Hồi ký Phạm Duy (Quyển 1 - 2) - Quyển 1 - Chương 01 - 02

MẤY LỜI NÓI ĐẦU

Kể lại chuyện mình xảy ra từ sáu, bảy
mươi năm về trước là một việc làm không dễ. Tuy nghề nghiệp bắt buộc người nhạc
sĩ phải có trí nhớ tốt để thuộc lầu hàng trăm, hàng ngàn bản nhạc, nhưng khi ngồi
đào sâu kí ức để tìm về quá khứ thì tôi thấy những dữ kiện quá ư phức tạp, quá
ư hỗn độn. Tôi lại không còn ở trong nước để kiểm chứng hàng chục, hàng trăm những
nghi vấn về địa chí, về danh xưng và cũng không có trong tay những bản đồ với
tên tỉnh, tên huyện, tên phố đã được thay đổi tới bốn, năm lần dưới nhiều chỉnh
thể... Do đó HỒI KÍ THỜI THƠ ẤU-VÀO ĐỜI này có những khuyết điểm tuy không quan
trọng nhưng tác giả cũng xin một sự độ lượng nào đó của người đọc.

Là con mồ côi cha quá sớm, tôi muốn
dâng cuốn HỒI KÍ này lên người bố mà tôi không được gần gũi, vì tôi tin ở huyết
thống. Tôi mường tượng bố tôi sinh ra đã có người Pháp cai trị dân Việt Nam rồi.
Bên cạnh những hành động của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cùng với các bạn “đồng
chí hướng” như Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim... bố tôi đem uẩn ức của dân nô
lệ vào đời và hoạt động trong nhiều địa hạt, khi làm công tác trong một Nghĩa
Thục, khi dùng ngòi bút tả chân trong văn chương và báo chí, khi tranh thương với
Hoa Kiều v.v... Tất cả cho mục đích thay đổi xã hội, thay đổi cuộc đời.

Nói như vậy vì tôi thèm được thấy bạn
đọc nhìn nhận HỒI KÍ này không khởi sự từ những năm 20 khi tôi vừa ra đời mà
còn ôm đồm thêm những dữ kiện về thế hệ cha ông trong những năm đầu của thế kỉ.
Nếu được như vậy, toàn bộ HỒI KÍ của tôi sẽ bao trùm được đủ một trăm năm của
thế kỉ mà năm mươi năm đầu là sự đoàn kết của tất cả “người Việt nô lệ” - trong
đó có bố con tôi - trong việc giành Độc Lập và Tự Do. Muốn biết rõ hơn cuộc đời
của một “người Việt tự do” - là tôi - trong năm mươi năm sau của thế kỉ thứ hai
mươi, xin mời bạn đọc tiếp những cuốn HỒI KÍ tiếp theo.

Thế hệ ông cha ta, với các phong trào
Văn Thân, Đông Du và Đông Kinh Nghĩa Thục, thành công hay thất bại, ai cũng đều
biết. Riêng tôi biết rõ bố tôi chết đi mà chưa thực hiện được những giấc mơ của
mình. Những đứa con là nơi để bố trút bầu tâm sự. Bốn người con lớn không thừa
hưởng vẹn toàn thông điệp của bố, có lẽ tại vì các anh các chị chưa phải là thứ
“tinh trùng bất mãn” được bố cấy vào trong mẹ. Thằng con út, khởi sự là bào
thai đã được bố gửi gắm những hoài bão vào lúc bố biết mình đã thất bại và sắp
chết. Nó lớn lên, vì sự linh thiêng của huyết thống, nó thực hiện giấc mộng
không thành của người cha?!

Hình như Goethe và Maxime Gorki đã
coi những ngày thơ ấu của hai ngài là những ngày Đại Học. Vốn chẳng được theo
đuổi việc học hành trong sách vở tại nhà trường, tôi cũng bắt chước hai vị để
nói rằng trường Đại Học Âm Nhạc của tôi là kho tàng âm nhạc bình dân mà tôi hấp
thụ trong quãng đời sớm lang bạt của tôi. Thuật sống của tôi học được ở mọi tầng
lớp nhân dân mà tôi sớm được tiếp xúc. Lẽ dĩ nhiên sự giáo dục về cuộc đời cũng
đến với tôi từ mẹ ruột, từ vú nuôi, từ mẹ nuôi, từ thầy giáo, từ bạn bè... đến
cả từ những khắc nghiệt của người anh cũng như từ những ân sủng của người tình.
Xin được tri ân tất cả.

