
nhiều nhất ở các bệnh viện đều trị ngoại trú, gây đau khổ cho khoảng 1/3 số
bệnh nhân đến khám chữa bệnh.
Nữ giới dễ mắc phải gấp hai lần so với nam giới, với 1/4 tổng số phụ nữ đã
từng bị trầm cảm một lần trong đời. Ngoài ra, tỷ lệ mắc phải chứng trảm cảm
đang trên đà gia tăng, và hiện nay số người mắc phải nhiều hơn so với hai thế
hệ trước đây. Hiện tượng trầm cảm thậm chí cũng thường thấy ở tuổi ấu thơ. Thí
dụ, trong một mẫu điều tra gồm ba ngàn em học sinh lớp 3, lớp 4 và lớp 5, người
ta khám phá được đến 5% các em bị chứng trầm cảm.
Khi các nhà tâm lý nói đến chứng trầm cảm nặng, họ không có ý nói đến tình
trạng buồn rầu xuất phát từ một kinh nghiệm thất vọng nào đó trong đời. Bình
thường tình trạng trầm cảm xảy ra sau sự đổ vỡ mối quan hệ lâu dài, sau cái
chết của một người mình thương yêu, hay sau biến cố mất sở làm. Nguyên nhân
thậm chí còn thường thấy đối với các dạng trầm cảm kém nghiêm trọng hơn: học
tập không đạt được kết quả khả quan hay không trúng tuyển trường đại học theo
sở thích (về bảng liệt kê các rắc rối thường thấy đối với giới sinh viên đại
học, hãy xem bảng 12–3 dưới đây).
BẢNG 12–3
Các rắc rối trong cuộc sống của giới sinh viên đại học:
Sau đây là các rắc rối thường thấy nhất trong sinh hoạt của giới sinh viên
đại học:
Đối với nam sinh |
Đối với nữ sinh |
Điểm số |
Việc phải làm cho |
Cuộc sống xã hội |
Thiết lập các |
Các quyết định |
Căng thẳng vì làm |
Tương lai |
Điểm số |
Các quan hệ tình |
Thích nghi với |
Các áp lực từ |
Đạt được tình |
Thích nghi với |
Khẳng định bản thân |
Xa gia đình lần |
Áp lực từ phía |
Ganh đua |
Áp lực từ phía |
Trầm cảm |
Các nguyên tắc |
Các rắc rối này phổ
biến đến mức nào? Một cuộc điều tra cho thấy 47% số sinh viên được phỏng vấn đã
nói rằng họ có ít nhất một ưu tư tâm lý đối với các rắc rối ấy. Ngoài ra, một
vài nhóm sinh viên mắc phải các rối loạn đặc biệt. Thí dụ, các sinh viên cân
nặng quá mức báo động báo cáo rằng họ thường có nhiều cơn sợ hãi về mặt tâm lý
hơn, và các phụ nữ chủng tộc thiểu số thường xuyên bị rắc rối thúc đầy bởi bản
năng nhiều hơn phụ nữ da trắng.
Những người bị trầm
cảm nặng đều trải qua các cảm giác giống nhau, nhưng tính nghiêm trọng thường
rất khác biệt nhau. Họ có thể cảm thấy mình vô dụng, không xứng đáng, cô đơn và
họ có thể thất vọng về tương lai – những tâm trạng này có thể tiếp diễn trong
nhiều tháng hay nhiều năm. Họ có thể đắm mình vào các cuộc rượu chè be bét
không kiềm chế nổi hoặc ngủ mê man không chịu tỉnh, tính chất sâu sắc của các
lối cư xử đó và thời gian kéo dài là dấu hiệu của chứng trầm cảm nặng.
* Trầm cảm (depression): tình trạng tâm thần đặc trưng bởi cơn
buồn cực độ. Sinh hoạt cơ thể bi khuấy động không ngừng hoặc chậm chạp và trễ
nải. Tác phong cư xử bị chi phối bởi các niềm tin bi quan hoặc tuyệt vọng, và
các hoạt động như ăn uống, ngủ nghỉ, và tập trung suy nghĩ đều bị rối loạn. Có
rất nhiều nguyên nhân. Loạn tâm thần hưng cảm – trầm cảm (manic – depressive
psychosis) gây ra chứng trầm câm nặng, trong đó có thể có ảo tưởng rằng mình vô
dụng, bệnh hoạn, độc ác, hay nghèo khổ, và có ảo giác đang nghe lời buộc tội
mất mát v.. bị vỡ mộng cũng gây ra tình trạng trầm cảm, loại trầm cảm này có
thể kéo dài và không tương xứng trong chứng loạn tâm thần trầm cảm (depressive
neurosis). Chữa trị bằng các loại thuốc chống trầm cảm (antidepressant drugs)
và/hay liệu pháp tâm lý. Các ca nặng có thể cần đến hiểu pháp co giật điện
(electro –convulsive therapy) nheo Từ điển Y học).
