Hồi ký Phạm Duy (Quyển 1 - 2) - Quyển 1 - Chương 12
Chương
Mười Hai
Ngã Năm vào các Phố Hàng Gai, Hàng
Đào thời xưa...
Học chưa hết một niên khóa, tôi bị đuổi
ra khỏi trường Kĩ Nghệ Thực Hành vì tôi phạm kỉ luật hơi nhiều: đánh nhau, bị cấm
túc mà trốn ra khỏi trường. Tội nặng nhất là có một hôm, phạm một lỗi lầm nào đó
nhưng không chịu được cái bợp tai của Besancon, tôi chửi nhau với xếp xưởng! Lại
còn giơ búa định đánh nó nữa. Tôi bị đuổi ra khỏi trường ngay lập tức. Sợ ông
anh quá, tôi không dám về nhà, đáp xe hàng về Trạm Chôi ở với gia đình vú...
... Sau vài ba tuần trốn mặt ông anh,
tôi lò mò về nhà và bị đuổi ngay xuống garage ở. Thế là sau khi đã bị coi như đứa
bé rắn đầu ương ngạnh, với sự bị đuổi ra khỏi trường Kĩ Nghệ, tôi trở thành mục
tiêu của sự dè bỉu nơi hai người anh ruột và anh rể. Một buổi tối nào đó, trong
bữa cơm, không nhớ một trong hai người anh nói một điều gì quá đáng, tôi đập cửa
ra đi. Đúng như lời mỉa mai của người anh rể, thường cho tôi là một kẻ
sansfoutiste, tôi “đếch” cần tới sự vồn vã thương yêu hay sự che chở nâng đỡ của
người lớn nữa rồi.
Tới ở chung với một gia đình quen rồi
sau vài tuần lễ, tôi xin được việc làm ở hiệu sửa radio Nguyễn Đình Thụ tại phố
Hàng Gai. Trước đây, dù mới ngoài mười sáu tuổi, tôi cũng có đôi chút kiến thức
về radio và đã tự tay lắp được một máy radio nhỏ nghe bằng galène rồi, do đó
tôi rất thích thú trong công việc mới mẻ này. Các máy radio của thời điện tử sơ
khai còn dùng các bóng đèn và những mạch dẫn điện theo kiểu hétérodyne. Nếu so
sánh với những chips điện tử bây giờ thì có thể nói rằng tôi đã đi vào điện tử
ngay từ thời kì hồng hoang của nó. Làm thợ phụ, lương lậu không nhiều nhưng tôi
rất vui vì kiếm ra những đồng lương đầu tiên trong đời mình.
Hiệu sửa radio Nguyễn Đình Thụ ở ngay
đầu Hàng Gai, tôi có dịp chứng kiến lối sống của lớp trẻ Hà Nội vào cuối thập
niên 30 này. Hà Nội có nhiều nơi rất vui nhưng khu vực ngã tư của các phố Hàng
Gai, Hàng Đào, Cầu Gỗ, Bờ Hồ mới là đích thực là nơi để nam thanh nữ tú đi lượn
phố. Các cô thì đi xé vải (mua đồ) hay đi rửa mắt (window shopping). Các cậu
thì phần nhiều chỉ đi nhìn gái đẹp.
Ngay từ khi còn bé, tôi đã quen thuộc
với hai phố Hàng Gai và phố Hàng Đường. Tôi thường tới nhà cậu Trưởng, em ruột
của mẹ tôi ở phố Hàng Gai để nằm trong lòng cậu, tẩn mẩn nghịch những cái tượng
nhỏ - tượng thú vật - đặt trên khay bàn đèn thuốc phiện của cậu.
