Tâm lý học căn bản - Chương 04 - Phần 2
3. Nhịp sinh học cơ
thể hai mươi bốn giờ: các chu kỳ đời sống
Sự kiện chúng ta
dao động tuần hoàn giữa các trạng thái thức và ngủ chỉ là một thí dụ về các
nhịp sinh học 24 giờ của cơ thể chúng ta. Nhịp sinh học có thể 24 giờ
(Circadian rhythm – từ chữ Latin “circa dies” có nghĩa là “trọn một ngày”) là
các tiến trình sinh học diễn ra lặp đi lặp lại gần như theo một chu kỳ 24 giờ.
Chẳng hạn, hai trạng thái ngủ và thức diễn ra tự nhiên theo nhịp của chiếc đồng
hồ tốc độ bên trong cơ thể vận hành theo một chu kỳ kéo dài khoảng 25 giờ. Một
vài chức năng cơ thể khác như thân nhiệt chẳng hạn, cũng vận hành theo nhịp 24
giờ.
Các chu kỳ 24 giờ
này có thể rất phức tạp. Thí dụ, trạng thái ngủ diễn ra không chỉ xảy ra vào
buổi tối mà còn xảy ra vào ban ngày theo thói quen đều đặn. Như bạn thấy ở hình
4 –5, hầu hết chúng ta đều có khuynh hướng cảm thấy uể oải và buồn ngủ vào giữa
buổi chiều (tức khoảng 3 đến 4 giờ chiều) – dù chúng ta có ăn trưa thật nhiều
hay không cũng vậy. Nhưng người ta phải thức chỉ vì lúc ấy là ban ngay.
Các chu kỳ 24 giờ
có ảnh hưởng rất mạnh – như bất kỳ người nào đã từng làm cả đêm đều biết rõ.
Thậm chí sau một đêm dài làm việc, những người làm ca đêm thường khó ngủ vào
ban ngày. Ngoài ra, họ làm việc kém năng suất đi và và dễ bị tai nạn hơn các
công nhân làm việc ban ngày. Thí dụ, có lẽ tai nạn rò rỉ ở nhà máy hạt nhân
thuộc Đảo Ba Dặm đã không xảy ra hồi 4 giờ sáng với một toán công nhân chỉ vừa
mới đổi sang làm ca đêm; có lẽ lò phản ứng Chernobyl đã không phát nổ vào lúc 1
giờ 23 phút sáng; và có lẽ tai nạn lò rỉ hơi độc hóa chất chết người tại nhà
máy hóa chất Bopal đã không xảy ra do một loạt sai sót chỉ vào lúc sau nửa đêm.
Các nhịp 24 giờ có
thể cải sửa được dù rằng tiến trình cải sửa ấy không dễ dàng gì, như những
người đã từng cảm nhận sau một chuyến bay đường dài vượt qua nhiều múi giờ đều
biết. Nhưng, mới đây các nhà tâm lý đã xây dựng được ít nhất một phương thức
đầy hứa hẹn nhằm thay đổi nhịp sinh học cơ thể 24 giờ. Công trình này có rất
nhiều ý nghĩa, như chúng ta sẽ bàn ở đoạn Tích Dẫn Thời Sự dưới đây.
TRÍCH DẪN THỜI SỰ
SOI SÁNG NHỊP SINH
HỌC CƠ THỂ 24 GIỜ
Phi hành đoàn của
chiếc phi thuyền con thoi Columbia muốn điều chỉnh các đồng hồ sinh học
(biological clock) của họ để làm việc ca đêm trong không gian, thì nỗ lực đầu
tiên của họ bị thất bại hoàn toàn. Trong hai tuần lễ trước khi chuyến ban sứ
mệnh của họ khởi hành theo kế hoạch, họ phải thức suốt đêm bằng cách xem các bộ
phim xưa để khỏi buồn ngủ và cố gắng ngủ bù suốt ngày hôm sau. Họ điểm tâm vào
đầu hôm và ăn tối vào buổi sáng. Dù vậy, kết quả thật đáng buồn: họ không hề
thích nghi được với thời gian mới mẻ đó, không thể ăn ngon miệng hoặc ngủ thoải
mái được, và nói chung họ đều cảm thấy khổ sở.