b. Chứng hưng
cảm và các rối loạn lưỡng cực các tâm trạng thăng trầm. Trong khi một số người chìm xuống các vực sâu trảm cảm, thì
tâm trạng của những người khác lại bay vút lên cao, những người này trải qua
một tâm trạng gọi là hưng cảm. Hưng cảm* (mania) là tình trạng sảng khoái
(enphona) và phấn chấn (elation) cao độ. Người bi chứng hưng cảm có cảm giác
quá mức hạnh phúc, quyền lực, an toàn, và tràn trề sinh lực–Họ có thể nảy sinh
những dự tính điên rồ, tin tưởng rằng sẽ thành công trong mọi công việc mà họ
chịu ra sức cố gắng. Có nhiều trường hợp kể lại người ta phung phí tất cả tiền
của trong một cơn hưng cảm. Thí dụ, hãy tìm hiểu đoạn miêu tả dưới đây về một
cá nhân trải qua một tình tiết hưng cảm:
Ông O'Rellly bỏ
việc ở một công sở, ông mua được rất nhiều nhiều đồng hồ treo tường có chuông
đổ và sau đó một chiếc ôtô đắt tiền, mà ông dự tính dùng làm phòng trưng bày
hàng hóa di động, dự kiến sẽ kiếm được rất nhiều tiền. Ông xúc tiến việc “dạo
khắp thị trấn” để mua bán đồng hồ và các loại hàng hóa khác và khi không đi ra
phố, ông liên tục sử dụng điện thoại để “mua bán”. Ông ngủ rất ít, và thường
dành các buổi tối đến các quán rượu ở khu ngoại ô uống rất nhiều rượu, mà theo
ông là để “đi giao dịch” ông đã bị nợ đến 3.000 đô la và làm cho cả gia đình
kiệt sức vì hoạt động thái quá và tật ba hoa quá đáng của ông. Thế nhưng ông
nói rằng ông cảm thấy “thành công tuyệt đỉnh”.
Người ta thường
thấy hưng cảm đi đôi với các cơn trầm cảm. Tình trạng luân phiên giữa hưng cảm
và trầm cảm được gọi là rối loạn lưỡng cực (bipolar disorder, hoặc như trước
kia quen gọi là rối loạn hưng cảm – trầm cảm). Các dao động giữa trạng thái
thăng và trầm có thể diễn ra thường xuyên cách vài ngày một lần hoặc có thể
luân phiên qua một thời kỳ kéo dài vài năm. Ngoài ra, ở hầu bết mọi người các
thời kỳ trầm cảm thường có khuynh hướng kéo dài hơn so với các thời kỳ hưng
cảm, dù rằng khuynh hướng này ngược lại ở một số người.
Điều thú vị là, một
số cá nhân có khả năng sáng tạo phong phú nhất trong xã hội có lẽ mắc phải một
dạng rối loạn lưỡng cực nhẹ. Khả năng tưởng tượng, sức thúc đẩy, tâm trạng sôi
nổi, và sinh lực tràn trề mà họ biểu lộ trong các giai đoạn hưng cảm giúp họ có
nhiều đóng góp sáng tạo lạ thường. Ngược lại, hầu hết những người bị hưng cảm
đều vượt quá giới hạn bình thường nói chung, và hành vi ứng xử của họ hiển
nhiên là nguyên nhân gây nguy hại cho bản thân.
* Hưng cảm (mania) một trạng thái tâm lý đặc trưng bởi cơn vui vẻ
quá độ và hoạt động tăng thêm. Tâm trạng trở nên khoái hoạt (euphoria) và biến
đổi nhanh đến mức dễ bị kích động. Tư duy và lời nói diễn ra nhanh đến mức
không ăn nhập gì với nhau và người ta không thể theo dõi được sự liên lạc giữa
các ý tưởng. Hành vi cư xử trở nên quá nhanh nhảu, ngông cuồng (extravagant),
hống hách (overbearing), và đôi khi còn hung bạo (violent) nữa. Khả năng phán
đoán bị tổn thương nên người bệnh có thể tự làm hại đến quyền lợi của bản thân.
Có thể có ảo tường bản thân vĩ đại (grandiose delusions). Chữa trị bằng các
loại thuốc như lithium hay phenothiazines, và thường người bệnh phải nhập viện.