Gia Đình Bác Hai ở phố Hàng Đường thì
có tới ba hay bốn cửa hàng nằm chen chúc với các cửa hàng khác trên con đường
thương mại sầm uất nhất Hà Nội. Đi từ phố Hàng Đào qua Hàng Ngang, Hàng Đường
lên tới Chợ Đồng Xuân, tôi cứ bị thu hút bởi những bảng hiệu mang hình thù con
hươu, con voi, con bò, con ngựa. Có cả hình con tê giác và con lạc đà nữa. Đa số
là cửa hàng bán vải. Người Ấn Độ chiếm một số lớn cửa hàng bán vải ngoại quốc
như vải của Pháp và Anh Cát Lợi. Một trong các cửa hàng của gia đình bác tôi
cũng bán vải, ngoài những đồ nội hóa tốt như lụa Hà Đông, the La Cả, đũi Vân Xa,
lãnh Bưởi, còn bán cả gấm Thượng Hải nữa.
Tại phố Hàng Gai vào năm 1938 đó, cậu
thanh niên sửa radio mười bảy tuổi này, trong giờ nghỉ hay trong ngày nghỉ, rất
thích đi lượn trong các phố chung quanh, phố nào cũng nối vào Ngã Tư Bờ Hồ, không
phải để bị mê hoặc bởi những con vật gần với tuổi thơ mà bởi các thiếu nữ ngồi
trong các quầy hàng. Lúc đó tôi chỉ âm thầm đi chơi một mình vì chưa có đủ tiền
để sắm đồ ăn diện đúng mốt đi lượn phố.
Lượn phố Hàng Đào là để đi qua cửa
hàng bán tơ lụa Đàm Nguyên Sinh, nhìn cô con gái của chủ tiệm, có đôi mắt trầm
mặc như hồ thu. Lượn phố Hàng Bông là để ngắm con gái nhà Mỹ Ký, cha mẹ bán đồ
vàng giả, nhưng trên thân hình của cô không có cái gì là giả tạo cả! Cũng ở
Hàng Bông này, chúng tôi chiêm ngưỡng bốn mĩ nữ nổi danh của Hà Nội lúc bấy giờ
là Kiều Dinh, Kiều Vinh, Kiều Hinh và Kiều Hương. Bốn tiểu thư này là những con
gái của một ông dân biểu thành phố, đồng thời cũng là trưởng ty của một R.O. (Régie
Opium), người nào cũng đẹp một cách rất lộng lẫy. Trong bốn cô, hai cô sau này
trở thành những nghệ sĩ ngâm thơ rất hay và mang những cái tên cũng rất đẹp là
Giáng Kiều, Giáng Hương.
Đi lượn phố, thanh niên Hà Nội phải đội
mũ lệch mới là oai. Mũ phải là mũ Fléchet, Mossant mua tại hiệu Trần Văn Sửu. Đa
số đã vận âu phục và kiểu áo vai long đình làm cho chúng tôi có vẻ vai to ngực
nở trong khi thân hình có khi chỉ là bụng ỏng đít teo mà thôi! Đi giầy hiệu
Bata ngoại quốc hay giầy nội hóa hiệu Vạn Toàn nhưng phải là giầy đơ cu lơ
(deux couleurs = hai mầu) mũi vuông, mũi mỏ vịt hay mũi nhọn. Có anh còn văn
minh đến độ mặc cả kiểu quần golf, tay cầm ba-toong đi trên hè phố nữa.
Người ta đã hết gán danh từ vui vẻ trẻ
trung cho đám thanh niên này rồi. Bây giờ họ được gọi là công tử bột, có lẽ
trong họ có anh cũng đánh phấn như đàn bà. Đám này còn muốn được gọi thêm là
Công Tử Càn Long vì bị ảnh hưởng truyện Càn Long Du Giang Nam của Tàu, nghĩa là
thứ công tử càn quấy, anh hùng. Và khi các công tử Càn Long này tán gái hay viết
thư tình thì đều gọi các cô là “ái nương”. Rồi cũng giống như cha mẹ mình, nếu
có bắt nhân tình được với ai thì đố công tử nào dám nắm tay cô gái đi ngoài phố.
