Tâm lý học căn bản - Chương 03 - Phần 6
6. Nhận thức chuyển
động: Khi thế giới xoay chuyển
Khi một cầu thủ
bóng chày cố gắng đánh một quả bóng được ném đến. Yếu tố quan trọng nhất là đà
chuyển động của quả bóng. Cầu thủ ấy làm sao có thể phán đoán được tốc độ và vị
trí của mục tiêu đang di chuyển đến với tốc độ khoảng 90 dặm một giờ?
Câu trả lời trông
cậy phần nào vào một số gợi ý cho chúng ta các thông tin phù hợp về nhận thức
chuyển động. Một mặt, sự chuyển động của vật được nhận thức qua võng mạc vốn
được cấu tạo liên hệ đến một không gian tĩnh chỉ bất động. Ngoài ra, nêu kích
thích tiến đến gần chúng ta thì hình ảnh của nó trên võng mạc sẽ càng to ra,
càng lúc càng lấp đầy thị trường mắt (visual field). Trong các trường hợp như
thế, chúng ta giả sử rằng kích thích ấy đang tiến gần chúng ta – và không cho
rằng kích thích ấy đang bành trướng ra nhưng được nhìn từ xa.
Tuy nhiên, không
phải chính sự chuyển động các hình ảnh qua võng mạc làm phát sinh ra nhận thức
về sự chuyến động. Nếu như thế hóa ra chúng ta sẽ thấy thế giới chung quanh
chuyền động mỗi khi ta xoay chuyển bộ phận đầu của mình. Mà một trong các điều
tối quan trọng mà chúng ta học được về nhận thức là tách biệt các thông tin về
các chuyển động của đầu và mắt với các thông tin về thay đổi hình ảnh trên võng
mạc.
Trong một số trường
hợp, chuyển động xảy ra quá nhanh đến mức chúng ta không thể nhìn theo kịp. Khi
ấy, chúng ta có thể đoán trước nơi dừng lại của vật nhờ kinh nghiệm cảm nhận
trước đây của chúng ta. Thí dụ, máy điện toán theo dõi các lần ném bóng trong
môn bóng chày cho thấy các quả bóng ném nhanh trong các trận đấu nhà nghề nổi
tiếng đều bay quá nhanh khiến cho mắt chúng ta không nhìn kịp. Thực tế, nếu cầu
thủ đánh bóng cố gắng theo dõi quả bóng từ lúc nó thoát đi khỏi tay người ném,
anh ta sẽ không còn nhìn thấy được quả bóng khi nó còn cách sân nhà khoảng 5 bộ
(tức khoảng 1,5 mét). Nghiên cứu cho thấy rằng các cầu thủ đánh bóng xuất sắc
đều không đưa mắt nhìn khi quả bóng còn ở giữa hành trình, họ dời tia nhìn về
gần sân nhà hơn để đợi quả bóng bay đến, hy vọng chạm vào gậy. Như vậy, thay vì
trông cậy vào thông tin cảnh giác thô sơ từ quả bóng đang bay đến – tiến trình
cảm nhận (the process of sensation) – họ sử dụng các tiến trình nhận thức
(perceptual processes), vận dụng những điều họ đã học hỏi được để kỳ vọng về
cách thức bay đến của quả bóng.
7. Chú ý có chọn
lựa: Sàng lọc thông tin về thế giới chung quanh.
Khung cảnh: một
buổi tiệc đông đúc và náo nhiệt. Trong khi một phụ nữ bên cạnh bạn lải nhải về
chiếc ô tô của bà ta, bỗng nhiên bạn nghe được tiếng mất tiếng còn trong cuộc
trò chuyện diễn ra sau lưng bạn về anh bạn Terry của bạn. Dường như anh này đã
cùng một khách mời khác rời khỏi bữa tiệc. Cố lóng tai nghe thì bạn lại không
theo kịp chi tiết câu chuyện chiếc xe của bà bên cạnh – cho đến khi đột nhiên
bạn nhận ra bà ấy đưa ra một câu hỏi buộc bạn trả lời. Hiển nhiên, bạn sẽ nói: “Xin
lỗi, ồn ào thế này, tôi không nghe rõ.”
