Tâm lý học căn bản - Chương 03 - Phần 1
Chương
3. CẢM GIÁC VÀ NHẬN THỨC
DÀN BÀI
Mở đầu
Triển khai chủ
đề
I. CẢM NHẬN THẾ GIỚI QUANH CHÚNG TA
1. Ngưỡng cảm nhận
tuyệt đối.
2. Thuyết phân biệt
tín hiệu.
3. Các sai biệt cảm
nhận cụ thể.
4. Sự thích ứng của
các cơ quan cảm giác.
5. Tóm tắt và học
ôn I.
II. NĂM GIÁC QUAN
1. Thị giác: cơ
quan cảm giác ở mắt.
2. Tóm tắt và học
ôn II/1.
3. Giác quan cảm nhận âm thanh và tình trạng cân bằng của cơ
thể.
ỨNG DỤNG TÂM
LÝ HỌC: Cải thiện các
giác quan nhờ tiến bộ kỹ thuật.
4. Khứu giác, vị
giác, và các giác quan ở da.
TRÍCH DẪN THỜI
SỰ: Khám phá nguồn gốc của khẩu vị.
5. Tóm tắt và học
ôn II/3, 4.
III. TÌM HIỂU THẾ GIỚI CHUNG QUANH: TIẾN TRÌNH NHẬN THỨC
1. Quy luật Gestalt
về cách bố trí và tổ hợp các kích thích.
2. Phân tích đặc
điểm: Chú trọng đến các thành phần thuộc tổng thể.
3. Xử lý từ trên
xuống và từ dưới lên.
4. Sự bất biến của
nhận thức.
5. Nhận thức chiều
sâu: Chuyển hóa từ hai chiều sang ba chiều.
6. nhận thức chuyển
động: Khi thế giới xoay chuyển.
7. Chú ý có chọn
lựa: Sàn lọc thông tin về thế giới chung quanh.
8. Tóm tắt và học
ôn III.
IV. SAI LẠC TRONG NHẬN THỨC
1. Ảo tưởng thị
giác: nhận thức sai lạc của mắt.
THỪA HƯỞNG
THÀNH QUẢ CỦA TÂM LÝ HỌC: Khám
phá và chữa trị chứng khó đọc–viết.
2. Tóm tắt và học
ôn IV.
V. NHỮNG ĐIỂM CẦN GHI NHỚ
VI. GIẢI ĐÁP CÂU HỎI
MỞ ĐẦU
TRƯỜNG HỢP PETE TOWNSHEND
Cứu trợ tại chỗ. Hỗ
trợ nông nghiệp. Trợ thính.
Trong khi câu cuối
không khiến cho bạn lưu ý đến chút nào, thì đối với Townshend có lẽ nó thật sự
có ý nghĩa. Là một trong số các ca sĩ hàng đầu đang hát cho ban nhạc The Who –
cùng với ngày càng nhiều ca sĩ nhạc rock – Townshend nhận thấy thính giác của
mình ngày càng suy kém thấy rõ. Nguyên nhân là phải nghe loại nhạc ồn ào quá
lâu.
Townshend đau khổ
vì chứng ù tai, vì tiếng vo vo không ngớt trong tai. Chứng này có thể là một
cơn ác mộng đối với các nạn nhân mắc phải. Đối với một số người bị nhẹ, tiếng
kêu vo vo ấy khi thì to hơn lúc thì nhỏ đi. Đối với một số người khác, tiếng vo
vo kéo dài không ngớt đó có lúc to đến mức người ta không còn nghe được các âm
thanh có cường độ bình thường nữa. Chứng ù tai có thể khiến người ta bực dọc,
mất khả năng tập trung, và phiền muộn.
