Tâm lý học căn bản - Chương 01 - Phần 4

III. VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU TRONG LÃNH VỰC TÂM LÝ

Hôm ấy là một buổi
tối mùa xuân ấm áp ở một thành phố nhỏ bé thuộc vùng New England. Chính ở thời
gian và địa điểm ấy, Erica Morris đã bị cưỡng hiếp một cách dã man (Để tôn
trọng bí mật của nạn nhân, dĩ nhiên đây không phải là tên thực của cô). Không
cần phải nói vụ cưỡng hiếp ấy đã là đề tài giật gân cho các nhật báo phát hành
ngày hôm sau đó, mà điều khiến cho công chúng kinh hoàng nhất chính là sự kiện
vụ cưỡng hiếp đã xảy ra trước sự chứng kiến của rất nhiều kẻ bàng quan – không
ai trong bọn họ động lòng trắc ẩn trước những lời van xin kêu cứu của Morris.

Như sau này nạn
nhân tường thuật tỉ mỉ biến cố, cơn ác mộng bắt đầu khi cô tìm cách rời khỏi
quán rượu. Một tên đàn ông chặn cô lại ngay cửa rồi xé toạc quần áo của cô, chỉ
còn lại chiếc áo lót. Cô chống cự để tìm cách thoát thân, gào thét cầu xin ai
đó trong cái quán đông đúc ấy ra tay cứu giúp. Nhưng kết quả của các lời kêu
cứu của cô chỉ làm cho một vài tên khác gia nhập vào cuộc tấn công mà thôi. Bọn
chúng vác cô đến một bàn bị da, rồi thay phiên nhau cưỡng hiếp cô.

Theo biên bản của
cảnh sát, cô “đã la lên, khẩn cầu, và van xin cứu giúp – vậy mà không một ai
chịu giúp cô”. Người duy nhất muốn giúp cô là một người khách quen của quán đã
cố gọi cảnh sát. Nhưng ngay cố gắng này cũng tỏ ra vô ích, tại vì ông ta gọi
nhầm số rồi ngưng luôn. Nhân viên đứng quầy yêu cầu mọi người không nên hưởng
ứng lời van xin của cô bởi vì những kẻ tấn công Morris đã ngăn chặn những người
có thể ra tay giúp đỡ bằng một con dao trét bơ.

Sau cùng, Morris vùng
vẫy thoát khỏi bọn cưỡng dâm rồi chạy ra khỏi quán, gần như trần truồng và
hoảng hốt. Nhưng lần này cô gặp may. Một người lái xe ngang qua đó đã cho cô
lên xe, chở đến buồng điện thoại để kêu cứu.

Nếu đây là một biến
cố hiếm khi xảy ra thì chúng ta có thể miễn cưỡng cho rằng thái độ của những kẻ
bàng quan ấy là sửng sốt trước tình huống bất ngờ. Nhưng bất hạnh thay, các
biến cố giống như thế – đã trở thành chất liệu cho một cuốn phim nhan đề là Bị
cáo (The Accused), do Jodle Foster thủ vai chính – lại không phải là không
thường xảy ra.

Chẳng hạn, trong
một trường hợp khác được khá nhiều người biết đến, một phụ nữ tên là Kitty
Genovese bị tấn công gần một cao ốc chung cư ở New York vào khoảng giữa thập
niên 1960. Khi bị hành hung Genovese đã vùng vẫy thoát chạy được trong 30 phút.
Trong thời gian đó cô kêu thét không ngừng “Chúa ơi. Nó đâm tôi. Cứu tôi!”
Trong đêm tĩnh mịch, không dưới 38 người sống quanh đó đều nghe được tiếng kêu
cứu của cô. Những cánh cửa sổ mở ra và ánh đèn bật lên. Một cặp vợ chồng đã kéo
ghế đến bên cửa sổ và tắt đèn đi để xem cho rõ hơn. Có ai đó la lên: “Thả cô ấy
ra!” Nhưng tiếng la đó không đủ sức làm tên sát nhân khiếp sợ. Hắn thản nhiên
đuổi bắt cô, liên tiếp đâm cô thêm tám nhát dao rồi tiếp tục cưỡng hiếp cô
trước khi bỏ cô nằm chết. Bao nhiêu trong số 38 người chứng kiến đã đến tiếp
cứu cô? Giống như trường hợp Erica Morris, không có ai ra tay giúp đỡ cô cả.