Bất cứ ai đã từng
nghe câu chuyện chán phèo lải nhải về một sự việc tầm thường nào đó có lẽ đều
quen thuộc với tình huống vừa kể. Các nhà tâm lý quan tâm đến vấn đề nhận thức
cũng đều quen thuộc với các hoàn cảnh tương tự, trong đó có rất nhiều kích
thích mà người ta phải đồng thời chú ý đến. Điều quan tâm của các nhà tâm lý
này chủ yếu nằm trong câu hỏi: chúng ta làm thế nào có thể chọn lọc để nhận
thức được các thông tin hỗn tạp đó.
Chú ý có chọn lựa
(selective attention) là tiến trình nhận thức có chọn lựa loại kích thích nào
phải chú ý đến. Chúng ta đặc biệt chú ý đến các loại kích thích tỏ ra đặc biệt
tương phản nhau về mức độ sáng, bề rộng, mức độ ồn ào, mức độ mới lạ, hoặc mức
độ cao thấp. Chúng ta cũng chú ý nhiều đến các kích thích có ý nghĩa đặc biệt
phù hợp với các kỳ vọng riêng tư của chúng ta. Thí dụ, khi đói chúng ta sẽ dễ
cảm nhận các kích thích do thức ăn và các sự vật liên hệ đến thức ăn gây ra.
Các nhà quảng cáo
khá am tường về hiện tượng chú ý có chọn lọc này. Chẳng hạn các bảng quảng cáo
thưởng có các hình vẽ tương phản về độ sáng tối, và các chương trình quảng cáo
trên TV và đài phát thanh thường phát ra âm thanh to hơn các phim chiếu do
chương trình tài trợ. Các xướng ngôn viên trong các chương trình quảng cáo
thường nói nhanh hơn bình thường rất nhiều. Ngoài ra, các chương trinh ấy
thường được phát ở các thời điểm trong ngày vào lúc mà người ta đặc biệt nhạy
cảm với nội dung của chúng (như các chương trình quảng cáo về thực phẩm thường
được trình chiếu vào giờ ăn tối).
Trong một số trường
hợp, chú ý của chúng ta buộc phải phân chia theo hai kích thích. Thí dụ, hãy
thử làm bài trắc nghiệm ở Hình 3–17, trong đó bạn được yêu cầu nói to lên màu
mực dùng để in mỗi từ – không phải là loại màu theo ý nghĩa của mỗi từ. Được
mệnh danh là Stroop task, bài tập này là một bài tập cực kỳ khó khăn bởi vì nó
đòi hỏi phải nhận thức về hai loại kích thích mạnh mẽ, và bạn bị buộc phải phân
chia chú ý giữa màu sắc và ý nghĩa của các từ. Bởi vì cả hai đều là các kích
thích mạnh mẽ và bởi vì giống như hầu hết mọi người, bạn có kinh nghiệm đọc tên
màu sắc nhiều hơn, nên chú ý của bạn bị kéo ra khỏi màu sắc của mực in để thiên
về ý nghĩa của các từ.
Hình 3–17: Muốn làm thử bài tập Stroop, bạn hãy gọi tên các màu
mực in càng nhanh càng tốt, và lờ đi ý nghĩa cửa từng từ một. Đối với đa số
người, bài tập này cực kỳ khó khăn.
Muốn tìm hiểu tình
trạng chú ý có chọn lọc trong lãnh vực thính giác, các nhà tâm lý đã xây dựng
một phương pháp gọi là nghe rẽ đôi (dichotic listening) trong đó một người mang
một ống nghe mà mỗi bên tai cùng một lúc được nghe một thông điệp khác biệt với
bên tai kia. Người đó được yêu cầu lặp to lại một trong các thông điệp khi nó
vào đến một bên tai – tiến trình này gọi là bắt bóng (shadowing), bởi vì giọng
nói của người nghe ấy tác động như một cái “bóng” âm thanh của thông tin đang
được tiếp nhận.
