Hồi ký Phạm Duy (Quyển 1 - 2) - Quyển 1 - Chương 18 - Phần 1

Chương Mười Tám

Hải
Phòng thời xưa

Trong gần
hai tháng gánh Cải Lương ĐỨC HUY-CHARLOT MIỀU tập trung ở đây để tổ chức và ra
mắt khán giả, tôi được làm quen với thành phố cửa bể chính của Bắc Kì này.

Với hai
lần xuống Hải Phòng trước đây, một lần đi đón ông anh du học ở Pháp về, một lần
đáp Tàu thủy đi Moncay, tôi chỉ biết qua loa khung cảnh bến Tàu nhưng tôi đã
thích sự náo nhiệt của nơi có tiếng mời gọi giang hồ thật là quyến rũ. Thành đô
Hà Nội âm thầm với những hồ nước im lìm chỉ đủ kéo tôi về dĩ vãng, nó không mở
rộng cánh cửa cho tôi đi ra năm châu bốn bể được. Đứng ở bến Tàu Hải Phòng là
đã có cảm giác xuất ngoại rồi! Hà Nội cũng không phải là nơi quần cư nghĩa là
có nhiều giống người cư ngụ vĩnh viễn hay tạm thời. Ở Hải Phòng, sống bên cạnh
người Việt là những thương gia hay thủy thủ Pháp, Y Pha Nho, Anh Cát Lợi, Hòa Lan,
Xiêm La, Ấn Độ, Nhật Bản v.v... Người Tàu thì đông vô kể, họ bắt rễ vào Hải
Phòng đông hơn ở Hà Nội cũng như đã bắt rễ vào tất cả thành phố lớn trên thế giới.
Nếu lúc đó tôi chưa có cơ hội vượt biên và đi sống ở nhiều thủ đô hay hải cảng
trên thế giới như bây giờ thì những ngày Hải Phòng, đối với tôi, đã có nhiều vẻ
quốc tế rồi đó.

Muốn có
chút gì để kéo ta về quá khứ thì ta có thể tưởng tượng ra khung cảnh thương khẩu
lúc hãy còn mang tên Bến Ninh Hải, vẫn nằm trên ngã ba sông Tam Bạc và sông Cấm
này và vào đầu thế kỉ 19 được Triều Đình Huế giao việc tu bổ cho Quan Doanh Điền
Sứ, ông quan này có người Việt Nam đầu tiên xuất dương qua Mỹ là Bùi Viện giúp
sức. Trước đó, từ thế kỉ thứ 17, các Tàu buôn Hòa Lan, Anh, Nhật đã ra vào Bắc
Việt để buôn bán, thám hiểm hay truyền đạo nhưng họ lại đi vào nước ta bẵng cửa
sông Thái Bình để ngược lên sông Hồng rồi chọn Phố Hiến ở Hưng Yên làm thương
khẩu. Khi người Pháp tới và nhận thấy đi vào Bắc Việt bằng cửa sông Cấm, cách cửa
sông Thái Bình chừng mấy chục cây số ở phía Bắc và chọn Ninh Hải làm thương cảng
thì tiện lợi hơn. Từ đó Ninh Hải trở thành Hải Phòng và là cửa khẩu lớn nhất của
Bắc Việt.

Hải
Phòng náo nhiệt hơn tất cả các thị trấn lớn nhỏ mà tôi đã sống trước đây. Không
cứ gì bến Sáu Kho với tàu bè to lớn đậu san sát nhau và với hành khách lên xuống
tấp nập, khu buôn bán ở phía Bắc thành phố gần sông Tam Bạc là nơi tôi đang ở
cùng gánh hát cũng ồn ào không kém. Khu Phố Khách của người Tàu ở liền ngay đó
còn ầm ĩ hơn nữa. Vì tất cả hàng hóa xuất cảng đi nước ngoài hay nhập cảng vào
Việt Nam đều phải đi qua cửa khẩu này, Hải Phòng đứng đầu Bắc Việt về sự phồn
thịnh thương mại.

Hải
Phòng còn là một thành phố kĩ nghệ với nhiều nhà máy, nhiều công ty sản xuất và
lẽ tất nhiên với nhiều xưởng đóng tàu và sửa chữa thuyền bè. Có nhà máy xi măng,
nhà máy gạo, xưởng chế hóa đồ sành, đồ sứ, xưởng máy làm chai và các đồ thủy
tinh khác, xưởng đúc đồ gang, đồ sắt, đồ đồng, xưởng sản xuất than, xưởng thuộc
da. Có cả nhà máy sợi, nhà máy làm xà phòng.