Đối với Townshend,
tiếng vo vo ấy to bằng âm thanh của chiếc ghi ta điện, nó gây trở ngại cho
tiếng hát của anh đến mức anh không còn hứng thú trình diễn nữa. Anh tâm sự: “Tôi
đã phá hỏng thính giác của tôi. Sự kiện này gây tổn thương làm tôi đau đớn, và phá
tan mộng đẹp của đời tôi…”
Nguyên nhân của rối
loạn này nằm ở các tế bào lông tí hon thuộc tai trong (inner ear). Các tế bào
này có những sợi lông tơ mọc nhô ra từ thân tế bào. Khi âm thanh vọt lên cao,
các sợi lông này cong lại và duỗi ra. Thường thì các sợi lông phát sinh phản
ứng đối với các âm thanh có cường độ bình thường, nhưng các đợt công kích
thường xuyên của tiếng nhạc ồn ào có thể khiến cho các sợi lông ấy kém linh động
đi. Hậu quả có thể là chứng ù tai, một tình trạng mà Pete Townshend phải ôm lấy
suốt đời.
TRIỂN KHAI CHỦ ĐỀ
Mặc dù mất khả năng
thính giác có lẽ là thứ rối loạn tàn khốc nhất đối với một nhạc sĩ, nhưng tổn
thương ở bất cứ giác quan nào cũng là tai họa đối với chúng ta. Chẳng hạn, hãy
thử nghĩ xem mọi việc sẽ ra sao khi chúng ta không còn trông thấy được hoặc mất
đi vi giác, hoặc không còn ngửi được mùi vị bốc ra từ thế giới quanh chúng ta.
Hiển nhiên là mọi cảm xúc của cơ thể chúng ta có ảnh hưởng sâu sắc đến tác
phong cư xử hàng ngày của chúng ta.
Trong chương này
chúng ta chú trọng đến các lãnh vực thuộc môn tâm lý học có liên quan đến bản
chất của các loại thông tin mà cơ thể chúng ta tiếp nhận thông qua các giác
quan, cùng cách thức theo đó chúng ta diễn dịch các loại thông tin ấy. Chúng ta
sẽ nỗ lực tìm hiểu cảm giác (sensation), tức là tiến trình nhờ đó một sinh vật
phản ứng đối với kích thích vật lý phát sinh từ môi trường chung quanh, lẫn
nhận thức (perception), tức là tiến trình chọn lọc, diễn dịch, phân tích, và
hợp nhất các kích thích gây ra phản ứng ở các giác quan của chúng ta. Đối với
các nhà tâm lý thì việc quan tâm tìm hiểu các nguyên nhân gây ra tác phong cư
xử của con người, cảm giác và nhận thức là các chủ đề căn bản; bởi vì hành vi
của chúng ta phản ánh phần lớn cách thức chúng ta đáp ứng và diễn dịch mọi kích
thích phát xuất từ thế giới quanh chúng ta. Thực ra, các vấn đề từ việc nhận
diện các đặc điểm căn bản của thị giác và thính giác, đến việc tìm hiểu xem làm
cách nào chúng ta có thể biết được đường hay chanh thứ nào ngọt hơn, cho đến
việc tìm hiểu xem làm cách nào chúng ta phân biệt được người này với người
khác, tất chỉ đều nằm trong phạm vi của cảm giác và nhận thức.
Mặc dù nhận thức rõ
ràng là kết quả tự nhiên của tiến trình cảm giác, nhưng đôi khi người ta khó
lòng phân biệt được hai khái niệm ấy. (Thực ra, chính các nhà tâm lý và cả đến
các triết gia nữa – đã mất nhiều năm tranh luận về sự phân biệt này. Khác biệt
quan trọng nhất là có thể xem cảm giác như là phản ứng đầu tiên của sinh vật
đối với một kích thích nguyên sơ gây ra cho giác quan của nó, còn nhận thức là
tiến trình nhờ đó cảm giác được phân tích, diễn dịch và hợp nhất với các thông
tin cảm giác khác. Thí dụ, khi tìm hiểu cảm giác chúng ta có thể hỏi xem liệu
một kích thích rõ nét đến mức nào; còn khi tìm hiểu nhận thức, chúng ta thắc
mắc liệu người ta có nhận biết kích thích ấy không và nó có ý nghĩa gì đối với
người ấy.
