Tâm lý học căn bản - Chương 02 - Phần 5
ỨNG DỤNG THỰC TIỄN
GIÁ TRỊ THƯƠNG MẠI
CỦA NÃO BỘ
“A há! Bạn đã có được
Baby lý tưởng!”
“Em (Anh) rất thích
điều Anh (Em) đã làm cho Em (Anh)!”
“Cứ làm đi!”
“Thật khủng khiếp
nếu bạn lãng phí trí tuệ!” Nghe có vẻ quen tai phải không? Hẳn là quen rồi, bởi
vì bạn có thể đã nghe dược những câu này không biết bao nhiêu lần. Bất kỳ ngày
nào, một người Mỹ bình thường cũng phải tiếp xúc với khoảng 300 quảng cáo. Tính
trong một năm, các quảng cáo đã lên đến con số trên 100.000.
Dĩ nhiên các nhà thiết
kế quảng cáo không chỉ nhất thời quan tâm đến việc làm cho bạn nhớ đến các
quảng cáo của họ. Để đạt được điều này họ đã cung cấp vật liệu để ươm mầm kỹ
thuật mới gắn kết việc ứng dụng quảng cáo với khoa học tâm lý sinh học.
Những nỗ lực đầu
tiên để tìm hiểu sinh học hậu thuẫn cho quãng cáo đã khởi sự với những công cụ
liên kết xung điện dược phát ra từ lòng bàn tay với các nội dung quảng cáo. Sử
dụng một dụng cụ đo sự dẫn truyền xung điện dọc trong lòng bàn tay, các nhà
thiết kế quảng cáo đã đo được từng khoảnh khắc một các mức độ chú ý dành cho
các quảng cáo. Thí dụ như những người đang xem một mẫu thử nghiệm quảng cáo của
hãng Kodak đã cho thấy sự chú ý ở mức cao nhất khi nhìn thấy hình ảnh một bé
gái tóc thắt bím đang mỉm cười dược lồng vào mẫu quảng cáo, điều này cho phép
các nhà thiết kế ra mẫu quảng cáo hiểu được là chính hình ảnh bé gái đó là then
chốt cho sự thành công của mẫu quảng cáo do họ thiết kế.
Những sáng kiến gần
đây trong việc thử nghiệm độ hiệu quả của quảng cáo đã dựa trên công cuộc nghiên
cứu về sự thật hóa của bán cầu não phải và trái. Công trình nghiên cứu được
thực hiện trong một phòng thực nghiệm đã cho thấy các mẫu quảng cáo thu hút sự
chú ý do có tính logic, thí dụ như những quảng cáo biểu diễn đề–mô (dùng thử)
các sản phẩm, sẽ được xử lý tư duy bởi bán cầu não trái. Trái lại, các mẫu
quảng cáo chủ yếu vận dụng cảm xúc dường như được xử lý tư duy bởi bán cấu não
phải.
Thông tin này đã
giúp các nhà thiết kế quảng cáo dự đoán được các vấn để nghiêm trọng sẽ nảy
sinh với các mẫu quảng cáo Thí dụ như một mẫu quảng cáo bắt đầu với hình ảnh
một ông bố dang trò chuyện rất tình cảm và thân thương với cô con gái của mình
sẽ dẫn đến sự xử lý tư duy chủ yếu bên bán cầu não phải. Nhưng khi mẫu quảng
cáo đột ngột chuyển sang phần trình bày các thông tin về sản phẩm (đòi hỏi logic)
do đó chuyển sang sự xử lý tư duy chủ yếu của bán cầu não trái, thì anh hưởng
còn lưu lại của sự xử lý tư duy của bán cầu não phải có thể sẽ cản trở việc
hiểu rõ các thông tin về sản phẩm vốn do bán cấu não trái xử lý tư duy.
Điều quan trong cần
nhớ là phần nhiều các công trình nghiên cứu về quảng cáo chỉ mới trong giai
đoạn thực nghiệm và giả thuyền. Chưa có một kết quả cụ thể nào liên hệ sự thành
công của một mẫu quảng cáo với việc xử lý tư duy do bán cấu não phải hoặc trái.
Tuy vậy, việc các nhà thiết kế quảng cáo quan tâm đến các công trình khảo sát
các dấu hiệu sinh học đáng chú ý trong các mẫu quảng cáo là một thí dụ thú vị
về ứng dựng thực tiễn bắt nguồn từ các công trình nghiên cứu trong ngành tâm lý
sinh học.