Hải
Phòng đúng là một thành phố của công nhân. Đã từng làm việc trong xưởng thợ tại
Trường Kĩ Nghệ Hà Nội và Nhà Máy Điện Moncay, tôi rạo rực sống lại mảnh đời
công nhân của mình. Và tôi thấy yêu thành phố này quá, khi ngồi uống cốc cà phê
ở một quán nhỏ, lắng tai nghe tiếng còi tầm của công xưởng vào những buổi sớm
có nắng hồng. Hay khi ngồi ăn bữa cơm bình dân ở một hè đường trong chiều mưa, bên
cạnh những người dân không chỉ mặn mùi muối bể mà còn nồng mùi dầu mỡ bụi than.
Đôi khi cùng mấy anh em trong đoàn hát vào ăn tiệm thì thấy miếng ăn Hải Phòng
cũng ngon không thua miếng ăn Hà Nội. Trong các đồ hải vị ở đây, ngoài tôm ra, cá
song, cá thu Hải Phòng nổi tiếng là ngon.

Vì Hải
Phòng là nơi thịnh vượng về cả hai mặt sản xuất và thương mại nên đã thu hút
người tứ xứ tới. Người Nam Định, Hải Dương, Kiến An gần gũi tới Hải Phòng để
sinh nhai là chuyện thường. Người Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên xa xôi cũng
lần mò về kiếm ăn tại hải cảng. Tôi sống hả hê trong thành phố có đủ hạng người
ở các địa phương trong nước, có thêm các hạng người ở các vùng trời Âu Á, tất cả
những sắc dân này sống chung với nhau giống như sự pha trộn bẩy mầu của một chiếc
cầu vồng to lớn.

Tuy
nhiên, trong những ngày tôi lưu lại tại hải cảng này tôi thấy bộ mặt chiến
tranh đã phơi ra với hình ảnh những toán quân kị mã Nhật đi ngựa qua thành phố
hay những toán bộ binh Nhật cởi trần đóng khố vừa đi vừa hát những bản hùng ca.
Hải Phòng cũng đã nếm mùi bom Mỹ. Có những ngày, theo lệnh của chính quyền, tôi
cùng hàng ngàn gia đình kéo nhau đi tránh bom ở vùng ngoại ô, xâm xẩm tối mới
trở về thành phố, coi như tập dượt cảnh tản cư trong kháng chiến chống Pháp sau
này.

Nhật Bản
đã chiếm hoàn toàn vùng Đông Nam Á. Âm nhạc và điện ảnh ca tụng tinh thần chiến
đấu của con cháu Thái Dương Thần Nữ được phổ biến rộng rãi ở khắp nơi, từ Trung
Hoa qua Đông Dương, xuống Mã Lai và xuống cả vùng Nam Dương nữa. Lần thứ nhất
trong đời, tôi được nghe những bản nhạc hùng của Á Đông.

Thường
thường nhạc Á Đông là nhạc ấn tượng chỉ đem sự trầm ngâm tới cho người nghe. Nhạc
sĩ Pháp Debussy nổi danh vì có được sự trầm ngâm đó, khi ông chỉ dùng những
phím đen của đàn piano. Năm phím đen đó là thang âm ngũ cung của Á Đông. Lúc cả
Âu Châu đang bị nhạc của Wagner áp đảo, nhạc Debussy ra đời và được gọi là
musique impressioniste. Bây giờ tại Hải Phòng, nhạc hành ca mà toán quân Nhật Bản
vừa đi vừa hát trên đường phố, tuy vẫn là nhạc ngũ cung nhưng tôi thấy sao mà
hùng tráng đến thế! Các rạp chiếu bóng cũng chiếu nhiều phim Nhật xưng tụng chủ
nghĩa người hùng qua những phim hiệp sĩ đạo. Ngoài những phim truyện, tôi còn
được coi chiến công của Nhật Bản trong phim thời sự hoặc do hãng PATHÉ JOURNAL
thực hiện (với hình ảnh con gà trống gáy te te) hoặc do quân đội Nhật thực hiện
và chính quyền bảo hộ bắt chủ rạp phải chiếu.