Tôi cũng cần phải cám ơn những người
giúp tôi rất nhiều trong việc hoàn tất HỒI KÍ này: Bạn cùng học tại những ngôi
trường cũ như Bác Sĩ Nguyễn Đình Thi (Trường Hàng Vôi), Cao Trung (Trường Bách
Nghệ), Tạ Tỵ, Võ Lăng (Trường Mĩ thuật). Bạn tâm giao cũ hay bạn mới làm quen
là những người ở từng địa phương như Phạm Thanh Liêm, Lê Ninh (Hưng Yên), chị
Lê Tôn Hy (YênThế-Bắc Giang), Nguyễn Sĩ Hưng (Thanh Hoá), Cao Xuân Vỹ, Nguyễn
Đình Khuê (Nghệ An), Nguyễn Cúc (Huế), Hàn Vĩ, Lê Trọng Nguyễn (Hội An), Nguyễn
Văn Sang (Quảng Ngãi), Lữ Liên (Dalat), Trần Văn Khê (Vĩnh Long). Bạn văn nghệ
như Lê Văn-Vũ Bắc Tiến, Nguyễn Hiền. Tất cả đã nhắc lại tên các rạp hát và các
địa danh của tỉnh mình, hoặc kể lại vài mẩu chuyện cũ để cho cuốn HỒI KÍ của
tôi thêm màu sắc và thêm xác thực.

Lẽ ra có hai tập: HỒI KÍ THỜI THƠ ẤU
và HỒI KÍ THỜI VÀO ĐỜI. Nhưng để tiết kiệm thời giờ và tiền mua sách của bạn đọc,
tôi thu gọn hai tập vào một cuốn sách. Do đó toàn bộ HỒI KÍ chỉ còn 4 tập thay
vì 5 tập như tôi đã rao. Vậy tôi xin rao lại, và xin trân trọng mời bạn đọc
cùng tôi đi về dĩ vãng.

Thị Trấn Giữa Đàng,

Mùa Đông 1989

Chương
Một

Lên một, trong lòng mẹ

Tôi ra đời tại nhà hộ sinh ở số 40
Rue Takou (phố Hàng Cót) Hà Nội vào lúc 1 giờ 15 sáng ngày 05 tháng 10 năm 1921,
theo âm lịch là ngày mùng 5 tháng 9 (nhuận) năm Tân Dậu. Trước đó vài giờ, mẹ
tôi còn đang ôm bụng ngồi đánh tổ tôm với mấy bà bạn và với Bác Hàn Làng Vẽ(1).

(1) Bác
Hàn là họ bên nội.

Mẹ tôi vừa ù xong ván bài tổ tôm thì
dở dạ và người nhà vội vàng đưa vào nhà đẻ. Do đó, khi tôi lớn lên, mỗi lần gặp
Bác Hàn là bác nhắc tới chuyện ván bài tổ tôm và gọi tôi là thằng Tôm. Ai ngờ
bây giờ về già, tôi cũng trở thành một thứ Uncle Tom.

Tuy luôn luôn đắc ý cho rằng mình ra
đời trong một canh bạc thắng của mẹ, nhưng khi lớn lên thằng Tôm này lại khoái
với cái tên tự do chính mình đặt ra là Mộng Vân. Vì sao? Vì trong một lúc quá
yêu Tôm, mẹ buột miệng nói rằng đã nằm mơ thấy những đám mây trong thời kì có
mang... Lại cũng là một cái tên tiền định. Thằng Tôm sẽ như mây, lang thang suốt
đời. Và khi du nhập vào nghề hát rong thì đụng ngay một đoàn hát Cải Lương mang
tên Gánh Mộng Vân.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