Để khởi đầu, chương
này thảo luận mối tương quan giữa bản chất của một kích thích vật lý và các
loại phản ứng của giác quan đối với kích thích ấy. Thảo luận cũng đề cập đến
mức độ nhạy cảm của các giác quan đối với các loại kích thích khác nhau, và khả
năng phân biệt các mức độ kích thích. Chúng ta sẽ thấy bản chất của các loại
kích thích đặc biệt, mà với tư cách là con người chúng ta có khả năng đáp ứng
với chúng, có ảnh hưởng ra sao đối với mọi khía cạnh tác phong cư xử của chúng
ta.
Sau đó chương này
tiến đến thảo luận các giác quan đặc biệt. Khởi đầu với thị giác, nó giải thích
các khía cạnh vật lý của ánh sáng và mắt vận dụng ánh sáng ra sao để nhìn thấy
được sự vật. Cấu trúc mắt được trình bày dưới dạng một cơ chế chuyển hóa ánh
sáng thành các tín hiệu mà não bộ có thể xử lý được. Kế tiếp, chúng ta thảo
luận đến bộ phận tai, nhân đó nghiên cứu thính giác và mối tương quan của nó
với sự chuyển động và sự cân bằng của cơ thể. Mở đầu bằng cấu trúc vật lý của
âm thanh, chúng ta theo dõi hành trình đi vào tai của nó và tìm hiểu xem âm
thanh được chuyển hóa ra sao từ một kích thích vật lý thành một tín hiệu mà não
bộ xử lý được. Chúng ta cũng thảo luận số giác quan còn lại: Khứu giác, vị
giác, và các giác quan ở da. Các giác quan ở da bao gồm xúc chạm và cảm giác
đau đớn.
Kế tiếp, chương này
sẽ thảo luận đến một số vấn đề liên quan đến nhận thức. Khởi đầu bằng thảo luận
về cách bố trí và tổ hợp các kích thích mà các giác quan da chúng ta tiếp nhận
được nhằm nỗ lực tìm hiểu môi trường chung quanh. Sau đó chúng ta sẽ nghiên cứu
thị giác, tập trung tìm hiểu xem làm thế nào chúng ta có thể nhận thức được thế
giới này theo không gian ba chiều trong khi võng mạc chỉ có thể cảm nhận được
các hình ảnh hai chiều. Cuối cùng, chúng ta bàn về các ảo tưởng thị giác
(visual illusions). Việc làm này giúp ta có được một số đầu mối quan trọng để
tìm hiểu cơ chế nhận thức tổng quát của chúng ta.
Như vậy, đọc xong
chương này bạn có thể giải đáp được các câu hỏi sau:
– Cảm giác
(sensation) là gì và các nhà tâm lý làm sao để nghiên cứu nó?
– Mối tương quan
giữa bản chất của một kích thích vật lý với các loại phản ứng của các giác quan
đối với kích thích ấy là gì?
– Các giác quan
chính yếu là các giác quan nào, và những cơ chế căn bản nào làm nền tảng cho
vận hành của chúng?
– Các quy tắc nào
làm cơ sở để bố trí và tổ hợp các kích thích do các giác quan tiếp nhận được
nhằm giúp chúng ta tìm hiểu môi trường chung quanh?
– Làm thế nào chúng
ta có thể nhận thức được thế giới ba chiều trong khi võng mạc của chúng ta chỉ
có thể cảm nhận được các hình ảnh hai chiều?
– Chúng ta sàng lọc
các kích thích thính giác theo cách thức nào để chỉ chú ý đến các kích thích
đặc biệt và bỏ qua các kích thích khác?
– Các ảo tưởng thị
giác đem đến các đầu mối nào cho việc tìm hiểu cơ chế nhận thức tổng quát của
chúng ta?