8. Mô–đun não: xem
xét lại cấu trúc của não bộ
Hẳn các bạn còn nhớ
ở phần trước cũng trong chương này chúng ta đã thảo luận về cấu trúc não liên
quan đến các dạng kết nối nơron. Tuy nhiên các nhà tâm lý học có một phương
thức khác đế nghiên cứu cấu trúc não căn cứ vào một liên hệ giữa các chức năng
chuyên biệt, một mặt, với các cấu trúc của não, và mặt khác, với các tiến trình
nhận thức phức tạp như tư duy (thinking), hiểu biết (understanding), nhận biết
(perceiving), và ý thức (awareness).
Theo một quan điểm
mới về phương thức vận hành của não thì não được tổ chức thành nhiều hệ thống
mô–đun. Các mô–đun não (brain module) là các đơn vị tách biệt thực hiện các
công việc chuyên biệt. Được phân bố khắp não, các mô–đun này vận hành tương
thuộc nhau và gần như đồng thời trong việc xử lý thông tin.
Khái niệm căn bản
làm cơ sở cho hướng tiếp cận kiểu mô–đun này là những khả năng mà trước đây đã
được cho rằng nên xử lý như là một tổng thể thì nay được thấy là thật sự được
cấu thành bởi nhiều hoạt động có tầm cỡ nhỏ hơn. Lấy thí dụ về khả năng xử lý
thông tin thị giác của não chẳng hạn. Trước đây, người ta cho rằng trong não có
một vùng duy nhất điều hành xử lý các tín hiệu thị giác. Tuy nhiên, như chúng
ta sẽ thảo luận khi nghiên cứu về thị giác ở Chương 3, các chứng cớ ngày càng
nhiều gợi ý là có những vùng tách biệt trong não liên quan đến những khía cạnh
chuyên biệt khác nhau của thị giác. Thí dụ như một vùng não dường như xử lý các
tín hiệu về màu sắc; một vùng khác chuyên xử lý sự chuyển động của hình ảnh; và
còn một vùng khác nữa chuyên trách cảm nhận về độ nông sâu. Mỗi mặt này của thị
giác được xử lý đồng lúc bởi một mô–đun tách biệt, sau đó thông tin sẽ được hội
nhập thành một hình ảnh tổng hợp và toàn vẹn.
Một nghiên cứu mới
đây cho thấy mức độ biệt hóa mô–đun rất cao. Thí dụ như ngày nay người ta đã
thấy dường như não bộ có thể xử lý ngôn ngữ viết và nổi độc lập nhau nhờ vào sự
hiện hữu của các mô–đun tách biệt nhau. Thay vì có một hệ thống duy nhất để học
các quy tắc trong một hệ thống ngôn ngữ, thì nay có lẽ các mô–đun tách biệt sẽ
nghiên cứu phương thức phát âm các thuật ngữ, viết các thuật ngũ, phân tích
nguồn gốc các thuật ngữ, cú pháp, và các khía cạnh khác của hệ thống ngôn ngữ.
Cũng tương tự như với thị giác, mỗi đặc điểm của hệ thống ngôn ngữ sẽ được xử
lý đồng lúc và độc lập nhau, rồi sau đó các thông tin sẽ được tổng hợp.
Các chứng cớ ngày
càng nhiều về sự hiện hữu của nhiều mô–đun não bộ độc lập với nhau đã cung cấp
cho chúng ta phương thức liên kết các nơron cá thể với ý thức tổng thể mà chúng
ta có được khi làm người. Michael Gazzaniga, một nhà tâm lý sinh học nổi tiếng,
đã dự đoán ràng điều mà đã cung cấp cho mọi người một thế giới quan thống nhất
chính là một mô–đun duy nhất chỉ có ở loài người: “mô–đun thông dịch”
(interpreter) khu trú ở bán cầu não trái.
Theo Gazzaniga, mô–đun
thông dịch này giúp chúng ta tự xây dựng các giả thuyết để giải thích các phản
ứng của chúng ta. Mô–đun thông dịch đã cung cấp cho chúng ta phương thức phát
triển và thay đổi các niềm tin của chúng ta về thế giới, cũng như hiểu điều gì
đang xảy ra trong môi trường quanh ta.
Hãy còn quá sớm để
có thể nói giả thuyết của Gazzaniga đúng hay sai. Tuy nhiên, rõ ràng là não bộ
và hệ thần kinh của loài người đang ngày càng bộc lộ các bí ẩn của chúng trước
một đội ngũ các nhà tâm lý sinh học, các nhà nghiên cứu về nội thần kinh chuyên
về nhận thức (cognitive neuroscientists), và các nhà nghiên cứu thuộc các lãnh
vực khác.