Các cô gái Hà Nội lúc bấy giờ đã
thích mặc áo LEMUR hở cổ. Tóc có đường ngôi rẽ nghiêng hay đã được uốn quăn. Tuy
nhiên, thiếu nữ Hà Nội “chậm tiến” hơn thanh niên trong phạm vi cải cách y phục.
Đa số các cô vẫn còn ăn vận theo lối xưa, nghĩa là vẫn giữ được cái đẹp nề nếp,
không lố lăng như con trai. Vào mùa lạnh, các cô mặc áo nhung trên đầu phủ cái
khăn rua đen, trông mặn mà như các madonna của tranh cổ điển Ý Đại Lợi.
Lúc này có một thiếu nữ tên là Hồ Thị
Mịch mới khoảng mười sáu tuổi, đạp xe đạp từ Saigon ra Hà Nội. Ai cũng phục cô
con gái nhỏ tuổi mà có can đảm dùng xe đạp để vượt hai ngàn cây số trên con đường
cái quan có những cái đèo cao vút như Đèo Ngang, Đèo Cả… Ít người biết được rằng
có một hãng Việt-Hoa làm nghề nhập cảng xe đạp ở Saigon đã thuê cô Mịch làm
chuyện “phiêu lưu” này, coi như để quảng cáo cho một vụ buôn bán nhiều hơn là để
cổ võ tinh thần thể thao trong nữ giới. Trên con đường thuộc địa số một, cô Mịch
ngồi trên xe ô tô nhiều hơn là đạp xe đạp. Chỉ khi gần tới một tỉnh lị cô mới
xuống xe hơi để làm “nữ anh hùng xe máy”, phóng xe như bay qua đám người được tập
trung hai bên đường đón tiếp cô.
Thanh niên thời nào có tiếng lóng của
thời đó. Ngôn ngữ của thanh niên hồi cuối thập niên 30 cũng khá ngộ nghĩnh.
* Chê bai thằng bạn làm những chuyện
thối thì chúng tôi bảo: Mày lọ lắm! Danh từ “lọ” xuất xứ từ giai thoại này: Ông
vua đùa nghịch của Việt Nam là Trạng Quỳnh phê bình ai đó bằng hai chữ “đại
phong”. Giải thích ra thì biết: “đại phong” là gió lớn, “gió lớn” thì đổ chùa, “đổ
chùa” thì tượng lo, “tượng lo” nói lái là... “lọ tương”. Nghĩa là thằng đó thối
như cái lọ đựng tương để lâu ngày! Danh từ “lọ” dần dần trở thành “lựa” và cũng
mang ý nghĩa “không thơm và không đẹp”.
* Chim gái thì có chữ “điểu” lấy ra từ
chữ nho.
* Khen người đẹp trai sang trọng, có
danh từ “bô” = beau, và “kẻng” = american, áp dụng cả tiếng Pháp lẫn tiếng Mỹ.
* Đi mua ái tình thì có khẩu hiệu “đỉnh
đi em”. Giấy bạc 5 đồng Đông Dương có hình con công thì giấy 100 đồng có hình
cái đỉnh. “Đỉnh đi em” nghĩa là: Em mà “đi” với anh thì anh tặng 100$ (chỉ con
nhà giầu mới trả nổi...)
* Không hiểu vì sao cái “của quý” của
phụ nữ lại được gọi là “đĩa”?
Thời đó, tên nghệ sĩ cũng bị chọc ghẹo:
Thi sĩ Xuân Diệu vốn là công chức Nhà Đoan nên được gọi là Xuân Rượu Lậu. Kịch
tác gia Đoàn Phú Tứ không thành công trên sân khấu được gọi là Đoàn Foutue, nghĩa
là hỏng béng.
Đoàn Phú Tứ, lúc trẻ...
... Đào hát Phùng Há nổi danh được gọi
là Phùng Mồm Há Miệng, so với Hít Le là hít cái le (tục quá nhỉ?)