Nhờ khám phá các
câu hỏi này, chúng ta sẽ thấy các giác quan phối hợp vận hành ra sao để cống
hiến cho chúng ta một quan điểm và sự am hiểu hợp nhất về thế giới chung quanh.
I. CẢM NHẬN
THỂ GIỚI QUANH CHÚNG TA
Đến với một số
người, nằm trên một bờ hồ vắng lặng để thưởng thức cảnh vật êm ả và thanh thản
là dịp tốt để tạm lánh khỏi cảnh tất bật và âm thanh nhức óc của cuộc sống náo
nhiệt. Thế nhưng, đối với những con vật thuộc các loại khác con người, có năng
khiếu linh mẫn hơn con người nhiều, chính cái hồ ấy lại là một môi trường thực
sự có nhiều thứ kích thích thách đố năng khiếu của chúng. Những loại kích thích
ấy con người không thể cảm nhận được vì giới hạn cơ thể của mình.
Chẳng hạn, đối với
một con chó chạy rông ruổi khắp nơi thì cái hồ ấy quả là nơi toát ra rất nhiều
mùi vị cám dỗ, một bản giao hưởng gồm nhiều thứ thanh âm lạ kỳ, và là một cảnh
tượng hối hả của từng đoàn côn trùng và các sinh vật li ti khác đang bận rộn di
chuyển. Chẳng những thế, cảnh vật ấy còn đầy ắp nhiều dạng năng lực vật chất
khác nữa mà con người hay con vật, hay cả đến bất cứ loài sinh vật nào khác
cũng không cảm nhận nổi: Đó là các làn sóng truyền thanh, ánh sáng cực tím, và
các loại âm thanh cực cao hay cực thấp.
Muốn biết các nhà
tâm lý quan sát một cảnh vật như thế ra sao, trước hết chúng ta cần quán triệt
một số thuật ngữ căn bản. Chính thức mà nói, bất cứ một dạng năng lượng thoáng
qua nào khởi động được một cơ quan cảm giác đều được xem là kích thích. Như
vậy, kích thích (stimulus) là một dạng năng lượng gây ra một đáp ứng ở một cơ
quan cảm giác.
Các loại kích thích
khác biệt nhau tùy theo loại hình và cường độ của chúng. Các dạng kích thích
khác nhau sẽ khởi động các cơ quan cảm giác khác biệt nhau. Chẳng hạn, chúng ta
có thể phân biệt các kích thích do ánh sáng gây ra, chúng khởi động thi giác
của chúng ta để giúp chúng ta thấy được các màu sắc của cây cối trong cảnh vật
mùa thu. Các kích thích ấy khác biệt với các kích thích do âm thanh gây ra cho
thính giác để giúp chúng ta nghe được âm thanh trầm bổng của một bản nhạc.
Người ta cũng cảm
nhận được sự khác biệt của mỗi loại kích thích căn cứ vào cường độ (intensity)
của chúng. Chẳng hạn, kích thích ánh sáng phải có cường độ bao nhiêu thì mắt
chúng ta mới cảm nhận được, hoặc giả người ta phải xức bao nhiêu nước hoa mới
gây được sự chú ý của kẻ khác. Tất cả đều liên quan đến cường độ của kích
thích.
Vấn đề cường độ
kích thích đến mức nào mới gây ra đáp ứng ở các giác quan thuộc phạm vi của một
chuyên ngành tâm lý học gọi là tâm vật lý. Ngành tâm vật lý (psychophysics)
nghiên cứu mối tương quan giữa bản chất vật lý của kích thích với các đáp ứng
của giác quan khi con người tiếp nhận kích thích ấy. Ngành tâm vật lý đã từng
đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng bộ môn tâm lý học hồi ban sơ; nhiều
nhà tâm lý tiên phong đã nghiên cứu các đề tài liên hệ đến tâm vật lý. Điều này
cũng dễ hiểu bởi vì ngành tâm vật lý là chiếc cầu nối liền thế giới vật chất
bên ngoài với thế giới tâm lý bên trong.