Các trường hợp
Erica Morris và Kitty Genovese đều là các thí dụ khiến người ta thất vọng và
hoang mang về “thực trạng thiếu lòng vị tha”. Công luận cũng như các nhà tâm lý
đều thấy khó lòng lý giải được nguyên nhân nào khiến cho quá nhiều người chứng
kiến như thế lại nỡ đứng xuôi tay bàng quan chứ không chịu đến giúp đỡ các nạn
nhân đáng thương ấy.

Các nhà tâm lý đặc
biệt bối rối đối với vấn đề này trong nhiều năm và sau cùng họ đã đi đến một
kết luận không ai ngờ đến là: cả hai cô Erica Morris và Kitty Genovese lẽ ra sẽ
may mắn hơn nếu chỉ có ít người chứng kiến hoặc nghe được tiếng kêu cứu của họ.
Thực ra, nếu chỉ có một người chứng kiến trong một trường hợp ấy, thì xác suất
người chứng kiến can thiệp có lẽ sẽ khá cao. Hóa ra, càng ít người chứng kiến
trong một tình huống giống như hai trường hợp nghiên cứu thì nạn nhân càng có
nhiều cơ hội nhận được sự giúp đỡ hơn.

Nhưng làm thế nào
các nhà tâm lý đã đi đến một kết luận kỳ lạ như vậy? Dù sao, logic và cảm nghĩ
thông thường hiển nhiên sẽ cho rằng càng có nhiều người chứng kiến thì xác suất
một người nào đó ra tay giúp đỡ nạn nhân càng lớn hơn. Nghịch lý biểu kiến này –
và cách lý giải của các nhà tâm lý – minh chứng một công việc tối quan trọng
trong lãnh vực tâm lý: nỗ lực nêu ra và lý giải các câu hỏi thích hợp.

1. Nêu ra câu hỏi
thích hợp: lý thuyết và giả thuyết

Nỗ lực nêu ra được
câu hỏi thích hợp và giải đáp hợp lý câu hỏi ấy thực hiện được nhờ sử dụng
phương pháp khoa học. Phương pháp khoa học (Scientific method) là phương pháp
được những người hành nghề tâm lý, cũng như các chuyên viên thuộc các bộ môn
khoa học khác, vận dụng để tiến hành tìm hiểu thế giới chung quanh. Như minh
họa ở Hình 1–2, phương pháp này gồm có ba bước chủ yếu: (1), xác lập câu hỏi
thích hợp, (2) hình thành cách giải thích, và (3) thực hiện cuộc nghiên cứu
nhằm minh chứng hoặc bác bỏ cách giải thích ấy.

Hình 1–2: Các bước thực hiện phương pháp khoa bọc.

Xác lập câu hỏi
thích hợp –> Hình thành cách giải thích: Xây dựng lý thuyết; Xây dựng giả
thuyết –> Thực hiện cuộc nghiên cứu: Toán tử hóa giả thuyết; Chọn lựa phương
pháp nghiên cứu; Thu thập dữ kiện; Phân tích dữ kiện

a/ Xây dựng lý
thuyết: Định rõ cách lý giải khái quát.

Khi vận dụng phương
pháp khoa học, các nhà tâm lý khởi đầu công việc bằng cách quan sát hành vi ứng
xử quen thuộc đối với tất cả chúng ta. Nếu bạn đã từng tự hỏi tại sao một vị
giáo sư của bạn lại quá dễ nổi cáu, tại sao một người bạn nào đó cứ luôn luôn
trễ hẹn, hoặc làm cách nào để con chó hiểu được các mệnh lệnh của bạn, ấy là
bạn đã nêu ra các câu hỏi về hành vi ứng xử. Cũng vậy, các nhà tâm lý nêu ra
các câu hỏi về bản chất và nguyên nhân gây ra các hành vi, dù các câu hỏi của
họ thường trừu tượng hơn so với các câu hỏi của bạn.