Dưới thời Pháp thuộc, việc hội họp
đông đảo giữa người Việt là điều bị cấm đoán vì thực dân cho rằng gặp nhau như
vậy là để làm “hội kín” hay để biểu tình chống Pháp. Muốn gặp nhau, người ta
tìm đến những hội hè. Cuối thập niên 30, tại Hà Nội và Hải Phòng có phong trào
đi trẩy hội. Có ba nơi để thu hút chúng tôi: hội Chùa Hương, hội Đền Hùng và hội
Đền Vạn Kiếp. Nếu chỉ có mục đích đi ngắm cảnh thì kéo nhau đi trẩy hội chùa
Hương. Một bài thơ của Nguyễn Nhược Pháp do Trần Văn Khê phổ nhạc nói lên được
tất cả cái đẹp của việc đi chơi chùa Hương:
Hôm nay đi Chùa Hương
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy
Em vấn đầu soi gương
Khăn nhỏ đuôi gà cao
Em đeo dải yếm đào
Quần lĩnh áo the mới
Tay cầm nón quai thao...
Tỏ lòng yêu nước thì đi trẩy hội Đền
Hùng. Hội Hướng Đạo đứng ra để tổ chức việc đi thăm viếng nơi thờ phụng các bậc
tiên tổ của dòng giống Việt Nam. Các nhạc sĩ mầm non như Thẩm Oánh, Hoàng Quý
và Lê Thương đã có những ca khúc về việc đi thăm đền tổ:
Bốn nghìn năm văn hiến
Nước Nam oai hùng
Là nhờ công đức Hùng Vương...
(Thẩm Oánh)
Và nếu muốn thỏa lòng mê tín thì rủ
nhau đi trẩy hội Đền Vạn Kiếp để coi cảnh các ông đồng, bà cốt, trên những con
thuyền xanh xanh đỏ đỏ, làm phép bắt ma, bắt tà. Sự mê tín không chỉ có ở vùng
quê. Ở ngay thành đô, người ta cũng rất mê bói toán. Nghề xem bói và coi chỉ
tay đã văn minh hơn xưa vì bây giờ có “Giáo Sư Chiêm Tinh Học” là Khánh Sơn ra
đời, quảng cáo rất mạnh trên báo chí. Giáo sư bói toán này có người cháu ruột
là ca sĩ Đức Quỳnh, chủ nhân sau này của một phòng trà ở Saigon và là người đào
tạo ra nhiều ca sĩ như Thanh Thúy, Lệ Thanh vân vân...
Năm 1938, đối với tôi, là một năm rất
quan trọng vì là năm khai sinh ra loại “nhạc cải cách”. Sau một thời gian tung
hoành của những bài ta theo điệu Tây do Huỳnh Thủ Trung tức Tư Chơi khởi xướng
và các ca sĩ Kim Thoa, Ái Liên cổ võ, bây giờ là lúc các thanh niên yêu nhạc muốn
có những bài hát hoàn toàn Việt Nam, không còn phải vay mượn nhạc điệu Tàu hay
nhạc điệu Tây nữa.
Một thanh niên gốc Huế có giọng hát
hay tên là Nguyễn Văn Tuyên, tòng sự tại một công sở Pháp ở Saigon và đang ngụ ở
Thị Nghè, đã thử soạn ra mấy bài hát mới được bạn bè rất hoan nghênh. Anh Tuyên
này được một công chức kiêm thi sĩ làm việc cho Đài Phát thanh RADIO INDOCHINE
là Nguyễn Văn Cổn hết lòng giúp đỡ. Ông này đưa thơ của mình cho Nguyễn Văn
Tuyên phổ nhạc và soạn luôn lời ca cho những bản nhạc không lời của Nguyễn Văn
Tuyên. Hơn thế nữa, Nguyễn Văn Cổn còn giới thiệu Nguyễn Văn Tuyên với Thống Đốc
Nam Kì hồi đó là Rivoalen và xin được trợ cấp để - theo tin báo chí lúc đó - Nguyễn
Văn Tuyên đi diễn thuyết về âm nhạc cải cách tại các thành phố lớn như Huế, Hải
Phòng, Hà Nội. Chính Nguyễn Văn Cổn là người đặt tên cho loại nhạc mới là âm nhạc
cải cách (musique renovée)(1).