Trong thời
gian tôi ở Hải Phòng, ngoài thú vui của một người thèm xuất ngoại được sống tại
một cửa bể suốt ngày nhìn ra trùng dương, ngoài háo hức của một thanh niên
thích xướng ca được sống trong một gánh hát rong đang chuẩn bị lên đường “viễn
xứ”... tôi còn có cái may gặp một người bạn mới. Người đó là Văn Cao.

Văn Cao
thời còn trẻ, ở Hải Phòng

Văn Cao
là tên thật, họ Nguyễn, ra đời sau tôi vài năm tại bến Bính, bên dòng sông Cấm.
Cha (hay anh ruột, tên là Tú) làm cai của nhà máy bơm nước ở bờ sông đó nên suốt
thời niên thiếu, anh sống trong nhà máy này. Học tiểu học tại trường Bonnal, trung
học ở trường Saint Joseph, Văn Cao đã có khiếu văn nghệ ngay từ khi còn đi học.
Ăn ở trong một căn nhà nhỏ có cái máy bơm rất lớn nằm chình ình giữa nhà suốt
ngày đêm hút nước từ dưới sông lên không lúc nào ngưng nghỉ, Văn Cao còn vất vả
hơn nữa là phải lấy một tấm phản kê lên máy bơm để làm bàn học. Sau này nhớ tới
giọng máy bơm nước, Văn Cao sẽ có câu thơ:

Anh muốn
giơ tay lên mặt trời

Để vui
da mình hồng hồng sắc máu

Mấy năm
một điệu sáo

Như giọng
máy nước thâu đêm chảy...

(Anh Có
Nghe Không, trong LÁ, tuyển tập thơ Văn Cao)

Thấp bé
hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều. Chắc chắn là đứng
đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng tôi thì
có cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ lâu, kết cục, cu cậu cũng theo
tôi mà xổ chữ nho. Nhưng Văn Cao bản tính lầm lì, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy
gò luôn luôn múa trước mặt người nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ,
có lần say thuốc ngã vào tay tôi. Về sau, anh còn nghiện rượu rất nặng.

Hình như
Văn Cao có đi học vẽ ở trường Cao Đẳng Mĩ thuật như tôi, nhưng chắc chắn anh đã
được họa sĩ Lưu Văn Sìn dắt vào hội họa. Văn Cao vẽ rất giỏi. Tôi giữ được bức
tranh tự họa của Văn Cao, tranh sơn dầu vẽ trên bìa cứng cho tới ngày Pháp đánh
Saigon vào năm 1945 thì mất, tiếc quá! Văn Cao làm thơ cũng rất hay. Vào năm
1941 mà anh đã có những câu thơ nghe như thơ Huy Cận:

Sông chầm chậm chảy trong mưa

Nghe chừng cô gái đã thưa nhát chèo

Mưa trong trăng tiếng nhỏ đều

Bến mờ mịt: mấy mái lều bơ vơ...

(Đêm Mưa)

Chưa gặp Văn Cao nhưng tôi đã biết
tài soạn nhạc qua mấy bài nhạc hùng của anh rồi. Khi tới Hải Phòng, sau khi gặp
Hoàng Quý tôi tìm đến Văn Cao. Cũng như tất cả thanh niên mỏ trắng (blanc bec)
thời đó, Văn Cao đang thất nghiệp sau một tháng làm việc tại Nhà Bưu Điện. Thanh
niên thất nghiệp Hưng Yên gặp nhau là nói chuyện ca hát thì thanh niên thất
nghiệp Hải Phòng cũng vậy. Văn Cao cũng có một số bạn bè để chơi trò âm nhạc. Gặp
tôi đang lập cuộc đời mới trong một gánh hát thì kết thân ngay. Lúc đó, tôi đã
tập toẹ đánh đàn với các nhạc sĩ trong ban nhạc Tây của gánh Đức Huy. Văn Cao lại
chơi với tôi và thấy mọi người trong đoàn đang tập dượt thì bị cám dỗ ngay. Tuy
có giọng hát khá hay nhưng chưa được dùng đến trên sân khấu của gánh hát, tôi
cũng đã biết xử dụng cây đàn guitare để hát những bài như Bản Đàn Xuân của Lê
Thương, Con Thuyền Không Bến của Đặng Thế Phong. Nhất là hát bản ruột của mình
là Cô Hái Mơ. Và tôi đã hát cho Văn Cao nghe. Nghe xong, Văn Cao vội vàng đưa
cho tôi dăm ba bài anh ta mới làm xong. Lúc đó bên cạnh hai đứa chúng tôi còn
có Đỗ Hữu Ích, con ông chủ bán đồ sắt phố Hàng Đồng, soạn lời ca rất hay. Đa số
những bản đầu tay của Văn Cao đều đã được Đỗ Hữu Ích giúp đỡ trong phần lời ca.
Dần dà tôi biết hơn về Văn Cao và Đỗ Hữu Ích.