Một khi đã nêu ra
được câu hỏi thích hợp rồi, bước kế tiếp trong phương pháp khoa học là xây dựng
lý thuyết để giải thích hiện tượng đã được quan sát. Lý thuyết (theory) là cách
giải thích và dự đoán khái quát về hiện tượng nghiên cứu. Xuất phát từ các mô
hình nhận thức tâm lý khác nhau đã đề cập trên đây, các lý thuyết sẽ khác biệt
nhau cả về tầm bao quát lẫn mức độ sử dụng chi tiết của chúng. Thí dụ, một lý
thuyết có thể tìm cách giải thích và dự đoán một hiện tượng khái quát như một
kinh nghiệm xúc cảm nói chung nào đó chẳng hạn. Một lý thuyết có tầm bao quát
hẹp hơn có thể nhằm dự đoán cách biểu lộ vô ngôn một cảm giác sợ hãi sau khi
người ta bị đe dọa. Một lý thuyết còn cụ thể hơn nữa có thể nỗ lực giải thích
các cơ trên khuôn mặt vận động liên tục ra sao để biểu lộ cảm giác sợ hãi khi
người ta ở trong tâm trạng sợ hãi.

Tất cả chúng ta đều
đã xây dựng cho riêng mình các lý thuyết không chính thức về hành vi ứng xứ,
như “con người có tính bổn thiện” hoặc “Hành vi của con người thường có động cơ
vị kỷ”. Nhưng các lý thuyết do các nhà tâm lý xây dựng lại có tính hợp thức và
có mục tiêu rõ rệt hơn. Chúng được thiết lập trên cơ sở am hiểu tường tận các
lý thuyết và các nghiên cứu tâm lý liên hệ đã được thực hiện trước đây, cũng
như trên cơ sở kiến thức tổng quát của nhà tâm lý về lãnh vực khoa học của
mình.

Thí dụ, các nhà tâm
lý Bibb Latané và John Darley xúc động trước các thảm trạng điển hình của
trường hợp Erica Morris và Kitty Genovese đã xây dựng một lý thuyết căn cứ vào
một hiện tượng mà họ mệnh danh là khuếch tán trách nhiệm (diffusion of
responsibility). Theo lý thuyết này càng có nhiều người chứng kiến một biến cố
cần đến hành vi giúp đỡ thì cảm nghĩ tránh né trách nhiệm cứu giúp của tất cả
những người chứng kiến ấy càng mạnh. Như vậy, do cảm nghĩ tránh né trách nhiệm
này mà càng nhiều người có mặt tại hiện trường khẩn cấp thì mỗi người ở đó cảm
thấy mình càng ít trách nhiệm cá nhân – và xác suất một cá nhân đơn độc nào đó
ra tay cứu giúp càng thấp đi.

b/ Giả thuyết: Khéo
léo đề ra các dự đoán kiểm chứng được.

Mặc dù một lý
thuyết dễ hiểu như vậy, nhưng nó chỉ mới biểu thị giai đoạn khởi đầu trong tiến
trình nghiên cứu của Latané và Dasley mà thôi. Bước kế tiếp của họ là hoạch
định một đường lối để kiểm chứng xem liệu lập luận đưa ra có chính xác không.
Muốn vậy, họ cần đưa ra một giả thuyết. Giả thuyết (hypothesis) là một dự đoán
được phát biểu sao cho người ta có thể kiểm chứng nó trong thực tế. Giống như
khi xây dựng các lý thuyết khái quát riêng cho mình về ngoại giới, chúng ta
cũng đưa ra giả thuyết về sự tương quan giữa các biến cố với hành vi (từ những
sự việc tầm thường như tại sao vị giáo viên Anh ngữ của chúng ta lại có hành vi
lập dị như thế, cho đến những sự việc tế nhị như phương pháp nào giúp người ta
học tập hữu hiệu nhất). Mặc dù hiếm khi kiểm chứng các giả thuyết ấy một cách
có hệ thống, chúng ta quả cũng đã nỗ lực xác định xem chúng đúng hay sai. Chẳng
hạn, để kiểm chứng một phương pháp học tập chúng ta có thể thử hạn định giờ
giấc học tập trong một kỳ thi rồi kéo dài thời gian học tập trong một kỳ thi
khác. Qua đánh giá các thành quả, chúng ta đã xây dựng được một phương pháp so
sánh hai kế hoạch học tập ấy.