Ngoài hai tên hiệu đó, cái tên thật -
rất quan trọng vì là tên cúng cơm - cha mẹ đặt cho khi tôi vừa chào đời, tuy nó
chẳng ngộ nghĩnh hay thơ mộng gì cho lắm, nhưng khi tôi trở thành ca sĩ của một
gánh hát rong và chỉ dùng chữ họ và chữ đệm để cho khán giả dễ nhớ tên thì... cái
tên cúng cơm đó biến mất. Ngay chị ruột tôi, về sau, cũng chỉ gọi tôi bằng tên
đệm mà thôi. Giống như là có một sự quên tên hay kiêng tên vậy. Có điều chắc chắn
là tôi đã ra thoát được tục lệ từ xưa của người Việt là thường đặt những cái
tên rất xấu xí cho con cái để ma quỷ không thèm bắt đi như: (xin lỗi) thằng Buồi,
thằng Đít vân vân...

Bố tôi là Phạm Duy Tốn, được người đời
biết như là một nhà báo, một nhà văn đã từng tiếp súc với văn hóa Âu Tây và đã
không còn là một nhà nho thuần túy nữa, nhưng khi bố tôi đặt tên cho con cái
thì đều dựa vào chữ nho cả. Tên của ông cũng như tên của các con đều là tên của
những đức tính và nếu viết bằng chữ nho thì chữ nào cũng nằm trong bộ ngôn, nghĩa
là bộ chữ thuộc vào những hạng người thích ăn to nói lớn.

Anh cả của tôi mang tên Khiêm, tới
hai người chị là Thuận và Trinh, rồi tới người anh hơn tôi 2 tuổi là Nhượng. Hai
người anh trong thực tế sẽ sống bằng nghề ăn nói, họ đều là những ông thầy dạy
học. Nhưng họ đều giống tôi ở chỗ tính nết sẽ không như cái tên bố đã đặt cho. Ông
Khiêm nhiều khi có vẻ thiếu khiêm cung. Ông Nhượng không hẳn lúc nào cũng nhường
nhịn em nhỏ. Còn tôi, với cái tên Cẩn, nếu suốt đời đã sống nhờ chữ “ngôn”
trong cái tên thì trái với điều mong muốn của bố tôi, chẳng bao giờ tôi thấy
trong tôi có được một sự cẩn trọng tối thiểu! Tuy vậy, về sau tôi cũng học mót
bố tôi trong việc đặt tên cho tám đứa con. Chúng đều phải mang những cái tên tốt
đẹp như: Quang, Minh, Hùng, Cường, Hiền, Thảo, Đức, Hạnh. Tôi đã thừa hưởng
tinh thần hướng thượng của bố tôi vậy.

Ông nội tôi là người đã từng giữ chức
Thiên Hộ - chef de quartier - cai quản một khu phố trong nội thành Hà Nội. Ông
bà tôi chỉ có hai người con, một trai là bố tôi và một gái (chúng tôi gọi là cô
Án) lấy chồng làm Án Sát ở Bắc Ninh. Cô tôi có người con rể là họa sĩ Côn Sinh,
chuyên vẽ hí họa cho báo LOA, người khuyến khích tôi vào học trường Mĩ thuật
sau này.

Tôi không biết mặt ông nội nhưng bà nội
thì có ảnh chụp từ ngày xưa để lại. Trông bà thật là đẹp đẽ. Lúc còn bé, không
nhớ đã có ai trong họ cho tôi biết rằng bà là một ca kĩ tài danh của một thuở
xa xưa, lọt vào đôi mắt hào hoa của tay chơi Thiên Hộ Phạm Duy Đạt rồi được ông
cưới về làm vợ. Các con, cháu và chắt của bà có trở thành những văn nhân, tài tử
cũng nhờ ở huyết thống này. Trong bức ảnh cũ, thấy bà còn có vẻ phúc hậu nữa. Nhưng
theo lời mẹ tôi kể thì bà không hiền lành lắm đâu, còn có thể nói là ác nghiệt
nữa:

- Không phải ác với tao mà ác với bố
mày...

