Hồi ký Phạm Duy (Quyển 1 - 2) - Quyển 1 - Chương 08
Chương
Tám
Ca sĩ Josephine Baker
Bên cạnh những truyền thống lâu đời -
có cái bị tiêu vong, có cái còn tồn tại - và trong tất cả những cái mới vừa tới
với thời đại... cái hay nhất đối với tôi là sự chuyển mình của âm nhạc Việt Nam
từ Cổ Nhạc qua Tân Nhạc.
Vào những năm đầu của thập niên 30, tôi
mới là cậu bé đang bước vào tuổi lên mười. Không như những thiếu nhi, thiếu
niên trong các thập niên sau này, sẽ có hàng chục hay hàng trăm bài hát cho tuổi
của các em, lúc đó, tôi không có tới dăm ba bài ca để hát một mình, hát chung với
bạn bè hay là hát biểu diễn cho ai nghe cả.
Âm nhạc cổ truyền như Hát Trống Quân,
Hát Cò Lả, Hát Quan Họ... hoàn toàn vắng mặt tại các thành phố. Ngay cả trong
các vùng thôn quê là nơi xuất xứ của các loại dân ca đó, người dân Việt Nam sống
dưới chế độ thực dân Pháp cũng không còn hết lòng ca hát trong các vụ hát hội, hát
đám nữa. Những điệu dân ca mà tôi được nghe họa hoằn trong những ngày lễ, như lễ
14 Juillet do người Pháp tổ chức tại chính quốc và tại các thuộc địa để ăn mừng
ngày phá ngục Bastille chẳng hạn... là loại hát xẩm, hát trên vỉa hè hay trên
bãi đất trống trước cửa nhà tôi.
(Ảnh bên: Nguyễn Đình Nghị)
Nếu tôi có được nuôi dưỡng thêm bằng
âm nhạc vào lúc đó thì cũng chỉ là đi coi Hát Chèo Văn Minh của cụ tai rạp Sán
Nhiên Đài hay coi Tuồng Cải Lương của Trần Phềnh (hơi khác với Cải Lương Nam
Kì) tại rạp Quảng Lạc. Hoặc là nghe những bài Ca Huế của bà Ấm Chung là người mẹ
tôi nuôi ở trong nhà để dạy cho hai chị tôi đánh đàn tranh.
Cũng còn là những bản Hát Bộ Miền
Trung của một ông lái buôn nước mắm, mỗi khi từ Nghệ An chở nước mắm ra bán tại
ngoài Bắc thì đến ngủ ở nhà tôi và được mẹ tôi coi như em nuôi, tôi phải gọi là
Cậu. Cậu Xuân hay đùa nghịch này là người dạy cho tôi cái tính hài hước. Hơn thế
nữa, đây là lúc tôi hay bịa ra những chuyện hát tuồng, vẽ mặt bôi râu, căng một
cái màn đỏ ở trên giường rồi đứng làm trò cho cả gia đình coi.
Ngoài loại nhạc Việt Nam cổ truyền ra,
tôi cũng được nghe nhạc Pháp với loai ca khúc thịnh hành (chanson à la mode), nghe
thì thích đấy, nhưng chưa lấy gì làm say mê cho lắm. Cậu bé lên mười ở trong một
thành phố Việt Nam, vào những năm 1931, 1932... nếu muốn có cái gì mới để hát
thì không có thể làm khác hơn là bắt chước người lớn hát những bài như:
Tôi chờ cô tối qua
Suốt canh chầy chẳng thấy cô ra.
Chờ bấy lâu mới biết cô là
Cô là người tôi hằng mơ mến yêu...
Đó là một điệu hát cổ mà ai cũng biết:
điệu Bình Bán, bây giờ được dùng để làm bài hát ve gái.
Trong những năm đầu của thập niên 30,
vì chưa có ai dám nghĩ đến chuyện sáng tác ca khúc mới với cả nhạc điệu với lời
ca cho nên người ta chỉ dám dùng các điệu đã quen biết để làm lời ca mới phù hợp
với nhu cầu của mình. Một số điệu Tàu đã từng được thu dụng trên sân khấu Việt
Nam cũng được người ta soạn lời ca mới để hát chơi. Hát tán gái bằng điệu Mãi Tạp
Hoá:
Mình ơi có đi bờ hồ
Cùng ta
chén kem kẹo dừa
Cứ đi, cứ
đi mình nhé
Trong túi có vài Rồng Xanh
(Rồng Xanh là giấy bạc năm đồng có
hình con rồng)
Mình ơi! Tôi xin một điều
Cùng nhau thề thót cũng liều
Xin mình chớ nên từ chối
Đôi chúng mình có thiếu cái chi...