Vào năm 1944 này, Tân Nhạc Việt Nam
đã qua giai đoạn chuẩn bị với những bài ta theo điệu tây và bước vào giai đoạn
thành hình với hai loại nhạc tình và nhạc hùng. Nhạc hùng đã được hai nhóm là Tổng
Hội Sinh Viên ở Hà Nội và ĐỒNG VỌNG ở Hải Phòng làm cho khởi sắc với những bản
hùng ca của hai người cầm đầu hai nhóm là Lưu Hữu Phước và Hoàng Quý. Trước đó,
đã có những bài hát hướng đạo cũng như những bài lịch sử ca soạn ra để cổ vũ
lòng yêu nước của thanh niên (cho nên được gọi là thanh niên-lịch sử ca) như:

Vui ca lên nào anh em ơi!

Hát cho đời thắm tươi...

(Linh Mục Thích)

Anh hùng xưa nhớ hồi là hồi niên thiếu

Dấy binh lấy lau làm cờ...

(Lưu Quang Vũ)

Bây giờ hai nhóm Tổng Hội Sinh Viên
và ĐỒNG VỌNG tung ra những bài như Vui Xuân, Bạn Đường, Bạch Đằng Giang của Lưu
Hữu Phước, Đêm Trong Rừng, Bóng Cờ Lau, Nước Non Lam Sơn của Hoàng Quý. Đều là
những bài hát hay nhưng chỉ hay một cách bình thường.

Văn Cao đóng góp vào loại nhạc hùng
này với những bài như Vui Lên Đường, Gió Núi, Anh Em Khá Cầm Tay, Đống Đa, Thăng
Long Hành Khúc... Theo tôi, những hướng đạo ca và thanh niên-lịch sử ca của Văn
Cao có nhiều “souffle” (hơi thở) hơn trong câu nhạc và có nhiều tính thơ hơn
trong lời ca. Trong những bài ca hướng đạo Anh Em Khá Cầm Tay, Gió Núi ta đã thấy
manh nha những phóng bút tuyệt vời của Chiến Sĩ Việt Nam, Bắc Sơn hay Thiên
Thai, Trương Chi sau này:

Anh em khá cầm tay

Mau đến cùng nhau hát nhé

Nơi đây chúng mình ca

Trong gió hòa êm êm.

Bao nhiêu gió về đây

Chim chóc về đây hót nhé

A vui sướng làm sao

Ta ngó trời xanh êm...

(ANH EM KHÁ CẦM TAY)

Gió núi
qua mái lều vi vu

Vừng
trăng xế lu

Phía
cách xa núi mờ ánh trăng

Lời ca
hát rằng:

Cùng ngồi
lại đây ta chờ hơi gió

Thoáng
qua mái lều

Là tiếng
hát phất phơ từ đâu?

...

Ngàn đời
về xưa muôn quân thương tiếc

Bao
nhiêu thây chết nơi đây

Ngàn đời
về sau nấu nung máu hờn...

(GIÓ
NÚI)

Về phần
nhạc hùng thì bài Đống Đa với câu ca: Tiến quân hành khúc ca, thét vang rừng
núi xa... nó phải dẫn tới bài Tiến Quân Ca của Cách Mạng Tháng Tám. Còn bài
Thăng Long Hành Khúc à? Tôi yêu nó vô cùng. Bài này có đoạn kết tiếc thay được
ít người hát tới, với lời ca như những lời tiên tri của con người hơn tôi rất
nhiều ở chỗ được suốt đời sống với Thăng Long:

Cùng ngước
mắt về phương Thăng Long thành cao đứng

Không cứ
bây giờ chúng ta tìm đi

Người đời
này qua

Dặm đường
dù vắng

Khắp nơi
rồn theo đời vui tươi chờ ta!