Giả thuyết của
Latané và Darley là một suy luận trực tiếp từ một lý thuyết tổng quát hơn của
họ về hiện tượng khuếch tán trách nhiệm: càng có nhiều người chứng kiến có mặt
tại hiện trường khẩn cấp thì nạn nhân càng ít cơ hội được cứu giúp hơn. Dĩ
nhiên, hai ông có thể chọn một giả thuyết khác (thí dụ, những người có tài năng
đặc biệt rơi vào tình huống khẩn cấp như thế sẽ không bị ảnh hưởng bởi sự hiện
diện của những kẻ khác), nhưng suy luận ban đầu của họ đường như nhằm giúp cho
lý thuyết được kiểm chứng trực tiếp.

Có một số lý do
khiến nhà tâm lý tin cậy vào các lý thuyết và giả thuyết được xây dựng đúng
theo yêu cầu khoa học. Một mặt, các lý tuyết và giả thuyết như vậy giúp họ nhìn
thấy các điều quan sát rời rạc và các mảnh vụn thông tin có một ý nghĩa nào đó
bằng cách đặt chúng vào một cơ cấu mạch lạc và cố kết. Ngoài ra chúng còn giúp
cho nhà tâm lý có dịp vượt ra ngoài các sự kiện đã được biết về thế giới chung
quanh để đưa ra được các kết luận về các hiện tượng đến nay chưa được lý giải.
Bằng cách này, các lý thuyết và giả thuyết hợp quy cách đem đến một kim chỉ nam
hợp lý để định hướng cuộc điều tra cần phải thực hiện trong tương lai.

Tóm lại, lý thuyết
và giả thuyết giúp nhà tâm lý nêu ra được các câu hỏi thích hợp. Nhưng làm thế
nào để giải đáp các câu hỏi ấy? Như chúng ta sẽ thấy, các giải đáp có được nhờ
cuộc nghiên cứu (research), là một điều tra thăm dò có hệ thống nhằm khám phá
các kiến thức mới mẻ.

2. Tìm giải đáp:
Nghiên cứu trong lãnh vực tâm lý

Giống như khi xây
dựng lý thuyết và giả thuyết để giải thích một hiện tượng đặc biệt nào đó,
chúng ta cũng có thể sử dụng rất nhiều biện pháp chọn lựa khác nhau để tiến
hành cuộc nghiên cứu. Nhưng dù sao, việc làm trước tiên là phải phát biểu lại
giả thuyết theo thủ tục gọi là toán tử hóa để cho giả thuyết ấy có thể kiểm
chứng được. Toán tử hóa (operationalization) là tiến trình diễn dịch một giả
thuyết thành các công thức cụ thể, kiểm chứng được bằng cách đo đạc và quan
sát. Để toán tử hóa một giả thuyết, người ta không bị buộc phải tuân thủ một
đường lối nhất định nào. Việc làm này tùy thuộc vào logic, vào thiết bị và
phương tiện sẵn có, vào mô hình nhận thức tâm lý được vận dụng, và sau cùng tùy
thuộc vào tài trí của nhà nghiên cứu.

Chúng ta sẽ khảo
sát một số công cụ chủ yếu được nhà tâm lý sử dụng trong nghiên cứu của mình.

a. Nghiên cứu
tài liệu lưu trữ (Archival Reseach).