Hồi đó, kéo nhau đi ăn kem ở bờ hồ
Hoàn Kiếm là một cái thú cho mọi lứa tuổi, Trẻ con chỉ được ăn kem thường, nhưng
người lớn thường ra đây để được ăn “kem sờ”, nghĩa là vừa ăn kem vừa sờ mó các
cô bưng kem vừa trẻ, vừa đẹp.
Các điệu Tàu được dùng để làm những
bài hát mới và cũng để chế diễu Hoa Kiều luôn. Đó là mấy câu hát theo điệu Bài
Tạ:
Bên Tàu ngộ ở bên Tàu
Bên Tàu ngộ mới qua đây
Qua Nam Việt bán buôn làm giầu
Mới đến ngộ có cái đòn gánh
Mới đến ngộ bán chè khô
Chè lỗ ngộ bán mì khô
Bán không được kéo nhau về Tàu...
Tuy nhiên, điệu nhạc Tàu hay điệu nhạc
Việt Nam cổ truyền, vốn nằm trong nét nhạc ngũ cung (pentatonic) quá quen thuộc,
dẫu có hát lên với lời ca mới, vẫn chưa thỏa mãn được nhu cầu cần thay đổi một
không khí âm nhạc của tuổi trẻ hồi đầu thập niên 30. Cái mới lúc đó, đối với
chúng tôi là những bài hát Tây Phương, được phổ biến tại Việt Nam dưới hình thức
đĩa hát loại 78 tours, hoặc được phô diễn trên màn ảnh chiếu phim nói (cinéma
parlant).
Tóm tắt lại, trong thời gian sống dưới
chế độ thực dân Pháp, lũ thiếu nhi hay thiếu niên chúng tôi, cũng như một số những
người lớn, đã chỉ làm một công việc rất dễ dãi là: hoặc dùng nhạc điệu cổ Việt
Nam để soạn lời ca mới, có khi là lời ca tiếng Pháp, với mục đích khêu gợi tinh
thần yêu nước; hoặc dùng những nhạc điệu Tàu để soạn những bài hát chơi. Sự chắp
vá này chỉ nói lên nhu cầu có cái mới trong ca hát và chỉ được coi như đang
trong giai đoạn sửa soạn để có một loại ca nhạc nào đó, khác với nhạc cổ truyền,
nhạc dân ca đã có từ lâu và đang suy tàn.
Người đầu tiên biết sử dụng điệu hát
Tây và phổ biến trong công chúng Việt Nam là nghệ sĩ Huỳnh Thủ Trung tức Tư
Chơi. Ông là người sáng tạo ra hình thức tiểu ca kịch (opérette) theo kiểu Âu
Tây mà ông đặt tên là “hoạt kê hài hước” (opérette comique) trên sân khấu các
đoàn hát Cải Lương TRẦN ĐẮT và PHƯỚC CƯƠNG vào khoảng 1933-1934.
Sân khấu Cải Lương lúc đó đã có hai
loại tuồng gọi là Tuồng Tàu với tích truyện cổ, diễn viên mặc quần áo giống như
các nhân vật của sân khấu Trung Quốc và Tuồng Tây với tích truyện tân thời diễn
viên mặc quốc phục và âu phục. Tuồng Cải Lương có phần âm nhạc thoát thai từ loại
Nhạc Tài Tử đặc biệt của miền Nam với giàn nhạc đệm là các thứ nhạc cụ dân tộc,
có thêm một giàn nhạc Tây Phương ở dưới đất, giữa quan khách và sân khấu, diễn
tấu những bài bản Tây Phương trước giờ mở màn hay vào giờ nghỉ (entracte).