Tuy nhiên, phi hành
đoàn này đã gặp may mắn. Chuyến bay đã bị hoãn lại vài tháng, nhờ vậy họ đã thử
qua một kỹ thuật mới. Trong dịp này, các phi hành gia được phơi mình dưới một
lượng ánh sáng rực rỡ trong một khoảng thời gian kéo dài 3 ngày. Chính trong
thời gian ấy, các nhịp sinh học 24 giờ đã thay đổi tận gốc rễ đến mức họ hoàn
toàn tỉnh táo vào ban đêm và thèm ngủ lúc bình minh.
Các phi hành gia ấy
đã thành công trong việc làm thay đổi các chu kỳ ngủ – thức nhờ một quy trình
khởi xướng bởi nhà nghiên cứu trạng thái ngủ Charles Czeisler. Czeisler khám
phá thấy rằng người nào phơi mình dưới ánh sáng rực rỡ trong 5 giờ đòng hồ ban
đêm qua một thời kỳ kéo dài 3 ngày sẽ điều chỉnh được đồng hồ sinh học của họ
dời tới trước 12 giờ đồng hồ. Nhưng, việc định giờ phơi mình dưới ánh sáng
không thể ấn định tình cờ dược: việc phơi mình này phải được thực hiện đồng bộ
với các giai đoạn đặc biệt thuộc nhịp sinh học 24 giờ của cơ thể mỗi người mới
đem lại hiệu quả.
Trong một nghiên
cứu sau đó, Creisler khẳng định các khám phá của ông với những người cố gắng
làm việc suốt đêm. Ông phơi một nhóm đối tượng này dưới ánh sáng trong 5 giờ
đồng hồ mỗi đêm qua một thời kỳ kéo dài 3 ngày. Ông dùng loại ánh sáng thật rực
rỡ – mạnh bằng ánh sáng mặt trời vào một ngày có mây. Khi so sánh với trường
hợp trong đó chính nhóm dối tượng ấy chỉ được phơi mình dưới ánh sáng có mức độ
bình thường, thì trường hợp dùng ánh sáng rực rỡ gây ra hậu quả điều chỉnh rõ
rệt nhịp sinh học 24 giờ trong cơ thể của các đối tượng thí nghiệm. Trong điều
kiện ấy, các đối tượng tỏ ra rất tình táo và tư duy khá minh bạch hơn vào ban
đêm. Ngược lại, khi phơi mình dưới ánh sáng bình thường, các đối tượng không hề
thành công trong việc thay đổi nhịp 24 giờ và họ cũng rất khó khăn mới ngủ say
vào ban ngày.
Vẫn còn quá sớm để
biết chính xác lý do tại sao ánh sáng rực rỡ cải biến được nhịp sinh học cơ thể
24 giờ. Rất có thể là ánh sáng đánh lừa được bộ phận trong não bộ liên hệ đến
nhịp sinh học 24 giờ của cơ thế khiến cho bộ phận này nhầm lẫn cho rằng đêm
chính là ngày. Dù vậy, quả thực công trình của Czeisler có nhiều ý nghĩa thực
tiễn rất lớn lao. Thí dụ, các công nhân phải làm việc đổi ca luân phiên có thể
tự chuẩn bị cho mình bằng cách dành thời giờ phơi mình dưới ánh sáng rực rỡ.
Tương tự, người ta có thể đề nghị các công ty hàng không chiếu ánh sáng rực rỡ
lên hành khách trong suốt chuyến bay dài để chuẩn bị cho họ thay đổi nhịp sinh
học cơ thể 24 giờ của cơ thể họ vào múi giờ nơi đến. Để chuẩn bi chu đáo hơn,
các hành khách đến chỗ mới nên dành vài ngày ở bãi biển, phơi mình dưới ánh
nấng để điều chỉnh đồng hồ sinh học của mình.