9. Tóm tắt và ôn
tập IV
A. TÓM TẮT
* Vỏ não (Cerebral
cortex) bao gồm 3 vùng chính: vùng vận động, vùng cảm giác, và vùng điều phôi.
Các vùng này điều khiển lần lượt cử động hữu ý, cảm giác, và các tiến trình trí
tuệ cao cấp (bao gồm tư tưởng, ngôn ngữ, ký ức, và khả năng vận ngôn).
* Hai bán cầu não
tương đồng về mặt cấu trúc, nhưng dường như chúng chuyên trách các chức năng
khác biệt nhau. Bán cầu não bên trái liên hệ chặt chẽ nhất đến ngôn ngữ và các
kỹ năng nói, còn bán cầu não bên phải liên hệ đến các kỹ năng phi ngôn ngữ như
năng khiếu âm nhạc, biểu lộ tình cảm, nhận thức mô hình, và xử lý các tín hiệu
thị giác.
* Hệ nội tiết tiết
ra các kích thích tố, là các hóa chất ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và vận hành
cơ thể.
* Phản hồi sinh học
là một kỹ thuật theo đó người ta học cách kiểm soát một số tiến trình sinh lý
bên trong cơ thế, nhờ đó chữa trị được nhiều chứng bệnh chuyên biệt.
B. HỌC ÔN
1. Thuỳ... nằm phía
sau thùy trán và thùy... nằm phía sau thùy thái dương.
2. Một bác sĩ phẫu
thuật gắn một điện cực lên một bộ phận thuộc não bộ của bạn và kích thích điện.
Lập tức, cổ tay phải của bạn co giật mạnh. Rất có thể vị bác sĩ ấy đã kích
thích một bộ phận thuộc vùng... trong não bộ của bạn.
3. Vùng vận động
trong não bộ được phân thành những phân đoạn kiểm soát các phần khác nhau của
cơ thể. Độ chính xác cần thiết cho các vận động của các phần cơ thể này càng
cao thì diện tích tương ứng nằm trên não bộ càng lớn. Đúng hay sai?...
4. Các vùng cảm
giác trong não bộ được phân theo kích thước của các cơ quan cảm giác. Như vậy,
do da (cơ quan cảm giác) ở phần lưng con người rộng hơn so với da ở các đầu
ngón tay (cơ quan cảm giác) nên phần nằm trong vùng cảm giác ở não liên kết với
các cảm giác ở lưng sẽ lớn hơn nhiều so với phần liên kết với các cảm giác ở
đầu ngón tay. Đúng hay Sai?...
5. Bạn trông thấy
một người đàn ông được yêu cầu chuốt viết chì. Ông ta xoay đồ chuốt viết chì
trong suốt năm phút mà không sao đút được cây viết chì vào lỗ chuốt được. Chứng
bệnh có thể gây nên thể loại hành vi này được gọi là...
6. Các bán cầu não
điều khiển phần cơ thể cùng phía với chúng, bán cầu trái điều khiển phần cơ thể
bên trái, và bán cầu não phải điều khiển phần cơ thể bên phải. Đúng hay sai?...
7. Các lĩnh vực phi
ngôn ngữ, như tình cảm và âm nhạc, được điều hành chủ yếu bởi bán cầu não...,
còn bán cầu não... chịu trách nhiệm nhiều hơn về các kỹ năng nói và đọc.
8. Các lý thuyết
hiện hành gợi ý rằng não bộ được tổ chức thành một bộ các... mỗi bộ ấy vận hành
tương thuộc để thực hiện một công việc nhất định.
9... là một kỹ
thuật theo đó người ta học cách theo dõi và cải biến các hiện tượng sinh lý,
trong tương lai có kỹ thuật này có thể được áp dụng để giúp đỡ các sinh viên
tập trung học tập.
C. CÂU HỎI TỰ VẤN
Hãy nghĩ đến hai
người bạn từng quen biết. Hãy căn cứ vào mức độ khác biệt họ cho thấy mà ước
đoán bán cầu não phải hoặc trái chi phối họ nhiều hơn.