Ngay từ khi xẩy ra Thế Chiến I, một
bài hát rất phổ thông trong binh lính Pháp là bài Madelon cũng đã được giới Cải
Lương Nam Kì thu dụng để toàn ban ra hát chào khán giả, lẽ dĩ nhiên là hát với
tiếng Việt: Xin chào đồng bào và xin chúc quý quan an vui...
Trên sân khấu các đoàn TRẦN ĐẮT và
PHƯỚC CƯƠNG, ngoài việc soạn ra những tích tuồng mới phản ảnh xã hội Việt Nam
vào lúc đó, phần nhiều là hài kịch nghệ sĩ Tư Chơi còn muốn cải cách cả phần âm
nhạc. Ông không muốn dùng các bài bản có tính chất cổ truyền trong opérette của
ông nữa. Nhạc Tây Phương qua những bài hát theo thời (chansons à la mode) đã bắt
đầu thịnh hành trong xã hội đô thị Việt Nam. Những bài hát Pháp như J”ai Deux
Amours, Ma Tonkiki Ma Tonkinoise đã được nhiều người biết đến. Bài J”ai
Deux Amours do nữ ca sĩ Mỹ đen Joséphine Baker hát:
J”ai
deux amours
Mon pays
et Paris
Par eux
toujours
Mon
coeur est ravi...
Nghệ sĩ
Năm Châu
Bài này
làm cho những thanh niên thèm đã từng đi Tây như tôi, lại càng thèm biết thủ đô
Paris hơn nữa. Nhưng nó được nghệ sĩ Tư Chơi đưa ngay lên sân khấu với lời ca của
nghệ sĩ Nguyễn Thành Châu tức Năm Châu, nội dung xã hội:
Buồn
thay nghề hát
Trong xứ
ta nhiều gương xấu
Tìm bạn
đồng tâm
Đâu thấy
ai? Nào đâu?
Lập tức
báo PHONG HÓA có câu hát giễu cợt theo điệu J”ai Deux Amours đó:
Giò này
giò nóng
Ai muốn
mua thì xin cứ
Bỏ một
hào ra
Ai muốn
mua, thì mua...
Một xu
hướng đi tìm không khí mới cho âm nhạc Việt Nam đã thực sự ra đời khi nghệ sĩ
Tư Chơi khẳng định đường lối soạn nhạc của ông. Ông soạn một số bài hát mà ông
gọi đích danh là bài ta theo điệu Tây. Hoặc ông dùng nguyên vẹn những điệu Tây,
chẳng hạn điệu Hoài Tình của ông, rất phổ biến trong giới Cải Lương, có thể khởi
sự từ bài Tabou, bài này, theo tôi, cũng còn là bài đẻ ra nhiều bản đầu tay của
một số mầm non nhạc sĩ vào hồi Tân Nhạc mới được thành lập.
Cùng một
lúc với việc anh Tư Chơi tung ra trên sân khấu loại hát anh gọi là bài ta theo
điệu Tây, thì trong giới yêu nhạc, với đa số là nam nữ trong tuổi thanh xuân, cũng
có phong trào chuyển ngữ các bài hát Tây do các ca sĩ thời thượng như Tino
Rossi, Rina Ketty, Albert Préjean, Georges Milton... hát vào đĩa hát 78 tours.
Các nghệ
sĩ sân khấu Việt Nam trẻ, đẹp, hát hay như Ái Liên, Kim Thoa, lại được hãng
BéKa, một chi nhánh của hãng Pathé bên Pháp mướn để thu thanh các bài ta theo
điệu Tây vào dĩa hát. Suốt mấy năm liền, từ 1935 cho tới 1938, rất nhiều các
bài hát của Pháp như Marinella, C”est À Capri, Tant Qu”il Y Aura Des Étoiles, Un
Jour Loin De Toi, Celle Que J”aime Éperdument, Les Gars De La Marine, L”oncle
De Pékin, Guitare D”amour, Créola, Signorina, Colombella... và của Mỹ như Good
Bye Hawaii, South Of The Border... đã được phổ biến mạnh mẽ với lời ca tiếng Việt,
soạn bởi một nhà báo trẻ tên là Mai Lâm.
Trong mấy
chục bài ta theo điệu Tây của hồi giữa thập niên 30, tôi chỉ còn nhớ lõm bõm
vài bài, chẳng hạn bài hát theo điệu C”est À Capri:
C”est à
Capri que je l”ai rencontrée
Je fus
charmé encore plus que surpris.