Chúng
ta! Muôn ngàn năm yêu sống dưới khói mây

Trên
thành đô xứ Bắc ấy

Chiều
vàng dần sắp tắt

Chờ đợi
một đêm qua

Nắng mai
hồng lên đàn chim vang lời ca...

Ủa! Vào
năm 43-44 mà Văn Cao đã tiên tri ngày thành đô xứ Bắc, chiều vàng sắp tắt à? Tắt
cho tới nay... Nắng mai hồng nào sẽ lên? Từ đâu tới?

Bây giờ
nói tới nhạc tình. Vào đầu thập niên 40, nhạc tình ở Hà Nội nằm trong tay nhóm
MYOSOTIS (Hoa Lưu Ly) với những bài như Thuyền Mơ, Khúc Yêu Đương, Hồ Xưa... của
Thẩm Oánh, Tâm Hồn Anh Tìm Em của Dương Thiệu Tước và trong tay nhóm TRICÉA với
những bài như Đóa Hồng Nhung, Bóng Ai Qua Thềm của Văn Chung, Bẽ Bàng của Lê
Yên, Cô Lái Thuyền, Biệt Li của Dzoãn Mẫn. Nhạc tình đang phổ biến dữ dội lúc
đó cũng còn là của một người Nam Định, Đặng Thế Phong với ba bài hát mùa Thu:
Đêm Thu, Con Thuyền Không Bến và Giọt Mưa Thu...

Ở Hải
Phòng, nhạc tình là địa hạt của Lê Thương với những bài đầu tay rất hay như Bản
Đàn Xuân, Một Ngày Xanh - hay Bên Bờ Đà Giang, Nàng Hà Tiên... Nhất là với bài
Thu Trên Đảo Kinh Châu soạn trên âm giai Nhật Bản và đang rất thịnh hành (đến độ
đi vào nhạc mục của Hát Quan Họ ở Bắc Ninh).

Trong một
không khí nhạc tình lãng mạn toàn nói về mùa Thu như vậy, chàng tuổi trẻ Văn
Cao cũng soạn ra những bài hát mùa Thu như Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu... nhưng
chưa bao giờ anh ta có cơ hội để phổ biến. Tôi sẽ là người đầu tiên đem nhạc của
Văn Cao đi - nói theo lời Văn Cao đề tựa trong một bài hát - gieo buồn khắp chốn.
Danh từ người du ca đầu tiên cũng do chính Văn Cao đã gán cho tôi với một sự
thèm sống cuộc đời xướng ca vô loài như tôi lắm lắm!

Khác với
những bài hát tình thu bị ảnh hưởng thơ văn lãng mạn Pháp của các nhạc sĩ khác,
bài Thu Cô Liêu của Văn Cao có cái buồn của Đông Phương. Lời ca nghe như một
câu thơ Đường:

Thu cô liêu
tịch liêu, cô thôn chiều

Ta yêu
thu, yêu Thu, yêu Mùa Thu!

Vàng
hoen đáy nước soi rõ đường đi

Một mùa
Thi! Một mùa Thi!

Lá rơi, rơi
rụng, buồn chi lá vàng

Trăng ấp
lạnh non, sương cứng lá

Đã từng
nghe gió biết Thu sang.

Vàng theo cánh gió lấp bay tìm em

Một chiều êm! Một chiều êm!

Nhạc điệu của bài này theo nhạc chủ
thể Tây Phương (musique tonale) với những “áp-âm” hay “cảm âm” (notes
sensibles) làm cho nét nhạc có nhiều cảm tính. Giai điệu trải ra trên một âm vực
rất rộng nên hơi khó hát. Trái lại, bài Buồn Tàn Thu dùng ngũ cung Việt Nam với
nét nhạc giản dị hơn cho nên dễ đi vào dân chúng. Tôi sẽ làm nên cuộc đời du ca
của tôi với bài hát nói về người thiếu phụ đan áo chờ chồng này:

Ai lướt đi ngoài sương gió?

Không dừng chân đến, em bẽ bàng!

Ôi vừa thoáng nghe

Em mơ ngày bước chân chàng

Từ từ xa tìm đến.

Đêm mùa Thu chết

Nghe mùa đang rớt

Rơi theo lá vàng.

Em ngồi đan áo

Lòng buồn vương vấn

Em thương nhớ chàng...