4. Vai trò và ý
nghĩa của giấc mơ
Tô đang ngồi ở bàn
học nghĩ về cuốn phim sắp xem chiều hôm ấy. Đột nhiên tôi nhớ rằng hôm ấy chính
là ngày thi cuối của tín chỉ Hóa học. Tôi cảm thấy sợ hãi bởi vì chưa học một
tí gì để chuẩn bị thi. Thực ra, đến cả phòng thi ở đâu tôi cũng không nhớ ra vì
tôi đã không đến lớp suốt học kỳ. Tôi có thể làm được gì? Tôi hoang mang chạy
tới khắp khuôn viên đại học tuyệt vọng tìm kiếm lớp học trong lòng van xin vị
giáo sư cho tôi một cơ hội khác. Tôi phải dừng lại từng khoa từng phòng để mong
gặp được vị giáo sư hay các bạn trong lớp. Vô vọng, tôi biết mình sẽ bị đánh
hỏng trong kì thi và bị đuổi học.
Nếu bạn có một giấc
mơ tương tự như vậy – một giấc mơ thường thấy ở những người đang trong thời kỳ
cấp sách đến trường – bạn sẽ biết rõ các sự kiện diễn ra trong giấc mộng khiến
bạn hoang mang và sợ hãi đến mức nào. Một số giấc mơ không khác gì sự thật.
Ác mộng (nightmare)
là các giấc mơ khiến cho người ta vô cùng sợ hãi, nó xảy ra khá thường xuyên.
Trong một cuộc điều tra phỏng vấn một nhóm sinh viên đại học có ghi lại các
giấc mơ xảy ra trong khoảng thời gian hai tuần lễ. Gần phân nửa nhóm thuật lại
họ đã gặp phải ít nhất một cơn ác mộng. Tính trung bình một người mơ thấy
thoảng 24 cơn ác mộng trong một năm.
Kinh khủng hơn
những cơn các mộng nữa là các cơn kinh sợ ban đêm (nightterrors). Đó là các
trường hợp đang ngủ cảm thấy kinh sợ ghê gớm rồi tỉnh dậy, trong một số trường
hợp người ta sợ hãi đến mức phải thét lên. Thông thường, cảm giác sợ hãi mãnh
liệt đến nỗi người ta không thể ngủ ngay lại được, phải cần thời gian để lấy
lại bình tĩnh.
Ngược lại, hầu hết
các giấc mộng đều ít gây xúc động hơn thế nhiều. Chúng lặp lại các sự việc xảy
ra thường ngày như đi siêu thị mua sắm hay chuẩn bị một bữa ăn chẳng hạn. Dường
như những sự kiện nào càng gây xúc động càng dễ khiến chúng ta nhớ lại hơn.
Hình 4 – 6 dưới đây trình bày các giấc mơ thông thường nhất. Vấn đề các giấc mơ
có đảm nhận nhiệm vụ đặc biệt gì hay không là một câu hỏi mà các nhà khoa học
đã quan tâm trong nhiều năm. Chẳng hạn, Sigmund Freud sử dụng các giấc mơ như
một kim chỉ nam để thâm nhập lãnh vực vô thức* (unconscious). Theo thuyết thỏa
mãn ước muốn vô thức (theory of unconscious Wish fullillment), ông chủ trương
rằng các giấc mơ biểu thị cho các ước mơ vô thức mà người nằm mơ mong muốn thỏa
mãn. Nhưng, bởi vì các ước mơ này đe dọa khả năng nhận biết thuộc tầng ý thức
của người nằm mơ, nên các ước mơ thực sự – được gọi là nội dung tiềm ẩn của các
giấc mơ (latent content of dreams) – đã bị ngụy trang khi xuất hiện trong giấc
mơ. Như vậy, đối tượng và ý nghĩa đích thực của giấc mơ có thể không có gì đáng
nói nếu như các ước mơ ấy được bộc bạch ra thành lời. Đối tượng và ý nghĩa đích
thực ấy được Freud gọi là nội dung bộc bạch hay hiển nhiên của giấc mơ
(manirest content ofdream).