De mille
fleurs elle était entourée
Au
milieu d”un jardin de Capri
Tout
comme dans un poème
Me
voyant elle me sourit
Je lui
ai dit: je vous aime.
Cӎtait
au pays de Capri.
...
Ngày đua
xe hoa năm đã qua bao tình sâu xa
Còn như
in sâu trong trí tôi bao ngày vui qua.
Người mà
tôi yêu, tôi đắm say, tôi hằng mơ
Đến với tôi, trong ngày vui, trong hội
hoa.
Ngày nay anh tới đây, đợi chờ nắng
Mà sao em nỡ sao, em biệt bóng?
Lòng anh ôi chứa chan mối tình ái
Lời thề nguyền non nước em đành sai...
Vào đầu thập niên 30, mỗi lần các
gánh hát Cải Lương ở trong Nam ra Bắc trình diễn thì các minh tinh như các đào
Năm Phỉ, Phùng Há, Kim Thoa các kép Năm Châu, Bẩy Nhiêu, Tư Chơi ngụ tại Hotel
Đồng Lợi (?) ở đường Bờ Hồ, ngay gần nhà tôi. Tôi tò mò tới đứng ngoài cửa
khách sạn, ngó qua cửa kính nhòm vào phòng ăn, thấy sao họ có thể đẹp đẽ sang
trọng như người ngoại quốc thế kia? Tôi không thể ngờ rằng có ngày tôi đứng
chung trên một sân khấu với Tư Chơi hay Năm Châu tại Saigon trong thời gian trước
và sau cuộc Cách Mạng-Kháng Chiến.
Làm sao mà chúng tôi không thích những
bài ta theo điệu Tây cho được? Trước hết, những bài mà tôi vừa dẫn kể ở trên, không
những rất hay về ý nghĩa (lúc đó chúng tôi cũng đã giỏi tiếng Pháp lắm rồi) lại
còn được những giọng hát ngọt lịm của Tino Rossi, lanh lảnh của Rina Ketty, hài
hước của Georges Milton hay bình dị của Albert Préjean... làm tăng giá trị. Rồi
bây giờ lại còn được Mai Lâm soạn những lời ca rất phù hợp với tuổi mơ mộng của
chúng tôi. Đã có những hội “Ái Tino” được thành lập. Một thanh niên có giọng
hát tốt, sau này là một nhạc sĩ được nhiều người biết tới, nhạc sĩ Canh Thân, bắt
đầu cuộc đời ca hát của anh bằng cái tên Tino Thân.
Tino Rossi, thần tượng của thanh niên
Hà Nội 1930
Hồi đó, tuổi trẻ Việt Nam có những
ngày rất vui khi có tổ chức chợ phiên (kermesse) và những cuộc diễn hành xe hoa
(corseau fleuri). Những đôi lứa yêu nhau là nhờ ở những ngày đua xe hoa với bao
tình sâu xa... như lời ca của bài C”est À Capri kể trên. Trai gái gặp nhau ở chợ
phiên hay tại cuộc thi xe hoa là ném confetti vào mặt nhau. Có anh đùa nhả, ném
cả bụi đường vào mặt người đẹp rồi được nghe chửi thậm tệ. Trong chợ phiên, tôi
được coi cuộc thi đánh yoyo, một trò chơi hiện nay vẫn còn thịnh hành ở Hoa Kỳ.
Tôi còn nhớ tên tay vô địch yoyo ở Hà Nội lúc đó là Kính tức Kính “què”.
(Ảnh bên: Bà thân sinh ra ca sĩ Khánh
Ly
Hoa hậu Hà Nội 1930)
Cuộc thi hoa hậu đầu tiên ở Việt Nam
đã diễn ra trong lần tổ chức kermesse ở Ấu Trĩ Viên và người được giải là một
thiếu nữ nổi tiếng của Hà Thành, với bộ y phục người Thái làm tăng thêm vẻ đẹp
của thân hình kiều diễm. Đó là nữ cầu thủ trong đội hockey mà tôi đã nói ở
Chương Bẩy và là bà thân sinh của ca sĩ Khánh Ly sau này. Hoa hậu đầu tiên của
Việt Nam tên là Tân, người mà chúng tôi thèm rỏ dãi khi đi bơi và nhìn thấy
thân hình của hoa hậu trong bộ đồ tắm không hở hang như bây giờ ở hồ Quảng Bá
lúc đó là nơi gặp gỡ của những thanh niên nam nữ Hà Nội, mệnh danh là những “tài
hoa son trẻ” của thời đại.