Ngay từ lúc này, Văn Cao đã nói tới
mùa Thu chết. May cho anh ta, lúc đó chưa có Mùa Thu Cách Mạng nên chưa bị vu
cáo là rủa Cách Mạng. Như tôi đã bị lên án với bài Mùa Thu Chết, phổ thơ
Apollinaire vào năm 1970. Soạn ra bài này chỉ vì tôi đang thất tình (sic) chứ
lúc đó tôi đâu có thèm để ý tới Cách Mạng, Cách Miếc gì nữa. Để mà nguyền rủa.

Nhưng vào lúc tôi gặp Văn Cao ở Hải
Phòng, tôi thích bài Cung Đàn Xưa nhất. Văn Cao soạn bài này thì không nói tới
mùa Thu mà nói tới mùa Xuân nhưng lại là một mùa Xuân đã tàn, đã chết như mùa
Thu. Tuy là một bài hát ngắn, nhưng Văn Cao cũng chia ra bốn đoản khúc rõ ràng.
Đoạn đầu nói tới cung đàn năm xưa:

Hồn cầm phong hương

Hình bóng Xuân tàn

Ngày dần buông trôi

Sầu vắng cung đàn.

Lời đàn năm xưa

Xe kết đôi lòng

Lời đàn năm nay

Chia rẽ đôi lòng...

Đoạn hai nói tới cung Thương, cung
Nam mà Lê Thương, Phạm Duy cũng đều nói tới qua những bài Bản Đàn Xuân, Khối
Tình Trương Chi:

Cung Thương là tiếng đàn

Cung Nam là tiếng người

Ai oán khúc ca cầm chìm rơi

Tình duyên lãng đãng

Nhớ thương dần pha phôi...

Đoạn ba chuyển qua một nhịp điệu khác,
nói tới sự buồn rầu trong cung đàn xưa:

Cung đàn ngân

Buồn xa vắng trong tiếng thầm

Buồn như lúc Xuân sắp tàn

Ôi đàn xưa

Còn vang nhắc chi đến người

Lòng ta tắt bao thắm tươi

U hoài duyên đưa...

Thì ra tất cả ba đoạn nói tới một
cung đàn xưa đó chỉ muốn nhắc tới một người mà Văn Cao diễn tả một cách tuyệt mĩ,
một người tình tưởng tượng có đôi mắt giữ lại mùa Xuân, có đôi chân đi tới đâu
hoa nở tới đó, có thân hình thơm hương, có tiếng nói khơi dậy thương yêu... khiến
cho hiện thân của anh Trương Chi là Văn Cao đó, bây giờ đã phải cất lên tiếng
đàn giao hoan và dệt nên không biết bao nhiêu là mộng mị:

Chiều năm xưa

Gót hài khai hoa

Mắt huyền lưu Xuân

Dáng hồng thơm hương.

Chiều năm nay

Tiếng người khơi thương

Tiếng đàn giao hoan

Giấc mộng chàng Trương...

Tôi muốn nói nhiều tới hai bài hát
Thu Cô Liêu, Cung Đàn Xưa này hơn là nói tới bài Buồn Tàn Thu mà ai cũng biết
là vì, đáng tiếc thay, rất ít người biết tới những bản nhạc tình đầu tay của
Văn Cao, trong đó ta đã thấy manh nha những hình ảnh, những ý tình, những cái đẹp
mà Văn Cao sẽ phát triển tột độ trong hai bài ca bất hủ là Thiên Thai và Trương
Chi... Những cô hái mơ, cô bán hoa, cô hàng nước, cô lái đò, cô láng giềng mà
ta thấy xuất hiện trong các bản nhạc tình thuở đó, làm sao mà có được những gót
hài khai hoa, mắt huyền lưu Xuân, dáng hồng thơm hương... như trong bản Cung
Đàn Xưa của Văn Cao? Chỉ cần mười hai chữ và dù chỉ để xưng tụng một người tình
tưởng tượng mà thôi, Văn Cao đã đưa nhạc tình 1943-44 vượt khỏi những khuôn sáo
cũ mèm. Sau này, để xưng tụng một người tình có thực và cũng là một cách xưng tụng
Văn Cao, tôi có hát trong bài Đường Em Đi:

Đường em có đi

Hằng đêm bước qua

Nở những đóa hoa ôi dị kì.