Vấn đề đáng chú ý ở
đây không phải là liệu người nghe ấy có “bắt bóng” thông điệp chính xác đến mức
nào (hầu hết mọi người đều làm được hết khá dễ dàng); mà vấn đề là quan tâm đến
các ảnh hưởng do thông điệp vào đến lỗ tai kia gây ra. Hóa ra, dù nói chung
không nhớ được nội dung thông điệp thứ hai, nhưng người ta vẫn ghi nhớ được một
số đặc điểm của nó. Thí dụ, những người nghe báo cáo chính xác người nói là nam
hay nữ, và cả đến sự thay đổi của người nói trong quá trình truyền bức thông
điệp ấy. Khoảng 1/3 thời gian ấy, họ cũng báo cáo được tên của họ có được nhắc
đến hay không.
Một yếu tố dường
như đặc biệt quan trọng là ý nghĩa của bức thông điệp được “bắt bóng”. Nếu một
thông điệp đang được theo dõi ở một bên tai này đột nhiên chuyển sang tai kia,
thông thường các đối tượng thí nghiệm sẽ “đi theo” bức thông điệp sang bên tai
kia và bắt đầu “bắt bóng” từ bên tai thứ hai ấy, cho dù họ được đặc biệt yêu
cầu chỉ phải “bắt bóng” theo điều đang nghe ở bên tai thứ nhất (xem hình 3 –
18). Hơn thế nữa, thậm chí họ thường không biết rằng thông điệp đã chuyển đi từ
bên tai thứ nhất sang bên tai kia.
Các thí nghiệm như
vậy cho thấy rằng mặc dù vào một lúc nào đó người ta có thể tập trung hoàn toàn
vào một thông điệp duy nhất, nhưng họ vẫn chú ý đến các thông tin khác đến một
mức độ nào đó. Như vậy, sự kiện này giải thích được khả nâng nghe trộm câu
chuyện của người khác nhưng cũng biết trả lời đúng lúc cho người mà chúng ta
buộc phải lắng nghe.
Hình 3–18: Thử nghiệm “bắt bóng”. Các đối tượng được yêu cầu chỉ “bắt
bóng” – hoặc lặp lại – theo thông điệp đang được nghe ở một bên tai nêu rõ
trong hình, trong lúc hai thông điệp trong khung được nghe đồng thời. Các đối
tượng thí nghiệp không ý thức được việc làm của họ bất chấp hướng dẫn của nhà
thí nghiệm: Khi thông điệp phải lặp lại được chuyển sang tai bên kia, họ thường
sẽ lặp lại theo thông điệp đã chuyển sang tai bên ấy.
8. Tóm tắt và học
ôn III
A. TÓM TẮT
– Nhận thức
(perception) là tiến trình diễn dịch, phân tích, và hợp nhất các kích thích cảm
nhận được.
– Các quy tắc
Gestalt về dạng cấu trúc phức hợp là tính khép kín (closure), tính tương cận
(proximity), và tính đồng dạng (similanty). Nhưng quy tắc quan trọng nhất là
tính giản lược (simplicity).
– Người ta không
phản ứng thụ động đối với các kích thích thị giác, đúng ra, người ta cố gắng
tách biệt hình ảnh (figure) ra khỏi nền (background) của nó.
– Phân tích đặc
điểm nghiên cứu cách nhận thức một kích thích của chúng ta, chia nhỏ nó ra
thành các thành tố cá biệt cấu thành vật gây ra kích thích ấy, rồi sử dụng các
thành tố này để tìm hiểu vật chúng ta đang quan sát.
– Tiến trình nhận
thức xảy ra thông qua cách xử lý từ – trên – xuống và từ – dưới – lên.
– Nhận thức chiều
sâu phát sinh nhờ sự khác biệt do hai mắt (binocular disparily), thị sai chuyển
động (motion parallax), và kích thước tương đối của các hình ảnh trên võng mạc.
– Sự chuyển động
của các hình ảnh qua võng mạc, phối hợp với thông tin về chuyển động của đầu và
mắt, nẩy sinh nhận thức về chuyển động.
– Chú ý có chọn lọc
là tiến trình nhận thức có chọn lọc loại kích thích nào phải chú ý đền.