Nói tiếp về những bài ta theo điệu
Tây trong những năm 30, tôi thấy đủ mọi loại ca khúc thịnh hành của Pháp được
hát lên với lời Việt:
CRÉOLA
Phút mơ màng! Gần bên em khác chi
Thiên Đàng
Và Trời sao chứa muôn kho tàng
Đôi mắt em bừng sáng chào Xuân sang.
UN JOUR
LOIN DE TOI
Un jour
loin de toi est un jour sans bonheur
dịch là:
Một ngày
xa mặt em là một ngày anh buồn tênh.
hay là:
Xa em
trong một khắc, tày ba thu đau xa cách.
Ngoài những
bài mơ mộng một cách rất ngây thơ như vậy, cũng có những bài vui và hơi tục
tĩu:
CELLE
QUE J”AIME ÉPERDUMENT
Trông thấy
có, có cô con gái
Đi qua
phố vén chân lên đái...
Tục tĩu
hạng nhất là một bài ta theo điệu tây hát với nhạc điệu của Les Trois Petits
Cochons, bài hát nòng cốt trong một cuốn phim hoạt họa đầu tiên của Walt
Disney:
LES
TROIS PETIT COCHONS
Il y
avait trois petits cochons
A la
queue en tire bouchon
Qui
lorsqu”on parlait du méchant loup
Ne s”affolaient
pas du tout...
Lời Việt
rất tục:
Có ba
nàng tè bằng cái nong
Cái lông
tè ngoằn ngoèo uốn cong
Ai nói đến
cái sợi lông tè
Thì ba
nàng vùng vằng khiếp kinh...
Thành
công nhất tại Bắc Hà trong việc phổ biến những bài ta theo điệu tây là cô Ái
Liên, người có giọng hát trong như tiếng hạc bay qua. Đĩa hát BéKa thu giọng cô
hát với phần nhạc đệm của Charles Thu (tức nhạc sĩ Võ Đức Thu). Cùng với chồng
là Hà Quang Định, cô thành lập một đoàn Cải Lương ở Hải Phòng. Có Canh Thân tức
Tino Thân, cậu của Ái Liên hát Tân Nhạc. Cùng với tôi, Tino Thân là người đầu
tiên hát nhạc cải cách trên sân khấu.
Đại gia
đình Hà Quang Định/Ái Liên
Trong
làng nghệ sĩ Cải Lương Bắc Hà, các cô Ái Liên và Kim Chung là những người có
gia đình êm ấm. Ngược lại, người chị của Ái Liên là Lan Phương - cũng là nghệ
sĩ sân khấu - gặp nhiều điều không may trong đời tình ái. Lan Phương lấy phải một
anh chồng thuộc hạng du đãng tên Móng (anh này cũng có thời sống chung với một
nghệ sĩ khác là Bích Hợp) và thường bị anh ta đánh đập một cách dã man.
Kim Xuân,
Lan Phương, Ái Liên, Kim Chung
Tôi là
người đem tới cho nàng một chút an ủi khi tôi bước vào thế giới Cải Lương và
sau khi nàng không còn ở chung với người bạn trai thứ hai tên lị. Lan Phương có
đôi mắt xanh thẫm lúc nào cũng như long lanh giọt lệ, ngay cả lúc đang nở một nụ
cười như hoa giữa đôi má lúm đồng tiền. Trong số các bà mà tôi hân hạnh gặp, nàng
là người độc nhất muốn tìm vui trong men rượu, có lẽ để quên đi những sầu muộn
chăng? Về sau Lan Phương tìm được hạnh phúc bên cạnh một phóng viên nhiếp ảnh.
Tôi đi từ
Ải Nam Quan
Sau vài
ngàn năm lẻ e é...
CON ĐƯỜNG
CÁI QUAN