Đại gia đình

Bố tôi là một trong những người Việt
Nam đầu tiên cắt búi tó và mặc âu phục. Không biết lúc chuẩn bị cắt tóc bố tôi
có sai vợ lập ban thờ để làm lễ xin tổ tiên tha cho cái tội tày trời như những
người cùng cảnh ngộ hay không? Nhưng sau khi bố tôi cắt tóc, bà tôi buồn rầu và
căm giận đến độ từ đó trở đi, mỗi một buổi sáng vừa mở mắt dậy là bà tôi ngồi
chửi con. Bà cứ ngồi ở đầu giường, không thèm đi xúc miệng vì muốn làm tăng ác
độ của câu chửi... Kèm theo câu chửi là câu rủa... Đệm vào câu rủa là một cái
bát đàn - loại bát bằng đất nung, rẻ tiền nhất - được bà tôi đập xuống đất vỡ
tan. Rủa cho bố tôi chết. Lời rủa có vẻ hiệu nghiệm. Bố tôi chết trước bà tôi
hai năm.

Mẹ tôi là con dâu nên coi thái độ đó
của mẹ chồng là nghiệt ngã nhưng tôi không nghĩ rằng bà tôi là người ác tâm. Bà
là đại diện của một nền văn minh cũ, mang trong lòng tất cả những tín ngưỡng rất
lâu đời và khó bỏ. Việc cắt tóc của bố tôi không chỉ là một hành động chống lại
mẹ, nó còn là sự đả phá một kỉ luật đã có hằng mấy trăm năm, nếu không dám nói
là cả nghìn năm. Có cái gap generation nào mà không làm đau lòng những người
trong cả hai thế hệ?

Ông ngoại tôi lúc sinh thời - được gọi
là cụ Tú Hàng Gai - có nhiều học trò lắm, mỗi lần tới ngày kị của ông thì có rất
đông học trò cũ từ miền quê lên Hà Nội và tới phố Hàng Gai để cúng giỗ. Ông ngoại
tôi có hai vợ, do đó họ ngoại của tôi đông hơn bên họ nội. Không biết mặt ông
bà ngoại nhưng bà trẻ - nàng hầu của ông ngoại - thì tôi biết. Bà trẻ hiền lành
lắm. Không đẹp đẽ và oai phong như bà nội ở trong bức ảnh cũ, bà trẻ là hình ảnh
của sự chịu đựng nơi những người sinh ra để làm vợ thứ. Dù con cái của bà - cậu
Khuê và dì bé lấy chồng làm Tham Tá tên là Nhữ - đều là những người có địa vị
trong xã hội nhưng lúc nào bà cũng sống như một chiếc bóng nhạt màu.

Mẹ tôi là con gái của một ông thầy đồ
và trước khi lấy chồng, mẹ tôi là cô hàng bán sách ở phố hàng Gai. Tôi không biết
tên họ của ông bà ngoại nhưng một hôm gặp bà dì ruột ở Saigon vào khoảng 1970
thì dì nói:

- Mày có biết bà họ gì không? Họ Lưu,
dòng dõi Lưu Vĩnh Phúc đó!

Thế ra trong tôi có dòng máu nổi loạn
à? Người Pháp gọi Lưu Vĩnh Phúc là giặc - Giặc Cờ Đen - nhưng đối với tôi, ông
là người làm Cách Mạng.

Ba chị em: Bác Hai, Mẹ và Gì Năm...

Tôi có khá nhiều các bác, các dì, các
cậu và có rất đông các anh em, chị em họ cùng với một rừng các cháu gọi tôi bằng
chú và bằng cậu. Một trong những người anh họ của tôi là Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc,
con của Bác Hai Hàng Đường. Tôi thường được ngồi ngắm tác giả Cổ HỌC TINH HOA, TỤC
NGỮ PHONG DAO... nằm hút thuốc phiện.

(Ảnh bên: Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, tác
giả Tục Ngữ Phong Dao)

Trong đại gia đình tôi, không phải chỉ
có anh Ngọc mới là bạn của Nàng Tiên Nâu. Tôi có bao nhiêu ông chú, ông cậu, có
bao nhiêu ông anh hay em họ là có bấy nhiêu ông tiên. Thậm chí sau này, con của
cậu tôi, tên là Bá, còn mở hẳn một tiệm hút ở phố Hàng Dầu, không có một nhà
văn Hà Nội nào hằng đêm là không tới đó để gặp nhau. - đây, tôi hay gập Đồ Phồn,
Lan Sơn, Đàm Quang Thiện...