Đối với Freud, điều
quan trọng là phải xuyên thủng lớp áo giáp che đậy nội dung hiển nhiên của giấc
mơ đề tìm hiểu ý nghĩa đích thực của nó. Để thực hiện điều này, Freud đã cố
gắng gợi ý cho người ta kể lại những việc thấy được trong giấc mơ, rồi kết hợp các
biểu tượng trong giấc mơ với các sự kiện xảy ra trong quá khứ của người nằm mơ.
Ông cũng cho rằng một số biểu tượng thông thường có nghĩa phổ biến xuất hiện
trong các giấc mơ. Thí dụ, Freud cho rằng mơ thấy bay bổng biểu tượng cho ước
muốn làm tình (xem Bảng 4 –1 về các biểu tượng thông thường khác).
Bảng 4–1
Biểu tượng xuất
hiện trong mơ theo Freud
Biểu tượng |
Ý nghĩa |
Leo lên cầu thang, qua cầu, đi thang máy, ngồi trên phi |
Ước muốn tình dục |
Táo, đào, nho. |
Bộ phận vú |
Đạn nổ, lửa cháy, rắn, gậy gộc, ô dù, súng, ống, dao. |
Bộ phận sinh dục nam |
Lò hấp, hộp, ống lò sưởi, đường hầm, tủ âm vào tường, hang |
Bộ phận sinh dục nữ |
Ngày nay, nhiều nhà
tâm lý bác bỏ quan điểm của Freud cho rằng các giấc mơ thường được biểu trưng
cho các ước mơ vô thức cũng như các đồ vật và sự kiện thấy trong mơ là các biểu
tượng có ý nghĩa. Theo họ, chính hành động công khai và trực tiếp của giấc mơ
mới được xem là trọng điểm để tìm hiểu ý nghĩa của nó. Thí dụ, một giấc mơ
trong đó chúng ta đi dọc theo một hành lang để dự một môn thi mà chúng ta chưa
học không dính dáng gì đến các ước muốn không chấp nhận được thuộc vô thức; mà
thật ra, nó chỉ có nghĩa là chúng ta đang lo lắng về một bài thi sắp tới. Hay
những giấc mơ phức tạp hơn thường cũng có thể giải thích được theo các ưu tư và
stress* thường ngày.
* Stress: bất kỳ nhân tố nào đe dọa đến sức khỏe cơ thể hay có
tác dụng gây hại cho các chức năng cơ thể, như tổn thương, bệnh tật, hay lo âu
chẳng hạn. Sự hiện hữu một dạng stress có khuynh hướng làm giảm đi đề kháng đối
với các dạng stress khác. Bị stress liên tục sẽ gây biến động về tình trạng cân
bằng hormone trong cơ thể.
Ngoài ra, hiện nay
chúng ta còn biết rằng một vài giấc mơ phản ánh các sự kiện đang xảy ra trong
khung cảnh mà người có giấc mơ đang nằm ngủ. Thí dụ, các đối tượng ngủ trong
một cuộc thí nghiệm bị phun nước trong khi họ đang nằm mơ; những người tinh
nguyện kém may mắn này thuật lại những giấc mơ có liên quan đến nước nhiều hơn
so với một nhóm đối tượng được để ngủ yên. Tương tự, không lấy gì làm lạ khi
tỉnh giấc mới biết tiếng chuông cửa rung lên trong giấc mơ thực ra là tiếng reo
của đồng hồ báo thức.