(1)
Vào mùa Thu 1982, tôi ngồi uống cà phê với Thạc Sĩ Nguyễn Văn Cổn tại một quán
nhỏ trong khu Latin Paris, ôn lại những ngày cũ và được nghe ông đọc vài bài
thơ về thời thế... Tôi ngỏ ý rất tiếc cho một nước Việt Nam chưa bao giờ được
an vi để có cơ hội cho tất cả những người trong Làng Âm Nhạc họp nhau lại, viết
cho thật kĩ càng một Bộ Nhạc Sử trong đó Nguyễn Văn Cổn phải có một chỗ ngồi xứng
đáng.
Tháng 3 năm 1938, Nguyễn Văn Tuyên tới
Hội TRÍ TRI ở Hà Nội và Hội TRÍ TRI ở Hải Phòng sau khi đã dừng chân tại Huế để
làm công việc ông gọi là vận động cho âm nhạc cải cách. Hai bài được hát lên
trong buổi vận động này là: Bông Cúc Vàng và Một Kiếp Hoa.
Theo lời nhạc sĩ Lê Thương thuật lại
trong một bài viết: “... buổi hát ở Hà Nội không thành công vì... cử tọa đông đảo,
quá ồn ào, làm mất trật tự. Giọng Huế của ông hơi khó nghe... Còn có cả sự phản
ứng của nhiều thanh niên Bắc Hà cho rằng việc hô hào của ông là thừa, vì loại
nhạc mà ông gọi là cải cách đó, ở ngoài Bắc đã có rồi...” Lê Thương viết tiếp: “Buổi
trình diễn ở Hải Phòng thành công hơn, nhưng chỉ có 20 người tới nghe. Ông
Tuyên còn trình bày một lần nữa tại rạp chiếu bóng Palace nhân kì hội của Trường
nữ học HOÀI ĐỨC...”
Nguyễn Văn Tuyên về già...
Nguyễn Văn Tuyên có thể không thành
công trong những buổi vận động cho âm nhạc cải cách ở Bắc Việt vì giọng nói khó
nghe hay vì hai bài hát không được hấp dẫn cho lắm, nhưng hành động của ông thì,
theo tôi, không thể gọi là thừa được. Bởi vì trước khi ông công khai ra mắt
công chúng tại các thành phố lớn ở ba miền Trung Nam Bắc, chưa có một cá nhân
nào, một nhóm nhạc sĩ nào gây được sự chú ý của mọi người về sáng kiến của họ
trong phạm vi âm nhạc mới, khả dĩ có thể thay thế được cái phong trào gọi là
bài ta theo điệu Tây. Bấy giờ việc làm của Nguyễn Văn Tuyên được báo chí tường
thuật kĩ càng rồi được mọi người bàn ra tán vào, người khen kẻ chê ầm ĩ cả lên.
Tuần báo có thế lực nhất lúc đó là tờ NGÀY NAY thì hết lòng ủng hộ, cho đăng tải
bài hát của Nguyễn Văn Tuyên trong số 122 ra ngày 7-8-1938.