Đường êm có khi

Chờ em bước qua

Là nghiêng giấc mơ ước thề...

Từ Thu Cô Liêu, Cung Đàn Xưa của lúc
đó tới Suối Mơ, Bến Xuân sau này (và với cả bài Chiến Sĩ Hải Quân nữa) Đỗ Hữu
Ích đã đóng góp rất nhiều vào phần soạn lời ca.

Đỗ Hữu Ích có một cô em gái rất đẹp
tên là Yến mà chắc chắn Văn Cao phải mê. Như tôi đã mê. Trong một buổi cả nhà
đi lánh bom máy bay Mỹ ở ngoại ô, tôi đã leo vào nhà Đỗ Hữu Ích để ăn cắp tấm ảnh
và cái áo lót của cô em gái. Đem tấm ảnh vào tới Saigon, Cà Mau rồi đem ra Hà Nội.
Nếu không lâm vào cảnh phải chạy giặc tối thiểu cũng là bốn lần thì chắc chắn tấm
ảnh này chưa bị thất lạc.

Khi kết bạn với Văn Cao ở Hải Phòng
vào năm 1944, tôi đã có nhiều kinh nghiệm về tình rồi nhưng tôi thấy Văn Cao
lúc đó rất cô độc, không có một thứ nhân tình, nhân ngãi nào cả! Tôi không tỏ
tình với Yến bởi vì tôi đang có người tình là cô đào chính trong gánh hát. Văn
Cao không dám tỏ tình với Yến chắc chắn vì tính nhát gái. Văn Cao lúc còn trẻ
là người chừng mực. Ít khi anh chàng chịu theo tôi trong những cuộc chơi. Tôi
ngờ rằng những bản nhạc tình đầu tiên của Văn Cao soạn ra là mối tình câm lặng
đối với Đỗ Thị Yến.

Trong lúc ngồi nhớ lại một thời sống
với Văn Cao ở Hải Phòng vào đầu năm 44, tôi không muốn đóng khung niềm nhớ bạn
vào một thời điểm quá ngắn ngủi này. Bởi vì trong những tập HỒI KÍ tôi sắp viết,
tôi sẽ chỉ nhắc tới Văn Cao với loại nhạc Cách Mạng Kháng Chiến của anh mà thôi,
tôi muốn viết ngay ra đây những ý nghĩ của tôi về nhạc tình của Văn Cao ngay
sau khi chúng tôi xa nhau rồi gặp lại nhau tại Hà Nội vào năm 1946.

Nếu đem so sánh với những bản nhạc
tình của năm mươi năm Tân Nhạc thì những bài Suối Mơ, Bến Xuân là cực điểm của
lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam. Sẽ không bao giờ có những bài ca lãng mạn
như thế nữa! Sẽ có nhạc tình cảm tính, nhạc tình não tính, nhạc tình nhục tính
và ảo tính nhưng không thể có thêm những bài nhạc tình lãng mạn nào hay hơn nhạc
Văn Cao. Không ai có thể mô tả cái đẹp của con suối trong rừng Thu như thế này
nữa:

Suối mơ!

Bên rừng Thu vắng

Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng.

Ngày chưa đi sao gió vương?

Bờ xanh ngắt bóng đôi cây thùy dương...

Hoặc ca tụng người tình nơi Bến Xuân:

Tới đây chân bước cùng ngập ngừng

Mắt em như dáng thuyền soi nước.

...

Tới đây mây núi đồi trập trùng

Liễu dương hơ tóc vàng trong nắng...

Trong cả hai bài nhạc tình về mùa Thu
và mùa Xuân này, bao giờ nét nhạc mineure mở đầu cũng rất lâng lâng rồi cũng sẽ
chuyển qua một nét nhạc majeure ngắn để diễn tả một niềm vui thoáng qua. Hình ảnh
người tình trong cả hai bài hát này đều rất là lộng lẫy, cao sang. Tình cảm của
cả hai bài nhạc tình đều không dìm con người vào cõi u tối, trái lại làm cho
người nghe thấy nguôi ngoai, sảng khoái. Con suối trong rừng Thu buồn muôn thuở
là vì còn lưu luyến hương vị tình yêu chúng ta:

Suối ơi!

Nghe rừng heo hút.

Dòng êm đưa lá khô già trút

Còn như lưu hương yêu dấu

Với suối xưa trôi nơi đâu...

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3