Nói tới đại gia đình là nhớ tới nhưng
ngày đại giỗ. Gia đình càng lớn thì hằng năm càng có nhiều ngày giỗ. Vào những
ngày này, tôi mới được gặp gỡ tất cả mọi người và tôi có nhận xét là các bác, các
cậu và các anh họ tôi ai cũng có giọng nói rất lớn. Nói chuyện trong nhà mà như
người ta cãi nhau khi mổ bò. Ngược lại, các mợ, các dì, các cháu gái lại nói
năng rất khẽ như bị đàn ông ăn hiếp vậy. Ít khi tôi được ăn cơm với người lớn. Tôi
và lũ cháu trai - gần bằng tuổi nhau nên toàn xưng hô mày, tao - tranh nhau từng
miếng gan gà hay mảnh trứng muối. Mấy thằng cháu này hơn tôi ở chỗ chúng nó uống
rượu như uống nước lã. Trong ngày giỗ, chỉ có con trai được cho vào ăn chung một
mâm và ăn trước. Con gái đều phải chui xuống bếp để giúp việc rồi ăn sau. Tinh
thần trọng nam giới của gia đình tôi vào đoạn đầu của thế kỉ 20 này dường như vẫn
còn đeo đẳng tôi cho tới tận bây giờ.

_________________

Chương Hai

Phố Mã
Mây - Rue Des Pavillons Noirs - circa 1920

Lên một,
trong lòng mẹ

Ít lâu
sau khi tôi ra đời, gia đình họ Phạm dọn từ phố Mã Mây (Rue Des Pavillons Noirs
- phố Cờ Đen, lại một cái tên có liên hệ tới gia đình tôi) xuống phố Hàng Dầu
(rue Fellonneau), một con phố có chưa tới ba mươi căn nhà thấp bé nằm ôm lấy
nhau.

Bên phải
phố Hàng Dầu là phố Bờ Hồ nằm đối diện với một khu đất trên đó có Đền Bà Kiệu
và rạp chiếu bóng Pathé. Hồ Gươm không xa nhà tôi mấy. Đứng trước cửa nhà, tôi
có thể nhìn thấy mặt hồ lúc nào cũng lặng lẽ và xanh đục. Và thấy xe điện leng
keng lọc cọc đi ngang. Trong 17 năm sống với thủ đô, tôi có tới 14 năm sống
chung quanh hồ Gươm cho nên Hà Nội đối với tôi chỉ là Đền Ngọc Sơn, Cầu Thê Húc,
Tháp Rùa, đền Bà Kiệu và khu vườn nhỏ bên bờ hồ là nơi tôi hay ra leo lên cây
đa hoặc lúi húi hái hoa bắt dế. Trong 3 năm còn lại, tôi theo gia đình lên ở
bên cạnh Hồ Trúc Bạch trước khi rời xa Hà Nội đi sinh sống ở Moncay, Hưng Yên, Kiến
An, Bắc Giang. Thỉnh thoảng ghé về thăm mẹ, tôi không có đủ thời gian để yêu được
tất cả Hà Nội 36 phố phường.

Các nhạc
sĩ như Trần Văn Nhơn, Hoàng Dương (em họ của Thái Hằng, vợ tôi), Nguyễn Đình
Thi... khi thương hay khi nhớ Hà Nội, họ đều có những bài hát nói tới đầy đủ
các khu các phố. Văn Cao có bài Thăng Long Hành Khúc xưng tụng đủ cả Nhị Hà, Tháp
Gươm, Văn Miếu, Cột Cờ, Tràng Thi... Tôi chỉ có một mối tình dành riêng cho hồ
Hoàn Kiếm mà thôi. Qua bài Gươm Tráng Sĩ...