Đây là lúc tôi đã mê hát và thích
nghe nhạc lắm rồi! Anh Khiêm đem ở Tây về rất nhiều đĩa hát và tôi thường lấy
trộm để nghe. Tôi đã thuộc lòng những bản nhạc cổ điển như Sérénade của
Schubert, Élégie của Massenet và những aria trong các opéra như Le Barbier De
Séville của Mozart hay La Norma của Bellini. Tôi cũng hay nghịch ngợm với các
điệu hát cổ điển này bằng cách thay đổi âm thể (mode) của bài hát. Ví dụ bài
Sérénade của Schubert là trong âm thể “minơ”, tôi thử hát với âm thể “majơ” để
thấy sự khác biệt của tình cảm khi bị chuyển thể. Và sau khi đã hơi quen thuộc
với âm nhạc, lẽ dĩ nhiên tôi hoan nghênh công việc vận động cho âm nhạc cải
cách của Nguyễn Văn Tuyên và Nguyễn Văn Cổn.
Trước khi có cái gọi là biến cố tháng
ba 1938 gây ra bởi Nguyễn Văn Tuyên, tôi hay tới một tiệm bán đàn ngay cạnh nơi
tôi sửa radio ở phố Hàng Gai để ngắm nghía các thứ đàn và để nhìn nhạc sĩ chủ
nhân đang dạy học trò đánh đàn guitare hawaienne ngay sau quầy hàng. Đó là nhạc
sĩ Dương Thiệu Tước. Anh nhạc sĩ trẻ trung và đẹp trai này chưa bằng lòng với bộ
mặt tròn trĩnh, trắng trẻo của mình nên thỉnh thoảng còn đánh phấn và bôi son nữa.
Các cô gái Hà Nội rất mê chàng nhạc sĩ công tử bột và dòng dõi của Dương Khuê
này.
Lúc đó Dương Thiệu Tước đã nổi danh ở
Hà Nội là người đánh đàn ghi ta hạ uy di rất giỏi. Cùng với Thẩm Oánh, Vũ Khánh,
anh thành lập một ban nhạc lấy tên là MYOSOTIS (Hoa Lưu Ly). Trong sinh hoạt hằng
tuần với các bạn nhạc sĩ tài tử của mình, ngoài những bài nhạc cải cách ra, Dương
Thiệu Tước còn sáng tác những bài mang những đầu đề bằng tiếng Pháp, như Joie d”Aimer
(Thú Yêu Đương) Souvenance (Hồi Niệm) Ton Doux Sourire (Nụ Cười Êm Ái Của Em). Lời
ca của những bài này là do Thẩm Bích (anh ruột của Thẩm Oánh) soạn ra, lẽ dĩ
nhiên bằng tiếng Pháp.
Thấy Nguyễn Văn Tuyên tung hoành như
vậy, cùng với Dương Thiệu Tước, các nhạc sĩ trẻ của Hà Nội lúc đó là Thẩm Oánh,
Văn Chung, Lê Yên... bèn tung ra những nhạc phẩm hoàn toàn Việt Nam mà họ đã soạn
trước khi Nguyễn Văn Tuyên ra Bắc nhưng họ hãy còn e dè chưa dám đem ra trước
công chúng. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, tôi đã được hát những bài như Hồ
Xuân của Thẩm Oánh, Tâm Hồn Anh Tìm Em của Dương Thiệu Tước, Bóng Ai Qua Thềm của
Văn Chung... Nhưng phải thú nhận rằng tôi chỉ bị rung động mạnh mẽ bởi một bài
hát tới ngày nay đã trở thành cổ điển của nhạc cải cách là bài Con Thuyền Không
Bến của Đặng Thế Phong, con người tài hoa mệnh yểu, quê quán ở thành phố Nam Định
bé nhỏ và lặng lẽ.
Cũng như con thuyền của Đặng Thế
Phong, rồi đây tôi cũng không tìm ra một cái bến nào để cắm neo cả. Cuối cùng
có lẽ sẽ đành chết già ở một nơi thị trấn giữa đàng nào đó mà thôi!
___________________________________
Nguyễn Văn Cổn và Phạm Duy, Paris
1982...
Biệt Li! Nhớ nhung từ đây
Chiếc lá rơi theo heo may
Người về có hay...
Dzoãn Mẫn