Cũng có thể dùng lithium để ngừa bệnh tái phát (theo Từ điển Y học).
c. Các nguyên
nhân gây ra rối loạn tâm trạng. Bởi vì là một vấn đề quan trọng về mặt sức khỏe tâm thần, nên các rối
loạn tâm trạng – và đặc biệt chứng trầm cảm được nghiên cứu tìm hiểu rất nhiều.
Và người ta đã dùng nhiều khảo hướng để giải thích các dạng rối loạn này. Thí
dụ, các lý thuyết phân tâm xem trầm cảm là hậu quả của tình trạng phẫn hận đối
với bản thân. Theo quan điểm này? người ta cảm thấy có trách nhiệm đối với các
sự việc tồi tệ xảy ra cho họ và hướng cơn phẫn hận vào nội tâm.
Ngược lại, có các
chứng cứ thuyết phục cho rằng cả hai dạng rối loạn lưỡng cực và trầm cảm nặng
đều có cơ sở sinh học. Thí dụ, yếu tố di truyền đóng một vai trò trong rối loạn
lưỡng cực; tai họa này lan truyền trong một số gia đình. Ngoài ra, một số nhà
nghiên cứu đã khám phá được tình trạng thiếu cân bằng hóa chất trong não bộ của
một số bệnh nhân mắc bệnh trầm cảm. Một số điểm bất bình thường đã được nhận
diện trong các loại hóa chất tham dự vào việc dẫn truyền điện tích qua các
khoảng trống giữa các tế bào thần kinh.
Một vài lối giải
thích các rối loạn tâm trạng dựa vào các nhân tố trí tuệ. Thí dụ, nhà tâm lý
Martin Seligman cho rằng trầm cảm thường là phản ứng trong trường hợp con người
ý thức được tình trạng bất lực của mình. Như chúng ta đã thảo luận ở chương 5,
ý thức tình trạng bất lực (leamed helplessness) là một tâm trạng trong đó con
người nhận thức được và sau cùng hiểu ra rằng không còn phương cách nào tránh
né hay đối phó được tình trạng căng thẳng đang gặp phải. Do đó, họ đành xuôi
tay không còn phấn đấu chống lại và cam chịu số phận, từ đó nảy sinh tinh trạng
trầm cảm. Xây dựng trên quan điểm của Seligman, các nhà tâm lý khác cho rằng
trầm cảm là một kết quả vô vọng, một tình trạng bao gồm tâm trạng ý thức sự bất
lực và kỳ vọng hậu quả đen tối không thể tránh được trong cuộc sống.
* Loạn tâm
thần hưng cảm trầmcảm(manic–depressive
psychosys) một bệnh tâm thần nghiêm trọng gây ra nhiều cơn trầm cảm, hưng cảm
hay cả hai. Các cơn bệnh có thể phát nhanh ra hơn khi có các biến cố gây rối
loạn, nhưng lại không tỉ lệ với các nguyên nhân này. Đôi khi có thể gây ra trầm
cảm hay hưng cảm mạn tính. Khuynh hướng mắc bệnh có tính di truyền. Chữa trị
bằng các loại thuốc phenothiazine đối với hưng cảm và bằng các loại thuốc chống
trầm cảm hay co giật điện đối với trầm cảm. Lithium có thể ngăn ngừa hay làm
giảm bớt tần số và mức nghiêm trọng của các cơn bệnh. Ở khoảng giữa các cơn
bệnh, người bệnh thường vẫn mạnh khỏe (theo Từ điển Y học).
Nhà tâm lý Aaron
Beck cho rằng các suy nghĩ lệch lạc của con người làm nền tảng cho những tình
cảm u uất của họ. Đặc biệt, lý thuyết tiến trình trí tuệ của ông về trầm cảm
cho rằng nói chung những người bị chứng trầm cảm đều xem bản thân họ là những
người thất bại trong cuộc sống, than trách bản thân bất kỳ lúc nào có điều bất
ổn xảy ra. Vì chú trọng đến khía cạnh đen tối của tình huống, họ cảm thấy lạc
lõng và không còn đủ sức hành động, xây dựng để cải tạo hoàn cảnh. Tóm lại, các
suy nghĩ tiêu cực của họ khiến họ phát sinh tâm trạng u uất.
Nhiều lý thuyết
khác nhau về trầm cảm vẫn chưa đưa ra được câu giải đáp sáng tỏ cho nghi vấn
khó hiểu từng gây khốn quẩn cho các nhà nghiên cứu: Tại sao nữ giới có tỷ lệ
mắc phải chứng trầm cảm nhiều gấp hai lần nam giới? Một lối giải thích cho rằng
stress mà nữ giới trải qua có lẽ nghiêm trọng hơn so với nam giới vào một số
thời điểm trong đời sống của họ – như vào thời kỳ người phụ nữ phải đồng thời
vừa lo sinh kế vừa là người chăm sóc chính cho con cái. Ngoài ra, nữ giới có
nguy cơ bị lạm dụng thân xác và tình dục cao hơn, thường kiếm được mức lương
thấp hơn và gặp nhiều bất hạnh trong hôn nhân hơn so với nam giới.