Đã có
nhiều nhà văn cho chúng ta thấy cái thơ mộng của hồ Gươm. Anh bạn Nguyễn Đình
Toàn nhìn nó như trái tim của Hà Nội rồi còn nghe được tiếng guốc thiếu nữ reo
vang trên những lối đi quanh hồ... Ông còn ví hồ này, vào mùa thu, giống như con
mắt buồn bã của người tình. Tôi cũng thấy như vậy. Nhưng vì quanh năm sống với
hồ Gươm nên tôi còn thấy nó trong những hoàn cảnh ít nên thơ hơn, như ra coi những
xác người treo cổ trên cây đa bên bờ hay trầm mình xuống hồ nước, vì thất tình
hay vì lí do buồn bã hơn là sự túng quẫn.

Nói tới
Hồ Gươm, người ta còn nói tới mùi nhang thơm trong đền Ngọc Sơn hay nói tới môi
hôn ngọt của cặp tình nhân trên cầu Thê Húc. Tôi được sống lâu với chiếc cầu và
ngôi đền nên còn nhìn thấy cả đám ăn mày ngồi la liệt trên lối ra vào với lũ ruồi
bu đầy trên những đôi mắt toét đỏ lòm. Và cảnh nhà nho cuối cùng mặc áo bông
rách, ngồi viết những chữ Phúc Lộc Thọ hay những câu đối trên giấy đỏ... chỉ
làm tôi bùi ngùi hơn là bồi hồi. Hồ Gươm với tôi là giọt lệ, không phải lệ ngọc
ngà mà là lệ buồn thương.

Hồ Gươm,
thời tôi còn nhỏ

Hồ Gươm
còn có những buổi chiều mùa lạnh với sương mù tỏa xuống mặt hồ, cảnh vật mờ ảo
làm tôi tưởng tượng như đang sống trong một truyện Liêu Trai. Tôi vừa sợ, vừa
thèm gặp con ma hồ Gươm mà người trong khu phố cho rằng nó thường hay ra đây dụ
dỗ người ta tự tử. Hình như con ma này đẹp lắm!

Đối diện
với Hồ Gươm là rạp chiếu bóng Pathé. Phía sau rạp có bãi đất rộng, thỉnh thoảng
người Tàu tới dựng lều làm trò múa rối. Những màn múa rối này tinh vi hơn múa rối
Việt Nam tôi được coi ở Hội Chùa Thầy. Chỉ mất có mấy đồng trinh mà tôi được biết
nhiều màn ca kịch rất linh động của truyện Tàu trước khi biết chữ để đọc tiểu
thuyết. Tại đây còn có ông Hai Tây hay tới làm trò đóng đinh lỗ mũi và trò quỷ
thuật. Ông Hai Tây còn thổi kèn bằng mu bàn tay và bằng ống đu đủ. Có thêm những
người Tàu bán thuốc Sơn Đông và đánh võ. Họ dán thuốc cao vào những vết dao mà
họ chém trên ngực để cho chúng tôi thấy công hiệu của thuốc cao. Nếu là ngày hội
14 Juillet (lễ Quốc Khánh của Pháp) thì tại đây có các cuộc vui như leo cột mỡ,
đập nồi, bịt mắt bắt vịt. Nhất là có những đám hát xẩm...

Tất cả
những biến cố nghệ thuật và những trò chơi bình dân này đã gây nên giấc mộng
giang hồ và cái thú biểu diễn nơi cậu bé họ Phạm. Rồi đã có lần tôi bỏ nhà đi
theo một anh làm trò quỷ thuật sau khi bị mê hoặc thêm bởi cuốn tiểu thuyết Vô
Gia Đình (Sans Famille) của nhà văn Pháp Hector Malot. Nhà văn này đưa ra nhân
vật tiểu thuyết là một ca sĩ nổi danh một thời rồi chẳng may bị mất giọng. Muốn
giữ mãi hình ảnh tuyệt vời của mình trong lòng người, anh thay tên đổi họ và sống
cuộc đời lang thang trong một gánh xiếc nhỏ. Cuối cùng anh chết vì đói rét
trong khi tên tuổi anh vẫn còn vang lừng khắp Âu Châu.