Giả sử giống như
các nhà tâm lý Latané và Darley, bạn quan tâm tìm hiểu nhiều điều hơn nữa về
các tình huống khẩn cấp trong đó những người chứng kiến đã không chịu ra tay
cứu giúp nạn nhân. Một trong những địa chỉ đầu tiên mà bạn phải hướng đến có lẽ
là các tư liệu. Thí dụ, nhờ các bản tin tường thuật của báo chí bạn có thể tìm
được chứng cứ biện minh cho quan điểm chủ trương rằng sự giảm thiểu hành vi ra
tay cứu giúp nạn nhân đã đi đôi với sự gia tăng số người chứng kiến có mặt tại
hiện trường khẩn cấp.

Việc sử dụng các
bài báo là một thí dụ về biện pháp nghiên cứu tư liệu lưu trữ. Trong biện pháp
nghiên cứu tư liệu lưu trữ các hồ sơ và tư liệu có sẵn như các dữ kiện đều tra
dân số (census data). Các giấy khai sinh, hoặc các mẫu báo lưu trữ chẳng hạn,
được xem xét cẩn thận để xác minh một giả thuyết. Nghiên cứu tư liệu lưu trữ là
một biện pháp kiểm chứng giả thuyết tương đối ít tốn kém, bởi vì người khác đã
làm công việc thu thập dữ kiện căn bản cho bạn rồi. Dĩ nhiên, việc sử dụng các
dữ kiện sẵn có như thế có một vài nhược điểm. Một mặt, các dữ kiện có thể không
ở dạng cho phép nhà nghiên cứu kiểm chứng giả thuyết một cách toàn diện. Mặt
khác, thông tin ấy có thể chưa hoàn chỉnh, không đầy đủ, hoặc đã được thu thập
một cách tình cờ mà thôi.

Dù sao, trong hầu
hết mọi trường hợp thì biện pháp nghiên cứu tư liệu lưu trữ đều bị bế tắc do
một sự kiện đơn giản là các hồ sơ lưu trữ các thông tin cần thiết thường không
có sẵn. Gặp phải các trường hợp này, nhà nghiên cứu thường quay sang một phương
pháp nghiên cứu khác là quan sát theo phương pháp áp dụng trong khoa học tự
nhiên.

b. Phương pháp quan
sát áp dụng trong khoa học tự nhiên (Naturalistic Observation).

Theo phương pháp
này, nhà nghiên cứu chỉ việc quan sát một hành vi nào đó khi nó xảy ra một cách
ngẫu nhiên và không ra tay can thiệp vào diễn biến của tình huống. Thí dụ, nhà
nghiên cứu muốn tìm hiểu hành vi ra tay cứu giúp có thể tìm đến một khu vực có
mức độ phạm pháp cao trong thành phố để quan sát cách thức giúp đỡ mà các nạn
nhân trong các vụ phạm pháp nhận được. Điểm quan trọng cần ghi nhớ về phương
pháp quan sát này là nhà nghiên cứu phải có thái độ thụ động và chỉ đơn thuần
ghi nhận tỉ mỉ những gì đang xảy ra ở hiện trường mà thôi.

Mặc dù ưu điểm của
phương pháp quan sát này là hiển nhiên – chúng ta lấy một mẫu gồm những hành vi
mà con người thực hiện trong “bối cảnh sống tự nhiên” (natural habitat) – nhưng
cũng có một nhược điểm quan trọng: đó là không thể khống chế được bất cứ một
nhân tố quan trọng nào cả. Thí dụ, chúng ta có thể chỉ khám phá được quá ít trường
hợp trong đó hành vi cứu giúp xảy ra một cách tự nhiên, nên sẽ không thể rút ra
được bất kỳ một kết luận nào có tính thuyết phục. Bởi vì phương pháp quan sát
này ngăn cấm thực hiện các thay đổi cần thiết trong một tình huống đã xảy ra,
nên nhà nghiên cứu phải chờ đợi cho đến khi các điều kiện thích hợp xảy ra.
Tương tự, nếu người ta biết được mình bị theo dõi, có thể họ sẽ phản ứng khác
đi khiến cho hành vi của họ không tiêu biểu thực sự cho mẫu quan sát.

c. Nghiên cứu điều
tra (Survey Research)