B. HỌC ÔN
1/ Khi một ô tô
vượt qua bạn trên đường và thu nhỏ đi khi chạy ra xa, hiện tượng nhận thức giúp
bạn biết rõ rằng chiếc ô tô ấy không bị nhỏ đi dù nó ở đằng xa. Hiện tượng này
gọi là gì?
2/ Hai thuyết khác
biệt nhau đã được vận dụng để miêu tả hiện tượng về sự bất biến của nhận thức
(perceptual constancy). Hãy cặp đôi lý thuyết với định nghĩa của nó:
a. Kinh nghiệm
trước đây và các kỳ vọng riêng tư được vận dụng để suy ra vị trí của sự vật.
b. Tương quan giữa
các sự vật khác biệt nhau trong toàn bộ khung cảnh cống hiến cho chúng ta các
đầu mối về kích thích của sự vật ấy.
1. Lý thuyết sinh
thái (ecogical theory)
2. Lý thuyết xây
dựng (constructive theory)
3/... là khả năng
quan sát thế giới chung quanh theo ba chiều thay vì hai chiều, còn... là khả
năng tìm ra chỗ xuất phát của một âm thanh.
4/ Mắt sử dụng một
kỹ thuật gọi là..., vận dụng các hình ảnh khác biệt nhau mà mỗi bên mắt thấy
được để giúp cho thị giác có khả năng cảm nhận ba chiều.
5/ Một vật càng ở
gần mặt thì sự chênh lệch do hai mắt (binocular disparlty) càng nhỏ đi. Đúng
hay Sai?...
6/ Cặp đôi các gợi
ý độc nhãn (monocular cues) với định nghĩa của chúng:
a. Các đường thẳng
song song dường như gặp nhau ở cách xa chúng ta.
b. Sự di chuyển tư
thế của một vật trên võng mạc khi bộ phận đầu chuyển động.
c. Nếu hai vật có
cùng kích thước, thì vật có hình ảnh nhỏ hơn trên võng mạc sẽ ở xa hơn.
1. Kích thước tương
đối (Relative size)
2. Phối cảnh thẳng
(linear perspective)
3. Thị sai do
chuyển động (motion parallax)
7/ Cặp đôi mỗi quy
tắc tổ hợp sau đây với ý nghĩa của chúng.
a. Tnh khép kín
(closure)
b. Tính tương cận
(proximity)
c. Tính đồng dạng
(similarity)
d. Tính giản lược
(simplicity)
1– Các yếu tố ở
cạnh nhau được tổ hợp với nhau.
2– Các mô hình được
nhận thức theo phương thức khả dĩ trực tiếp và căn bản nhất.
3– Các tổ hợp được
thực hiện theo các dạng hoàn chỉnh.
4– Các yếu tố có
hình dáng tương đồng được tổ hợp với nhau.
8/ Phân tích... bàn
về cách thức theo đó chúng ta phân tách sự vật thành các thành tố cá biệt để
tìm hiểu sự vật ấy.
9/ Cách xử lý chú
trọng đến các chức năng cao cấp như kỳ vọng (expectations) và động cơ
(motivation) được gọi là cách xử lý...; còn cách xử lý liên hệ đến sự nhận biết
các thành tố cá biệt của một kích thích được gọi là cách xử lý...
C. CÂU HỎI TỰ VẤN
Trong khi vị giáo
sư sinh học của bạn tiếp tục bài giảng về sự tiến hóa của ruồi giấm, bạn chợt
thấy mình đang lắng tai nghe hai người ngồi phía sau đang kháo chuyện nhau về
một người bạn của bạn. Hiện tượng nhận thức nào cho phép có hành vi này? Bạn sẻ
nhớ đến mức nào các điều mà vị giáo sư đã giảng dạy?
(Giải đáp câu hỏi
học ôn ở cuối chương)
IV. SAI LẠC
TRONG NHẬN THỰC
Hãy xét trường hợp
ngôi đền Parthenon, một trong các kiến trúc nổi danh của nước Hy Lạp cổ đại. Dù
đối với mắt thường có vẻ cân đối và vững chắc, nhưng thực ra nó đã được cố ý
xây cất phình ở một bên. Chính chỗ phình này khiến cho người xem thấy nó có vẻ
cân đối. Nếu không có chỗ phình ấy – và một số “mẹo” khác, như cột nghiêng về
phía trong chẳng hạn, có lẽ trông nó mất cân đối và như sắp đổ vậy.