1. Ngưỡng cảm nhận
tuyệt đối
Hiễn nhiên con
người không thể nào cảm nhận được tất cả mọi thứ kích thích vật chất đang thực
sự hiện hữu ở môi trường chung quanh, như đã nêu trên đây trong thí dụ của
chúng ta về cái hồ có cảnh vật bề ngoài có vẻ êm ả. Vậy kích thích phải có
cường độ đến mức nào thì các giác quan của chúng ta mới cảm nhận được? Câu trả
lời buộc chúng ta phải hiểu rõ khái niệm về ngưỡng cảm nhận tuyệt đối. Ngưỡng
cảm nhận tuyệt đối (absolute threshold) là cường độ thấp thất mà một kích thích
phải có để các giác quan của chúng ta có thể cảm nhận được. Mặc dù như trên đây
chúng ta đã đề cập là so với các loài sinh vật khác thì khả năng cảm nhận của
loài người không được thiên nhiên ưu đãi cho lắm, nhưng thực ra ngưỡng cảm nhận
tuyệt đối của con người cũng khá phi thường. Chẳng hạn, hãy thử xem các thí dụ
sau đây về ngưỡng cảm nhận của các giác quan con người:
– Thị giác: trông
thấy được một ngọn nến thấp sáng ở cách xa 30 dặm trong đêm tối không có sương
mù.
– Thính giác: nghe
được tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ đeo tay ở cách xa khoảng hơn 6 mét trong
khung cảnh yên lặng.
– Vị giác: phân
biệt được vị ngọt của 1 thìa đường hòa tan trong khoảng 7,5 lít nước.
– Khứu giác: cảm
nhận được một giọt nước hoa trong 1 căn chung cư có 3 phòng.
– Xúc giác: cảm
nhận được cánh của 1 con ong rơi cách mặt 1 cm như vờn nhẹ lên gò má.
Các ngưỡng cảm nhận
ấy cho phép các cơ quan cảm giác của con người phân biệt được các kích thích
trong một phạm vi khá rộng lớn. Thực tế, các năng khiếu cảm nhận của chúng ta
đã được phú bẩm hoàn hảo đến mức chúng ta sẽ gặp trở ngại nếu như các năng
khiếu ấy có mức nhạy cảm hơn mức thiên phú này. Chẳng hạn, tai chỉ cần thính
hơn một chút thôi chúng ta sẽ nghe được âm thanh của các phân tử khí trời gõ
vào màng nhĩ – và hiện tượng này chắc chắn sẽ gây ra nhiễu âm và thậm chí có
thể khiến chúng ta không thể nghe được các âm thanh bên ngoài cơ thể chúng ta.
Dĩ nhiên, các
ngưỡng cảm nhận vừa đề cập được đo lường trong các điều kiện lý tưởng; thông
thường các giác quan của chúng ta không thể cảm nhận kích thích một cách khá
hoàn hảo được bởi vì tình trạng nhiệt náo trong môi trường chung quanh. Theo
các nhà tâm vật lý, nhiệt náo (noise) là một dạng kích thích tự nhiên của môi
trường can thiệp vào tiến trình nhận thức các kích thích khác với nó. Như vậy,
nhiệt náo không những chỉ liên can đến các kích thích thính giác – là thí dụ
hiển nhiên nhất – mà còn liên can đến các dạng kích thích tác động đến các giác
quan khác của chúng ta nữa. Hãy tưởng tượng một nhóm người cười nói xôn xao nêm
chật trong một căn phòng nhỏ ở một buổi tiệc. Tiếng cười nói ầm ĩ của đám đông
khiến chúng ta khó lòng nghe được tiếng nói của từng người, và khói thuốc lá
làm chúng ta khó trông rõ mọi vật, hoặc thậm chí khó lòng thưởng thức mùi vị
của các món ăn. Trong trường hợp này, khói thuốc lá và tình trạng đông đúc được
xem là “nhiệt náo”, bởi vì chúng hạn chế mức nhạy cảm của các giác quan.