Không một phương
pháp nào nhằm tìm hiểu xem con người tư duy, cảm nhận và hành động đều gì trực
tiếp bằng phương pháp đặt câu hỏi ngay với họ. Vì lý do này, các cuộc đều tra
được xem là phương pháp nghiên cứu quan trọng. Trong nghiên cứu điều tra
(survey research), một nhóm người được chọn tiêu biểu cho một dân số
(population) lớn hơn nhóm ấy được yêu cầu trả lời một loạt câu hỏi về hành vi
(behavior), ý nghĩ (thoughts), hoặc thái độ (attitudes) của chính họ. Các
phương pháp điều tra đã tiến bộ tinh vi đến mức thậm chí chỉ cần sử dụng một
mẫu rất nhỏ cũng đủ để suy luận khá chính xác về cách thức phản ứng của một
khối dân số lớn hơn mẫu (sample) rất nhiều. Thí dụ, chỉ cần chọn mẫu gồm vài
ngàn cử tri là đủ để dự đoán với sai số khoảng 0,01 hoặc 0,02% ai sẽ là người
thắng cuộc trong cuộc tranh cử Tổng thống – với điều kiện mẫu điều tra được
chọn thật cẩn thận.

Nhà nghiên cứu muốn
tìm hiểu hành vi ra tay cứu giúp có thể mở một cuộc điều tra để phỏng vấn những
người chứng kiến về lý do khiến họ không muốn ra tay cứu giúp một cá nhân khác.
Tương tự, các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu tập quán tình dục đã thực hiện
nhiều cuộc điều tra để tìm hiểu tập quán nào phổ biến và tập quán nào không phổ
biến, rồi vẽ biểu đồ diễn tả biến chuyển quan điểm luân lý về vấn đề tình dục
trong vài thập niên trước đây.

Tuy việc phỏng vấn
trực tiếp để tìm hiểu hành vi của đối tượng về một số mặt có vẻ là con đường
ngắn nhất, nhưng phương pháp nghiên cứu điều tra cũng có một vài nhược điểm.
Một mặt, các đối tượng có thể cung cấp thông tin thiếu chính xác vì trí nhớ
nhầm lẫn hoặc vì họ không muốn cho nhà nghiên cứu biết rõ quan điểm hay niềm
tin thực sự của họ về một vấn đề đặc biệt nào đó. Ngoài ra, đôi khi các đối
tượng đưa ra câu trả lời mà họ cho rằng nhà nghiên cứu muốn nghe – hoặc ngược
lại, đưa ra những câu trả lời mà họ cho nhà nghiên cứu không muốn phơi bày ra.

d. Nghiên cứu
trường hợp điển hình (Case study)

Khi bọn cưỡng hiếp
Erica Morris bị sa lưới pháp luật, nhiều người cảm thấy thắc mắc rằng do cá
tính hoặc hoàn cảnh giáo dục nào khiến cho bọn chúng có hành vi dã man như thế.
Để trả lời câu hỏi này, các nhà tâm lý có thể dùng phương pháp nghiên cứu
trường hợp điển hình. Ngược lại phương pháp nghiên cứu điều tra trong đó người
ta phải tìm hiểu nhiều người, nghiên cứu trường hợp điển hình (case study) là
phương pháp tìm hiểu sâu rộng một cá nhân hoặc một nhóm rất ít người. Theo
phương pháp này, nhà tâm lý thường phải thực hiện một trắc nghiệm tâm lý, trong
đó nhà tâm lý sử dụng một loạt câu hỏi được soạn thảo cẩn thận để tìm hiểu sâu
sắc cá tính của đối tượng nghiên cứu.