Nhưng các nhân tố
sinh học cũng giải thích được hiện tượng trầm cảm ở một số nữ giới. Thí dụ, từ
25 đến 50% số phụ nữ dùng thuốc ngừa thai báo cáo các triệu chứng trầm cảm, và
tình trạng trầm cảm xảy ra sau khi sanh con có liên hệ đến các biến đổi
hormone.
Cuối cùng, hiển
nhiên các nhà nghiên cứu chưa khám phá được các giải đáp dứt khoát cho các câu
đố về hiện tượng trầm cảm, và có nhiều lối giải thích khác nhau về nguyên nhân
gây ra trầm cảm. Rất có thể, các rối loạn tâm trạng nảy sinh bởi sự tương tác
phức tạp của một số nhân tố khác nhau.
6. Chứng tâm thần
phân liệt: Khi thực tại bị mất liên lạc
Trong nhiều năm cô
cứ phải nghe những tiếng nói lăng nhục cô và gieo rắc ghi ngờ đối với sự trinh
trắng của cô. Chúng đề cập đến nhiều tên gọi mà cô quen biết, và bảo cô rằng cô
sẽ bị lột truồng rồi bị cưỡng hiếp. Tiếng nơi nghe rất rõ ràng, và cô cho rằng
chúng được truyền đến từ chiếc máy télé hay một chiếc máy đặt trong nhà. Các ý
tưởng của cô truyền lệnh cho cô, cô bị buộc phải nghĩ đến chúng và nghe chúng
lặp đi lặp lại phía sau cô. Cô bị gián đoạn công việc làm, và cảm thấy mọi thứ
cảm giác khó chịu trong cơ thể, dường như có thứ gì đó đang “hoành hành” trong
cơ thể cô. Đặc biệt, các “bộ phận làm mẹ” của cô như bị lộn ngược ra ngoài, và
người ta gây ra một cơn đau buốt xuyên qua phía sau người cô, đặt một tảng băng
lên quả tim cô, siết chặt cổ của cô, làm tổn thương cột sống của cô, và xâm phạm
người cô.
Tên gọi để cho các
dạng rối loạn tâm trí nghiêm trọng nhất, như ca bệnh miêu tả trong trường hợp
điển hình nổi tiếng vừa kể, là bệnh tâm thần phân liệt. Các ca bệnh tâm thần
phân liệt chiếm một tỷ lệ cao nhất trong số người nhập viện điều trị vì rối
loạn tâm trí và về nhiều mặt các bệnh nhân này ít phục hồi nhất.
* Chứng tâm
thần phân liệt (Schizo
phrenia): Một dạng (hay một nhóm) rối loạn tâm trí nghiêm trọng đặc trưng bởi
sự phân hủy các tiến trình suy tưởng, tiếp xúc với thực tại, và ứng đáp tình
cảm. Đặc biệt thường có ảo tưởng (delusions) và ảo giác (hallucinations, đặc
biệt về giọng nói), và bệnh nhân thường cảm thấy tư tưởng, cảm giác, và hành
động của mình đều do người khác chi phối hay chia sẻ. Y sẽ tự cô lập với xã hội
và mất đi năng lực cũng như ý muốn đề xướng hành động. Các loại tâm thần phân
liệt chính là: tâm thần phân liệt đơn giản (simple schizophrenia) có những thay
đổi chính về mức độ tăng cô lập với xã hội và mất năng lực cá nhân: tâm thần
phân liệt thế thanh xuân (hebephrenic schizophrenia) phát sinh ở tuổi thanh
xuân và tráng niên; tâm thần phân liệt hoang tưởng (paranoid schozophrania) đặc
trưng bởi tình trạng hoang tưởng nổi bật; và tâm thần phân liệt tăng trường lực
(catatonic schizophrenia) có các dạng rối loạn vận động rõ rệt. Bệnh tâm thần
phân liệt thông thường nhưng không thể tránh được – phát triển theo dạng tiệm
tiến. Gần đây, ngói ta đã cải thiện được cách dự đoán tiến triển của bệnh
(prognosis) bằng các loại thuốc như phenothiazme cùng với việc theo dõi và phục
hồi tâm lý, xã hội. Các nhân tố di truyền rất có thể góp phần gây bệnh, và các
stress trong hoàn cảnh sống có thể thúc đẩy bệnh phát nhanh hơn (theo Từ điển Y
học).