(Giải đáp câu hỏi
học ôn ở cuối chương)
V. HỆ NỘI
TIẾT: CÁC NỘI TIẾT TỐ VÀ CÁC TUYẾN NỘI TIẾT
Một khía cạnh khác
của não bộ chưa được chúng ta xem xét là hệ nội tiết (endo–crine system), một
mạng lưới truyền tin bằng hóa chất gởi các tín hiệu đi khắp hệ thống thần kinh
thông qua sự tuần hoàn máu. Mặc dù bản thân nó không phải là một cấu trúc của
não bộ, nhưng hệ nội tiết liên kết mật thiết với vùng dưới đồi (hạ đồi). Công
việc của hệ nội tiết là tiết ra các kích thích tố (hormone) khác nhau. Kích
thích tố là các hóa chất tuần hoàn theo máu để tác động lên sự vận hành hoặc
phái triển của các bộ phận khác nhau trong cơ thể.
Giống như nơron,
các kích thích tố dẫn truyền các tín hiệu đi khắp cơ thế, mặc dù tốc độ và
phương thức dẫn truyền hoàn toàn khác biệt nơron. Trong khi các tín hiệu được thần
kinh truyền đi với tốc độ tính bằng phần ngàn giây, thì các tín hiệu được kích
thích tố truyền đi có thể phải tính bằng phút mới đến được nơi cần đến của
chúng. Ngoài ra, các tín hiệu thần kinh di chuyển xuyên suốt các nơron theo
những con đường chuyên biệt (giống như các sợi dây điện căng giữa các trạm điện
thoại), nhưng các tín hiệu do các kích thích tố dẫn truyền lại đi khắp cơ thể,
tương tự như các làn sóng truyền thanh phủ khắp một vùng địa lý. Và giống như
sóng truyền thanh chỉ tạo đáp ứng khi radio bắt trúng đài, các kích thích tố
lưu chuyển theo dòng máu cũng chỉ kích hoạt được các tế bào nào tiếp nhận và “cảm
ứng” (tuned) với tín hiệu tương thích do kích thích tố truyền đến.
Thành phần chủ yếu
của hệ nội tiết là tuyến yên (pituitary gland), được tìm thấy ở gần vùng hạ đồi
và cũng được điều hòa bởi vùng hạ đồi. Có lúc tuyến yên còn được gọi là “tuyến
chủ” (master gland) bởi nó điều khiển sự vận hành của các phần còn lại trong hệ
nội tiết. Tuy nhiên tuyến yên không chỉ là tuyến điều khiển hoạt động của các
tuyến khác, nó còn có các chức năng quan trọng của riêng nó. Thí dụ như các
kích thích tố do tuyến yên tiết ra và chuyên kiểm soát sự tăng trưởng của cơ
thể. Những người quá lùn – người thon – và những người cao lớn dị thường –
người khổng lồ – thường bị khuyết tật ở tuyến yên.
Mặc dù được gọi là “tuyến
chủ”, nhưng thật sự tuyến yên chỉ là nô bộc của não bộ, bởi vì não chịu trách
nhiệm tối hậu về sự vận hành của hệ nội tiết. Não điều hòa tình trạng cân bằng
nội tiết của cơ thể để bảo đảm duy trì được tình trạng hằng định nội môi thông
qua tác động của vùng hạ đồi. Tuy vậy, con đường từ não bộ đến hệ nội tiết
không chỉ chuyên một chiều: các kích thích tố có thể thường xuyên cải biến
phương thức tổ chức các tế bào não. Thí dụ như hành vi tình dục ở người trưởng
thành được coi là bị ảnh hưởng bởi sự sản xuất các kích thích tố cải biến các
tế bào ở vùng hạ đồi.
Tương tự, những
cảnh ngộ đặc biệt trong cuộc sống có thể ảnh hưởng đến việc sản xuất các kích
thích tố. Thí dụ như một cuộc nghiên cứu thực nghiệm các cặp sinh viên đại học
đối đầu nhau trong chơi game đã cho kết quả là những cá nhân thắng cuộc đã có
sự gia tăng sản xuất kích tố nam, testosterone, một kích thích tố liên quan tới
hành vi gây hấn.