Khi sử dụng các
nghiên cứu điển hình, mục tiêu của nhà tâm lý không chỉ tìm hiểu về một vài đối
tượng nghiên cứu mà còn nhằm sử dụng các điều hiểu biết sâu sắc đạt được để
hiểu rõ hơn về con người nói chung. Tuy nhiên, phép loại suy (extrapolation)
như thế phải được thực hiện hết sức dè dặt. Thí dụ, mức độ tiêu biểu cho dân số
nói chung của bọn cưỡng hiếp trong vụ Erica Morris chắc chắn là vấn đề dễ gây
tranh cãi.

e. Nghiên cứu tương
quan (Correlational Research)

Khi sử dụng các
phương pháp nghiên cứu mà chúng ta vừa miêu tả, các nhà nghiên cứu thường muốn
xác định được mối tương quan giữa hai hành vi hoặc giữa các phản ứng đối với
hai câu hỏi nêu trong bảng lục vấn (a questionaire). Chẳng hạn, chúng ta muốn
tìm hiểu xem liệu những đối tượng khai rằng họ thường xuyên đi lễ nhà thờ có
hay giúp đỡ người lạ trong các tình huống khẩn cấp không. Nếu quả thực chúng ta
tìm được một mối tương quan như thế, chúng ta có thể nói rằng có sự kết hợp –
hoặc tương quan (correlation) – giữa hiện tượng đi lễ nhà thờ với hành vi cứu
giúp trong các trường hợp khẩn cấp.

Trong nghiên cứu
tương quan, mối tương quan giữa hai loại yếu tố được khảo sát để xác định xem
liệu chúng có kết hợp, hoặc có “tương quan” với nhau không? Cường độ tương quan
được biểu thị bởi một hệ số toán học có trị số trong khoảng xác định từ +1,0
đến –1,0. Hệ số có trị số dương hàm ý rằng khi trị số của một yếu tố tăng lên
chúng ta có thể dự đoán rằng trị số của yếu tố kia cũng tăng lên.

Thí dụ, nếu chúng
ta dự đoán rằng thời gian học tập càng nhiều thì điểm thi càng cao và thời gian
học tập càng ít thì điểm thì càng thấp, chúng kỳ vọng sẽ tìm được mối tương
quan có hệ số dương. (Trị số cao của yếu tố thời lượng học tập kết hợp với trị
số cao của yếu tố điểm thi, trị số thấp của thời lượng học tập kết hợp với trị
số thấp của điểm thi). Do đó, mối tương quan sẽ được biểu thị bằng một hệ số có
trị số dương, và sự kết hợp giữa thời lượng học tập và điểm thi càng chặt chẽ
thì hệ số ấy có trị số càng gần bằng + 1,0.

Ngược lại, mối
tương quan có hệ số âm cho thấy rằng khi trị số của một yếu tố tăng lên thì trị
số của yếu tố kia giảm đi. Thí dụ, chúng ta có thể dự đoán rằng khi thời lượng
học tập tăng lên thì thời lượng giải trí sẽ giảm đi. Khi đó, chúng ta kỳ vọng
một hệ số tương quan âm có trị số từ 0 đến –1: Học nhiều hơn sẽ khiến cho thời
lượng giải trí ít đi, và học ít đi sẽ khiến cho thời lượng giải trí tăng thêm.
Sự kết hợp giữa học tập và giải trí có cường độ càng mạnh thì hệ số tương quan
có trị số càng gần bằng –1.0.

Dĩ nhiên, rất có
thể giữa hai loại yếu tố không có mối liên hệ nào cả, do đó chúng ta nói chúng
không có tương quan. Chẳng hạn, có lẽ chúng ta không kỳ vọng tìm ra được mối
tương quan giữa thời lượng học tập và chiều cao của sinh viên. Trường hợp này
sẽ được biểu thị bằng hệ số tương quan có trị số gần bằng hoặc bằng zéro; bởi
vì chúng ta biết rằng thời lượng học tập không hề phản ảnh điều gì về chiều cao
của sinh viên cả.