Mặc dù, nội dung
của các giấc mơ hiển nhiên có thể bị ảnh hưởng bởi các kích thích thuộc môi
trường, nhưng câu hỏi tại sao chúng ta nằm mơ vẫn chưa được giải quyết. Để lý
giải vấn đề này, người ta đề xướng một số lý thuyết thay cho thuyết của Freud.
Thí dụ, theo thuyết tìm hiểu ngược lại (reverse learning theory) các giấc mơ
thực ra không có ý nghĩa gì cả. Chúng biểu thị một loại tìm hiểu ngược chiều,
trong đó chúng ta tẩy sạch những thông tin không cần thiết đã tích lũy được
trong ngày. Theo quan điểm này, mộng mị chỉ biểu thị một tiến trình tìm hiểu
ngược lại về các tư liệu cuối cùng tỏ ra do nhầm lẫn mà chúng ta đã thu nhận
vào. Như vậy, các giấc mơ là một phương thức tẩy sạch tâm trí của não bộ, chứ
chẳng có ý nghĩa gì cả.
Thuyết giấc mơ phục
vụ ước muốn tồn tại (dream–for–survival theory) còn cho rằng giấc mơ có một
chức năng khác nữa. Theo thuyết này, giấc mơ cho phép các thông tin tối cần
thiết cho sự tồn tại hàng ngày của chúng ta được xem xét lại và tái diễn trong
khi ngủ. Mộng mị được xem là di sản từ các tổ tiên thời sơ khai của chúng ta để
lại, những bộ óc nhỏ bé của họ không đủ sức chọn lọc các thông tin đủ loại tiếp
nhận được trong lúc tỉnh thức. Do đó, mộng mị đem đến một cơ chế cho phép xử lý
các thông tin thu nhập được trong suốt 24 giờ mỗi ngày.
Hình 4–6: Hai mươi loại giấc mơ thông thường nhất do sinh viên
báo cáo
Theo thuyết này,
các giấc mơ thực sự có ý nghĩa. Chúng tượng trưng cho các ưu tư về cuộc sống
thường nhật của chúng ta, chúng soi sáng các điểm bất trắc, các điều bất quyết,
và cả đến những ước mơ trong cuộc sống của chúng ta. Như vậy, các giấc mơ được
xem là gắn liền với sự sống hàng ngày. Thay vì là các ước mơ ngụy trang như
Freud chủ trương, các giấc mơ tượng trưng cho các mối ưu tư then chốt phát sinh
từ các cảm nhận thường ngày của chúng ta.
Lối giải thích có
tầm ảnh hưởng lớn nhất hiện nay xem giấc mơ là phó sản của sinh hoạt sinh lý
căn bản của con người. Theo thuyết tổng hợp phát động (activation – synthesis
theory) do bác sĩ thần kinh J. Allan Hobson đề xướng. Não bộ sản sinh ra điện
năng ngẫu nhiên (ran om electrical enersy) trong trạng thái ngủ REM, có thể do
các biến đổi trong việc sản sinh các chất dẫn truyền thần kinh đặc biệt. Năng
lượng xung điện này ngẫu nhiên kích thích các ký ức nằm ở nhiều vị trí khác
nhau trong não bộ. Bởi vì chúng ta có nhu cầu tìm hiểu thế giới chung quanh cả
trong khi ngủ, nên não bộ nhặt nhạnh các ký ức hỗn tạp này rồi dệt chúng thành
một câu chuyện có tình tiết. Lấp đầy các khoảng trống để sáng tạo kịch bản hợp
tình lý. Như vậy, theo quan điểm này các giấc mơ gần giống với một trò chơi tự
phát sinh của Madlibs hơn là các hiện tượng tâm lý có ý nghĩa quan trọng.