Các loại kích thích
tố chuyên biệt cũng có thể đóng một số vai trò tùy thuộc hoàn cảnh sống. Thí dụ
như kích thích tố oxytocin là nguồn gốc của nhiều cảm giác thỏa mãn và khoái
lạc trong cuộc sống. Ở các sản phụ, oxytocin làm nảy sinh nhu cầu chăm sóc đứa
con mới sinh ra. Kích thích tố này dường như cũng kích thích việc thực hiện các
động tác vuốt ve, âu yếm giữa các thành viên cùng giống loài. Và – ít nhất ở
loài chuột cống – nó kích thích các chuột đực còn trong độ tuổi có khả năng
tình dục trở nên cuồng nhiệt hơn trong việc tìm chuột cái; và nó kích thích chuột
cái cảm ứng hơn đối với hành vi dẫn dụ tình dục của chuột đực. Một nghiên cứu
thật sự cho thấy tỷ lệ chuột cái chủ động đi tìm chuột đực giao phối sau khi
được cho oxytocin đã tăng tới 60% đến 80% cao hơn so với nhóm đối chứng gồm
những chuột cái không được cho oxytoxin.
Hình 2–18: Trình bày các tuyến nội tiết khác có ảnh hưởng đến các
phản ứng tình cảm, các thôi thúc tình dục, và các mức độ năng lượng.
Chức năng quy định
bởi chất tiết ra:
Các loại hormone
ảnh hưởng đến các chất tiết ra bởi tuyến giáp, tiểu đảo Langehans, vỏ thượng
thận, và các tuyến sinh dục cũng tiết ra các hormones tăng trưởng
Chuyển hóa nước và
muối
Tốc độ chuyển hoá
Các hormone insulin
và glucagon điều khiển sự chuyển hóa đường.
Điều khiển sự
chuyển hóa muối và car–bohydrate; điều khiển các phản ứng viêm của cơ thể.
Hoạt động nhằm đánh
thức cảm giác và trong tình trạng ngủ của cơ thể nhờ các hormone: epinephrine
và nonepinephrine.
Sinh sản các loại
hormone anh hưởng đến sự phát triển cơ thể và các loại hormone nuôi dưỡng các
bộ phận sinh dục ở người trưởng thành.
Thành quả của các
nghiên cứu thuộc Tâm lý học: học cách kiểm soát hoạt động của tim và não nhờ
vào hiệu ứng phản hồi sinh học (biofeedback)
Khi áp huyết cô
tăng cao đến mức không thể chấp nhận được, ban đầu Carla Lewitt đã được đề nghị
dùng thuốc theo một công thức trị liệu chuẩn. Khi cô hỏi liệu có liệu pháp nào
khác không, bác sĩ của cô đề nghị một phương thức đòi hỏi cô phải học cách kiểm
soát huyết áp của mình một cách chủ ý. Mặc dù Carla không tin rằng cô có khả
năng kiểm soát được thứ gì đó ngoài tầm hiểu biết của mình, nhưng cô cũng đã
đồng ý làm thử. Sau ba tuần lễ làm thử, huyết áp của Carla hạ trở về mức bình
thường.
Suốt đời Bill
Jackson bị hành hạ bởi những cơn nhức đầu khủng khiếp. Dường như không có loại
thuốc nào chặn đứng được chúng, và các cơn nhức đầu ấy thường đi kèm với sự ăn
mất ngon và nôn mửa. Khi một người bạn đề nghị ông thử dùng một phương pháp mới
được thiết kế nhằm giúp ông chủ ý khống chế các cơn nhức đầu nhờ vào luyện tập
cách điều khiến sự co thắt các cơ trên đầu, ông đã cười bảo: “Tôi đang học cách
chặn đứng chứng nhức đầu suốt cả đời đây và chưa bao giờ thành công.” Được bạn
bè thuyết phục rằng dù sao biện pháp ấy cũng đáng được làm thử nên ông tìm đến
một nhà tâm lý học chuyên về khoa phản hồi sinh học – và sau bốn tuần lễ làm
thử ông đã dứt được các cơn nhức đầu.
Chúng ta thường cho
rằng nhịp tim, nhịp hô hấp, huyết áp, và các chức năng khác của cơ thể thuộc
quyền điều khiển của các bộ phận thuộc não mà chúng ta không thể nào can thiệp
vào được. Nhưng, như các trường hợp ở trên đã minh họa, các nhà tâm lý đang
khám phá ra là các hiện tượng mà trước đây người ta từng tin rằng là các đáp
ứng sinh học hoàn toàn ngoại ý lại có thể được kiểm soát một cách chủ ý – và,
trong tiến trình nghiên cứu, các nhà tâm lý học đã biết được nhiều điều về
những kỹ thuật trị liệu quan trọng cho một số chứng bệnh.