Sự kiện cho thấy bể
ngoài của ngôi đền Parthenon hoàn toàn cân đối, với các đường nét thẳng thớm và
các góc vuông ở mọi góc cạnh, là hậu quả gây ra bởi một số mẹo đánh lừa thị
giác. Ảo tưởng thị giác (visual illusion) là ấn tượng lưu lại trong nhận thức
do các kích thích vật lý thường xuyên gây sai lạc, cho cảm nhận thị giác. Trong
trường hợp ngôi đền Parthenon, đối với mắt thường kiến trúc trông có vẻ hoàn
toàn cân đối như ảnh chụp ở Hình 3 – 19 (a). Nhưng nếu thiết kế đúng theo sự
cân đối thực tế thì ảo giác sẽ khiến người ta nhìn thấy ngôi đền có hình dáng
minh họa như ở Hình 3 – 19 (b), các góc vuông trên đường thẳng sẽ dường như
vênh lên như ở Hình 3 – 19 (c). Để bù đắp ảo giác này, ngôi đền Parthenon thực
tế đã được xây dựng như ở Hình 3 – 19 (d) được thiết kế hơi úp xuống.
Các kiến thức sâu
sắc về nhận thức như vậy không dừng lại ở người Hy Lạp; các kiến trúc sư và các
nhà thiết kế hiện nay cũng quan tâm đến tính sai lạc thị giác. Thí dụ, nhà hát
New Orleans Superdome đã lợi dụng một số mẹo đánh lừa thị giác. Ghế ngồi nhiều
màu sắc để tạo cảm giác từ xa rằng nhà hát luôn luôn đông khách. Thảm trải ở
một số tiền sảnh dốc xuống có nhiều sọc vuông góc với đường dốc xuống khiến
người ta có cảm tưởng đi nhanh hơn bình thưởng nên phải đi chậm bước lại –
Người ta cũng lợi dụng loại ảo giác này ở các buồng thu thuế cầu đường ở các xa
lộ: Các vạch sơn trên lề đường trước các buồng thu thuế khiến cho các tài xế có
cảm tưởng đang chạy nhanh hơn thực tế nên họ phải nhanh chóng giảm bớt tốc độ.
Hình 3–19: Với ngôi đền Parthenon, người Hy Lạp xây dựng một kỳ
công kiến trúc trông hoàn toàn cân đối, mọi góc đều vuông vức như ở hình (a).
Tuy nhiên, nếu mọi góc đều xây dựng hoàn toàn vuông góc thực sự thì ngôi đền sẽ
không giống như ở hình (b), do ảo tướng thị giác minh họa như ở hình (c). Để bù
dắp ảo giác này đền Parthenon đã được thiết kế hơi úp xuống, như trình bày ở
hình (d), (Coren & Ward, 1984, trang 5)
1. Ảo tưởng thị
giác: Nhận thức sai lạc của mắt
Một trong các loại
ảo thị giác nghiêm trọng nhất là ảo thị Muller Lyer (Muller Lyer's illusion)
minh họa ở Hình 3 – 20. Mặc dù hai đoạn thẳng có độ dài bằng nhau, nhưng đoạn
thẳng có hai đầu mũi tên hướng vào trong dường như là dài hơn đoạn thẳng có Z
đầu mũi tên hướng ra ngoài [ xem Hình 3 – 20 (a)]
Hình 3–20 (a): Ảo thị Muller – Lyer, trong đó đoạn thẳng nằm ngang ở
phía trên dường như dài hơn đoạn thẳng bên dưới.
HÌnh 3–20 (b): Một cách giải thích ảo thị Muller – Lyer cho rằng đoạn
thẳng có các đầu mũi tên hướng ra ngoài được xem như cạnh lồi của một vật lập
thể hướng về chúng ta (như góc ngoài của một tòa nhà), còn đoạn thẳng có các
đầu mũi tên hướng vào trong được xem góc lõm của một hình lập thể mở ra xa
chúng ta (như ở góc phòng). Kinh nghiệm trước đây của chúng ta về các gợi ý
khoảng cách giúp chúng ta rằng góc lồi gần hơn góc lõm và do đó góc lõm phải
dài hơn.