Tuy vậy, Hobson lại
không hoàn toàn bác bỏ quan điểm cho rằng các giấc mơ phản ảnh các ước mơ vô
thức. Ông cho rằng kịch bản đặc biệt mà người nằm mơ hư cấu không chỉ có tính
ngẫu nhiên mà có lẽ là một đầu mối ám chỉ các nỗi sợ hãi, cảm xúc, và ưu tư của
người ấy. Do đó, những điều khởi đầu như là một tiến trình ngẫu nhiên đến cực
điểm lại hóa ra là một điều có ý nghĩa gì đó vậy.
Chứng cứ cho rằng
mộng mị biểu trưng cho một phản ứng đối với hoạt động ngẫu nhiên của não bộ
xuất phát từ công trình nghiên cứu của những người được tiêm các loại thuốc
tương tự như chất dẫn truyền thần kinh Acetylcholine. Do tác dụng của loại
thuốc này, người ta nhanh chóng đi vào trạng thái ngủ REM và có những giấc mơ
tương tự về mặt tính chất như các giấc mơ xảy ra trong giấc ngủ tự nhiên. Tuy
nhiên, các chứng cứ giống như vậy không xác nhận rằng các giấc mơ được hư cấu
có ý nghĩa về mật tâm lý.
Các lý thuyết khác
nhau về các giấc mơ (tóm tắt ở bảng 4 –2) cho thấy rõ ràng các nhà nghiên cứu
về giấc mơ chưa nhất trí với nhau về ý nghĩa căn bản của các giấc mơ. Tuy
nhiên, dường như có thể nói rằng nội dung đặc biệt của các giấc mơ của chúng ta
là duy nhất đối với chúng ta và theo một cách nào đó nội dung ấy tượng trưng
cho các lề lối suy nghĩ và ưu tư đầy ý nghĩa. Cuối cùng, các giấc mơ có thể là
các đầu mối về các sự việc mà trên một bình diện ý thức nào đó quan trọng nhất
đối với chúng ta.
5. Mơ mộng: Các
giấc mộng trong lúc thức
Điều kỳ diệu là các
sai lầm trong quá khứ của chúng ta có thể được quét sạch và tương lai tràn đầy
các thành tích đáng lưu ý. Danh vọng, hạnh phúc, và giàu có có thể thuộc về
chúng ta. Dù vậy, phút giây kế tiếp các bi kịch khủng khiếp nhất có thể xảy ra
khiến chúng ta thành kẻ cô độc, không một xu dính túi, bất hạnh đáng thương.
Bảng 4–2: Bốn quan điểm về các giấc mơ
Thuyết |
Giải thích sơ |
Ý nghĩa của các |
Phải chăng ý |
Thuyết thỏa mãn Thuyết tìm hiểu ngược lại. Thuyết giấc mơ phục vụ ước muốn tồn tại Thuyết tổng hợp phát động |
Các giấc mơ biểu Không tìm hiểu các thông tin không cần thiết và tẩy sạch Các thông tin phù hợp với sự tồn tại thường ngày được xem Các giấc mơ là hậu quả của sự phát động nhiều ký ức khác |
Nội dung tiềm ẩn của giấc mơ tiết lộ các ước mơ vô thức. Không. Các đầu mối để tìm hiểu các ưu tư thường ngày về sự tồn Kịch bản được hư cấu thành giấc mơ liên hệ đến các mối ưu |
Có, nhờ công khai nội dung của các giấc mơ. Không có ý nghĩa. Không cần thiết. Không cần thiết. |
Nguồn gốc của các
tình tiết này là các cơn mơ mộng (daydream), là những điều tưởng tượng mà con
người tạo ra lúc thức. Không giống như giấc mộng xảy ra trong lúc ngủ, các cơn
mơ mộng nằm trong phạm vi kiểm soát của con người nên nội dung của chúng thường
liên hệ chặt chẽ với các sự kiện mới xảy ra trong môi trường hơn so với nội
dung của các giấc mộng xảy ra trong lúc ngủ. Mặc dù có thể có nội dung tình
dục, nhưng các cơn mơ mộng cũng gắn liền với các hoạt động hoặc sự kiện khác
phù hợp với cuộc sống của con người.