Kỹ thuật giúp cho
chưa Lewitt hạ huyết áp, và giúp Bill Jackson dứt các cơn nhức đầu chỉ là một:
sự phản hồi sinh học. Phản hồi sinh học (biofeedback) là một kỹ thuật trong đó
người ta học cách kiểm soát các tiến trình sinh lý nội tại như huyết áp, nhịp
tim, vận tốc hô hấp, nhiệt độ ở da, xuất mồ hôi, và sự co cơ.
Làm thế nào người
ta có thể kiểm soát được các đáp ứng thường được xem là “ngoại ý” ấy? Người ta
kiểm soát được chúng nhờ luyện tập với các dụng cụ điện tử cung cấp các phản
hồi liên tục đối với các đáp ứng sinh lý phải kiểm soát. Thí dụ như trường hợp
Carla Lewitt muốn kiểm soát huyết áp cô được gắn một máy monitor để thường
xuyên theo dõi và thông báo trị số huyết áp cho Carla biết. Vi Carla chủ động
có ý muốn thay đổi trị số huyết áp của mình, nên qua máy monitor cô nhận được
ngay lập tức trị số huyết áp tức phản hồi về mức độ thành công của cô trong
việc kiểm soát huyết áp qua ý chí tư duy. Theo phương thức này, cuối cùng cô
học được cách khống chế không cho huyết áp tăng. Tương tự, nếu một người muốn
khống chế các cơn nhức đầu nhờ vào hiệu ứng phản hồi sinh học như trường hợp
Bill Jackson, ông ta có thể được cấy các bộ cảm ứng điện tử vào các cơ ở đầu
rồi nhờ các phản hồi do các cảm ứng này phát ra ông ta sẽ học được cách điều
khiển sự co và thư giãn các cơ. Như vậy, khi cảm thấy cơn nhức đầu sắp xảy đến,
ông ta có thể thư giãn các bắp thịt có liên quan để vô hiệu hóa cơn đau.
Mặc dù việc kiểm
soát các tiến trình sinh lý nhờ vào việc sử dụng hiện tượng phản hồi sinh học
không phải là dễ học được, nhưng nó đã được sử dụng thành công trong nhiều
chứng bệnh khác nhau bao gồm các rối loạn về cảm xúc [như lo âu (anxiety), trầm
cảm (depression), các ám ảnh gây sợ hãi (phobia), nhức đầu do căng thẳng
(tension headache), mất ngủ (insomnia), và bứt rứt (hyperactivity)], các chứng
bệnh có nhân tố tâm lý [như hen suyễn (asthma), cao huyết áp (high blood
pressure), loét (ulcer), vọp bẻ (muscle spasms), và chứng thiên đầu thống (nhức
nửa đầu, migraine)], và các bệnh về thể xác [như các tổn thương đến thần kinh
vận động cơ do cơn đột quỵ (stroke), chứng bại não (cerebral palsy), và chứng
vẹo cột sống (spinal curvature, ảnh 2–19).
Hình 2–19: Biện pháp cổ điển để trị chứng vẹo cột sống phổ biến sử
dụng một vòng đai lưng vừa mất thẩm mỹ vừa gây vướng. Ngược lại, liệu pháp phản
hồi sinh học sử dựng một bộ đai gọn nhẹ gắn với một thiết bị điện tử phát ra
những âm thanh phản hồi khi bệnh nhân không đứng thẳng đúng tư thế. Như vậy
bệnh nhân học được cách giữ được một tư thế đúng để giảm dần độ vẹo lệch của
cột sống cho đến khi không còn cần dùng thiết bị nữa.
Bởi vì kỹ thuật
phản hồi sinh học vẫn còn trong vòng thử nghiệm, chúng ta cũng không thể cho
rằng liệu pháp này sẽ thành công trong mọi trường hợp. Nhưng, có điều chắc chắn
là việc tìm hiểu thông qua kỹ thuật phản hồi sinh học đã mở ra một số khả năng
tạo phấn khởi trong việc điều trị các bệnh nhân có vấn đề về phương diện thể
chất và tâm lý. Ngoài ra, một số nhà tâm lý học còn ước đoán đến một ngày trong
tương lai, việc sử dụng kỹ thuật phản hồi sinh học sẽ trở thành một bộ phận
trong đời sống thường ngày. Như trường hợp một nhà nghiên cứu đã đề nghị có thể
cho các sinh viên hay tỏ ra lơ đểnh trong giờ học được gắn một thiết bị đem lại
cho họ sự phản hồi để họ biết liệu họ có đang chú tâm đến các thông tin họ đang
học không. Nếu họ ngưng chú tâm, thiết bị sẽ báo động để đưa họ về trạng thái
chú tâm.