Mặc dù người ta đề
nghị nhiều lối giải thích các hiện tượng ảo thị, nhưng hầu hết đều tập trung
hoặc vào bản thân cơ quan thị giác hoặc vào cách diễn dịch của bộ óc đối với
một hình ảnh nhận thức. Chẳng hạn, cách lý giải đầu cho rằng khi nhìn đoạn
thẳng có các mũi tên hướng vào trong thì mắt phải chuyển động nhiều hơn. Sự
kiện này khiến chúng ta cho rằng đoạn thẳng ấy dài hơn đoạn thẳng có các đầu
mũi tên hướng ra ngoài.
Cách lý giải kia
nêu ra chứng cứ cho rằng nguyên nhân của ảo thị là do bộ óc diễn dịch sai lầm.
Chẳng hạn, một giả thuyết cho rằng ảo thị Muller – Lyer là hậu quả của việc
chúng ta gán cho mỗi đoạn thẳng nêu trên một ý nghĩa khác nhau. Khi nhìn đoạn
thẳng phía trên ở Hình 3–20 (a), chúng ta có khuynh hướng xem nó là góc lồi
tương đối hẹp của một vật có hình lập thể như tòa nhà ở bên trái ở Hình 3–20
(b). Bởi vì kinh nghiệm trước đây khiến chúng ta giả thiết rằng góc lồi hẹp hơn
góc lõm, nên chúng ta suy diễn xa hơn nữa rằng góc lõm phải rộng hơn.
Dù đưa ra mọi giả
thiết căn bản như thế, dường như cách giải thích này có vẻ không được ổn, nhưng
lại có chứng cứ khá thuyết phục bênh vực cho quan điểm này. Một trong các chứng
cứ bênh vực có giá trị nhất rút ra từ các công trình nghiên cứu về giao lưu văn
hóa cho thấy rằng những người sinh ra ở các vùng ít có kiến trúc theo góc vuông
– như dân Zulu ở Châu Phi chẳng hạn – ít bị ảo giác hơn những người trưởng
thành ở các vùng mà hầu hết các kiến trúc đều được xây đựng có dạng vuông góc
và hình lập thể.
Như vậy, cách diễn
dịch sai lạc do các hiện tượng ảo thị gây ra nói chung từ các sai lầm ở cả giai
đoạn phản ứng kích thích thị giác căn bản lẫn ở cách thức bộ óc diễn dịch các
thông tin mà nó tiếp nhận được. Nhưng các hiện tượng ảo thị cũng minh chứng một
điều căn bản về mặt nhận thức có tầm quan trọng hơn chứ không chỉ là sự hiếu kỳ
về mặt tâm lý mà thôi: có một mối liên hệ căn bản giữa kinh nghiệm cũng như các
nhu cầu, các động cơ, và các kỳ vọng của chúng ta về cách thức hình thành thế
giới chung quanh chúng ta với cách nhận thức của chúng ta về thế giới ấy. Như
vậy cách nhìn của chúng ta về thế giới đúng ra là một hàm số của các yếu tố tâm
lý căn bản. Ngoài ra, mỗi người chúng ta nhận thức môi trường chung quanh theo
một cách thức độc đáo và cá biệt – một sự kiện cho phép mỗi người chúng ta góp
phần cá biệt của mình vào thế giới ấy.
* Chứng khó đọc 1
viết (Dyslexia):một rối loạn
phát triển ảnh hưởng đặc biệt đến khả năng của trẻ về đọc và viết. Tình trạng
này tuy ít xảy ra, nhưng nó có ảnh hưởng đến các bé trai nhiều hơn các bé gái,
và gây ra các vấn để nghiêm trọng về mặt giáo dục. Chứng này đôi khi còn gọi là
chứng khó đọc – viết đặc biệt (specific dyslexia) hoặc chứng khó đọc – vết phát
triển (de–velopmental dyslexia) để phân biệt với các khó khăn mắc phải khi học
đọc và viết (theo Từ điển Y học).