Các cơn mơ mộng là
một phần tiêu biểu thuộc ý thức trong lúc tĩnh thức, nhưng phạm vi của chúng
cũng như sự can hệ của cá nhân người mơ mộng đối với chúng khác biệt nhau tuỳ
theo mỗi người. Thí dụ, khoảng từ 2 đến 4% dân số điều tra dành ít nhất phân
nửa thời gian nhàn rỗi của họ để tưởng tượng viển vông. Mặc dù đa số mọi người
không thường xuyên mơ mộng, nhưng hầu như mọi người vẫn có tưởng tượng đến một
mức độ nào đó. Các cuộc nghiên cứu yêu cầu người ta xác nhận xem họ đang làm
việc gì vào những thời điểm chọn ngẫu nhiên trong ngày cho thấy rằng họ dành
khoảng 10% thời gian ấy để mơ mộng. Về nội dung của các cơn mơ mộng, hầu hết
đều có liên hệ đến các sự kiện trần tục thường ngày như tính toán hóa đơn điện
thoại, mua sắm lặt vặt, hay giải quyết các thắc mắc viển vông trong mấy cuốn tiểu
thuyết.
Mặc dù hiện tượng
mơ mộng thường xuyên dường như có thể gây ra các rối loạn tâm lý, nhưng thực ra
giữa các hiện tượng rối loạn tâm lý và mơ mộng rất ít tương quan với nhau.
Ngoại trừ một số ít trường hợp trong đó người mơ mộng không đủ năng lực phân
biệt một điều tưởng tượng với thực tế (một dấu hiệu của các rối loạn tâm lý
nghiêm trọng, như chúng ta sẽ bàn ở chương 12), mơ mộng dường như là một bộ
phận bình thường trong ý thức lúc tỉnh thức. Thực ra, tưởng tượng có thể góp
phần tạo hạnh phúc tâm lý cho một số người bằng cách nâng cao khả năng sáng tạo
và cho phép họ sử dụng khả năng tưởng tượng để cảm thông được những cảm nhận
của người khác.
6. Chứng rối loạn
về giấc ngủ: Các chứng bệnh liên hệ đến giấc ngủ
Đôi khi hầu hết
chúng ta gặp phải trường hợp khó vỗ giấc ngủ – một tình trạng gọi là mất ngủ*
(insomia). Chứng này phát sinh có lẽ do một nguyên nhân đặc biệt như một mối
quan hệ bị đổ vỡ, lo lắng về kết quả thi cử, hoặc mất việc làm. Nhưng cũng có
một số trường hợp mất ngủ không vì nguyên cớ rõ rệt. Một số người có khả năng
rất dễ ngủ, hoặc dễ vỗ giấc ngủ nhưng lại thường xuyên giật mình thức giấc
trong đêm. Mất ngủ là một chứng bệnh gây đau khổ cho khoảng 1/4 dân số nước Mỹ.
* Chứng mất
ngủ (insomia): mất
khả năng ngủ hay ngủ không đủ thời gian khiến cho người bệnh bị mệt mỏi thường
xuyên. Chứng mất ngủ có thể do bệnh tật, đặc biệt khi có các triệu chứng gây
đau đớn (paintul symp–toms), nhưng thường do lo âu phiền muộn gây nên (theo Từ
điển Y học).
Những rắc rối khác
về giấc ngủ ít được biết đến hơn chứng mất ngủ dù cũng có khá nhiều người mắc
phải. Thí dụ, khoảng 20 triệu người Mỹ mắc phải chứng ngừng thở trong lúc ngủ
(sleep ap–nea, một tình trạng trong đó người bệnh đồng thời vừa khó thở vừa khó
ngủ). Hậu quả là ngủ chập chờn, không an giấc bởi vì người bệnh thường xuyên
thức giấc khi lượng oxy bị thiếu đến mức gây ra một phản ứng đánh thức cơ thể.