Khi thấy rằng giữa
hai biến số (variables) có mối tương quan chặt chẽ với nhau, chúng ta thường
hay cho rằng yếu tố (biến số) này là nguyên nhân gây ra yếu tố (hay biến số)
kia. Thí dụ, khi thấy rằng thời lượng học tập càng nhiều có liên hệ với điểm
thi càng cao, chúng ta có khuynh hướng phỏng đoán rằng thời lượng học tập nhiều
hơn là nguyên nhân khiến cho điểm thi càng cao. Mặc dù không phải là một linh
cảm tệ hại (a bad hunch), nhưng nó vẫn chỉ là một phỏng đoán mà thôi – bởi vì
phát hiện rằng giữa hai yếu tố có mối tương quan không có nghĩa là có mối liên
hệ nhân quả (a causal relationship) giữa hai yếu tố ấy. Tương quan chặt chẽ hàm
ý rằng biết được thời lượng học tập có thể giúp chúng ta dự đoán sinh viên sẽ
thi cử hiệu quả ra sao, chứ không có ý nói rằng thời lượng học tập là nguyên
nhân của thành tích thi cử. Chẳng hạn, người thông minh hơn thường học hỏi được
nhiều hơn so với người kém thống minh; cho nên, chính trí thông minh mới là
nguyên nhân để đạt được thành tích thi cử, chứ không phải là thời lượng học
tập. Đơn giản là vì sự kiện hai yếu tố xảy ra song hành với nhau không có nghĩa
là phải kết luận yếu tố này là nguyên nhân gây ra yếu tố kia.

Điểm tối quan trọng
cần ghi nhớ là phương pháp nghiên cứu tương quan không thông báo cho chúng ta
đều gì về nguyên nhân (cause) và hậu quả (effect), thực ra nó chỉ cống hiến một
phương tiện đo lường cường độ liên hệ giữa hai loại yếu tố mà thôi. Chẳng hạn,
chúng ta có thể thấy rằng trẻ con xem nhiều chương trình TV có nội dung bạo lực
tương đối dễ có hành vi gây hấn (aggressive behavior), còn những trẻ em ít xem
các chương trình ấy lại tương đối ít biểu lộ loại hành vi này (xem Hình 1–3).
Chúng ta không thể nói rằng hành vi gây hấn có nguyên nhân ở việc xem TV, bởi
vì nguyên nhân của loại hành vi này rất có thể xuất phát từ một yếu tố nào
khác. Thí dụ, chúng ta có thể biết rằng những đứa trẻ có hoàn cảnh kinh tế xã
hội thấp kém mà lại xem nhiều chương trình TV có nội dung bạo lực thì sẽ dễ có
hành vi gây hấn hơn. Như vậy, các yếu tố liên quan đến hoàn cảnh kinh tế xã hội
của gia đình có thể là nguyên nhân thực sự khiến cho các đứa trẻ có hành vi gây
hấn. Thực ra, có thể có một số yếu tố hậu thuẫn cho cả hành vi gây hấn lẫn việc
xem TV. Thậm chí, có thể nói rằng những người dễ có hành vi gây hấn thích xem
các chương trình TV có nội dung bạo lực bởi vì họ là những người hiếu chiến.
Như vậy, rõ ràng rằng bất kỳ chuỗi sự kiện có liên hệ nhân quả nào cũng có thể
xảy ra – và không thể bị loại trừ bởi phương pháp nghiên cứu tương quan.

Sự bất lực của
phương pháp nghiên cứu tương quan trong việc giải đáp các câu hỏi có bản chất
liên hệ nhân quả chính là nhược điểm của phương pháp này vậy. Song le, có một
kỹ thuật khác thiết lập được mối liên hệ nhân quả, đó là phương pháp nghiên cứu
thực nghiệm.

Có thể là nguyên nhân

Có thể là hậu quả

1. Thích xem các chương trình TV có nội dung bạo lực

Người xem có hành vi gây hấn

2. Hoàn cảnh kinh tế xã hội

Thích xem các chương trình TV có nội dung bạo lực

Người xem dễ có hành vi gây hấn

3. Người hay có hành vi gây hấn

Thích xem các chương trình TV có nội dung bạo lực

Hình 1–3: Khi khám phá thấy sự kiện thường
xuyên xem các chương trình TV có nội dung bạo lực có liên hệ đến mức độ dễ có
hành vi gây hấn, chúng ta có thể nêu ra được một số nguyên nhân có vẻ hợp lý,
như trình bày ở hình này. Như vậy, các khám phá do phương pháp nghiên cứu tương
quan không giúp chúng ta quyết định được mối liên hệ nhân quả.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3