2. Lý thuyết phân
biệt tín hiệu
Náo nhiệt không phải
là yếu tố duy nhất ảnh hưởng đến mức độ nhạy cảm của chúng ta đối với kích
thích. Chẳng hạn, hãy thử nghĩ xem sự việc sẽ ra sao nếu bạn là một bác sĩ đang
khám ngực của một bệnh nhân. Vấn đề của bạn không chỉ đơn thuần cảm nhận nhịp
tim đập – một thứ âm thanh đương nhiên hiện hữu. Mà vấn đề bạn gặp phải là phân
biệt nhịp tim đập bình thường với nhịp đập của người mắc bệnh.
Một số yếu tố tác
động khiến cho bạn sẽ xác định được bệnh trạng hay không, bao gồm các kỳ vọng
của bạn đối với bệnh nhân, kiến thức và kinh nghiệm chữa trị của bạn, và cả đến
động cơ làm việc của riêng bạn nữa. Như vậy khả năng phát hiện và cảm nhận một
kích thích sẽ không đơn thuần là một hàm số đối với đặc điểm của kích thích ấy;
nó cũng còn bị ảnh hưởng bới các ưu tư về mặt tâm lý nữa.
Lý thuyết phát hiện
tín hiệu (signal detection theory) là một thành quả của các nhà tâm vật lý tìm
cách giải thích vai trò của các yếu tố tâm lý đối với khả năng nhận diện các
kích thích của con người. Lý thuyết này thừa nhận rằng các quan sát viên có thể
vấp phải sai lầm ở một trong hai trường hợp: báo cáo có kích thích trong khi nó
không hiện hữu, hoặc báo cáo kích thích không hiện hữu trong khi thực tế nó
hiện hữu. Nhờ kỹ thuật thông kê, các nhà tâm lý vận dụng thuyết phát hiện tín
hiệu có thể tìm hiểu được các quan điểm khác biệt nhau – các quan điểm có thể
bao gồm các yếu tố như kỳ vọng và động cơ của quan sát viên – liên hệ như thế
nào đến các đánh giá của họ và các kích thích cảm giác trong các tình huống
khác biệt nhau. Các phương pháp thống kê cũng giúp các nhà tâm lý gia tăng mức
tin cậy đối với các dự đoán về các tình huống nào sẽ khiến cho các quan sát
viên có đánh giá chính xác nhất.
Các khám phá này có
tầm quan trọng thực tiễn lớn lao, như trong trường hợp các nhân viên điều khiến
đài radar có nhiệm vụ nhận diện và phân biệt các hỏa tiễn do địch phóng đến với
các tín hiệu radar ghi nhận mấy con chim bay ngang qua căn cứ quân sự. Một lãnh
vực khác mà thuyết phát hiện tín hiệu có ý nghĩa thực tiễn là hệ thống tư pháp
(judicial system). Các nhân chứng được yêu cầu nhận diện thủ phạm trong một
nhóm kẻ tình nghi phạm tội đứng xếp hàng trong phòng cách ly. Khi ấy việc nhận
diện sai lầm có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho một cá nhân (nếu như người
vô tội bị nhận diện sai lầm cho là thủ phạm) và cho xã hội (nêu tên thủ phạm
thực sự không được nhận diện). Tuy nhiên, nhiều nhân chứng thường có quan điểm
thiên lệch xuất phát từ thành kiến đối với hoàn cảnh cảnh kinh tế xã hội và
chủng tộc, từ thái độ của họ đối với hệ thống cảnh sát và tư pháp hình sự, và
từ các nhận định khác. Các quan điểm thiên lệch này gây trở ngại cho việc thẩm
định chính xác.