Trong một số trưởng hợp, người mắc phải chứng này bị thức giấc đến 500 lần
trong giấc ngủ đầu hôm dù họ có thể không biết rằng mình bị đánh thức trong
những lần thức giấc ấy. Không lấy gì làm ngạc nhiên khi giấc ngủ bất an như thế
gây ra hậu quả mệt nhọc do thiếu ngủ vào ngày hôm sau. Chứng ngừng thở trong
giấc ngủ lý giải cho hội chứng trẻ em chết đột ngột (sudden infant death
syndrome), một nguyên nhân bí ẩn khiến cho các trẻ trông có vẻ bình thường bị
chết trong lúc ngủ.
* Chứng ngừng
thở (ap–nea): Sự
ngưng thở tạm thời do nhìu nguyên nhân khác nhau. Các cơn ngừng thở thường thấy
ở trẻ sơ sinh và phải coi là nghiêm trọng dù chúng không nhất thiết là dấu hiệu
của một bệnh nặng (theo từ điển Y học).
Ngủ kịch
phát*** (narcolepsy)
là cơn thèm ngủ ngắn hạn không kiểm soát được vào ban ngày. Dù đang bận làm bất
cứ việc gì –nói chuyện hăng hái, tập thể dục, hay lái xe – người bị chứng ngủ
kịch phát cũng đột nhiên bị rơi vào giấc ngủ. Người bị chứng này rơi trực tiếp
từ tình trạng tỉnh thức vào giai đoạn có tình trạng ngủ REM, bỏ qua các giai
đoạn khác. Nguyên nhân gây ra chứng này chưa được rõ dù có lẽ phần nào do di
truyền bởi vì có chứng cứ cho thấy bệnh này di truyền ở một số gia đình.
*** Chứng ngủ
kịch phát(narcolepsy):
Khuynh hướng thèm ngủ cực điểm trong bối cảnh yên tĩnh hoặc khi tham dự vào một
hoạt động đơn điệu. Bệnh nhân có thể bị đánh thức dễ đàng và tỉnh táo lại tức
khắc. Chứng bệnh này thường kết hợp với chứng trương lực (cataplexy), và khi
rơi vào giấc ngủ bệnh nhân có thể trải qua các ảo giác âm thanh (anditory
hallucinations) hoặc tình trạng tê liệt cơ bắp tạm thời (transient attacks of
mus–cular paralysis).
Chúng ta chỉ biết
tương đối ít về chứng nói mê (sleeptalking) và chứng mộng
du*** (sleep–walking), hai loại rối loạn về giấc ngủ khá vô hại. Cả hai
hiện tượng này đều xảy ra ở giai đoạn ngủ số 4 và ở trẻ em nhiều hơn người lớn.
Trong hầu hết các trường hợp người ta nói mê và người mộng du ý thức mơ hồ về
môi trường chung quanh, và người mộng du có thể đi lại dễ dàng giữa các chướng
ngại vật trong một căn phòng bề bộn. Trừ phi đi lại ở một khung cảnh nguy hiểm,
thường những người này ít khi gặp rủi ro trong trạng thái mộng du. Ngoài ra, kinh
nghiệm người xưa cho rằng không nên đánh thức người mộng du là sai lầm bởi vì
đánh thức không làm tổn hại gì cho họ cả, dù rằng có lẽ sẽ khiến cho họ khá bồi
rơi.
*** Chứng mộng
du (seepwalking,
Somnumbulism. hay noctabulation): Còn gọi là miên hành, tức là đi lại trong khi
ngủ. Người bị mộng du di lại và thực hiện các động tác khác một cách bán tự
động trong khi ngủ và sau này không còn nhớ được đã làm như thế. Hiện tượng này
thường thấy ở tuổi thơ và có thể vẫn còn ở tuổi trưởng thành. Mộng du có thể là
tự phát, do stress, hay do thôi miên (Theo từ điển Y học).