Bên trái
phố Hàng Dầu là phố Hàng Tre thông ra bờ đê sông Hồng. Vào mùa nước cạn, tuy
cho chuồn chuồn cắn rốn nhiều lần mà vẫn chưa biết bơi nên tôi hay chạy chơi
trên bãi cát rộng. Nhưng vào mùa nước lớn, dù trong đêm tối, tôi cũng ra bờ đê
để coi mọi người trong khu phố phấp phỏng ngồi canh mực nước, chuẩn bị đề phòng
nạn lụt. Dòng sông Cái (nghĩa là sông Mẹ?) bình thường êm ả nay bỗng trở thành
bà mẹ hung dữ khiến tôi sợ lắm! Đứng nhìn dòng nước phóng đi như điên cuồng, tôi
thấy con sông lúc thường đỏ thắm vui tươi, trong mùa lụt, sông Hồng giận dữ và
đỏ ngầu như máu đục.

Phía sau
phố tôi là phố Hàng Bè, nơi vú già hay dắt tôi đi chợ và phố Hàng Thùng, nơi có
lớp mẫu giáo để tôi đi vào chữ nghĩa khi tôi lên sáu. Phố nào cũng ngắn với dãy
nhà tí hon. Riêng phố Hàng Bè có thêm ngôi nhà ba tầng - gọi là nhà Tây - của
bác sĩ Lê Văn Chỉnh, người gốc miền Nam, có người con trai không hiểu vì sao mà
tự tử (bằng súng lục). Cái chết của con Bác Sĩ Chỉnh và của những người tự vẫn ở
Hồ Gươm ám ảnh tôi rất lâu.

Người mở
lòng cho tôi trong lớp mẫu giáo ở phố Hàng Thùng là một thầy giáo mặc áo the
thâm, đầu đội khăn xếp, với bộ râu nằm ngang trên cái miệng răng đen, trông thầy
giống như một bức tranh hí họa. Lớp học trong cái phố chuyên môn làm thùng gánh
nước bằng sắt tây, cậu bé hỉ mũi chưa sạch là tôi thường ê a đọc bài với nhịp
điệu văng vẳng của tiếng đập thùng nghe giống như tiếng trống nhạc jazz vậy.

Đầu phố
Hàng Dầu và xế nhà tôi là một cửa hàng tạp hóa với những món hàng rất sơ sài. Bà
chủ cũng góa chồng như mẹ tôi nhưng không có con nên bà yêu tôi lắm, thường cho
ăn ô mai không lấy tiền. Bên cạnh cửa hàng của bà là nhà làm nước đá, có nước
nóng để tôi được tắm táp trong những ngày đông giá. Khu phố tôi chưa có ống dẫn
nước, vú già phải đi gánh nước về, ít khi có chuyện đun nước để tôi tắm.

Gọi là
phố Hàng Dầu nhưng tôi chỉ thấy có một cửa hàng bán dầu ở xế cửa. Vào thời tôi
mới sinh ra, Hà Nội không còn dùng dầu lạc để đốt đèn nữa vì đã có đèn điện và
có loại đèn Hoa Kỳ dùng dầu lửa (pétrole) tiện lợi và sạch sẽ hơn dầu lạc. Hoa
Kỳ láu cá lắm, biếu không cho người Việt Nam hàng vạn cái đèn để khi có đèn rồi
thì phải mua dầu của họ. Cạnh nhà tôi là nhà ông Ký Hải, ông lang nổi tiếng. Các
cháu bé của ông là những bạn thân thiết nhất của tôi thời thơ ấu. Trong thời
gian ở phố Hàng Dầu, tôi không thấy hàng xóm cũ dọn đi hay láng giềng mới dọn tới.
Chỉ gia đình tôi là sẽ rời bỏ con phố này khi anh Khiêm từ Pháp về sau 7 năm du
học.

Nhà của
chúng tôi ở giữa phố và cũng thấp bé như những nhà trong phố nhưng lại rộng hơn
nhà Bác Hai phố Hàng Đường hay nhà cậu Trưởng phố Hàng Gai. Trong nhà có xây
sáu cái giường quây chung quanh một cái sân nhỏ lộ thiên nằm giữa nhà. Tôi thường
nằm trên giường để nhìn nước mưa buồn buồn chảy xuống những chậu hoa trên sân. Hoặc
ra sân để tắm mưa.

Dưới gầm
của những giường ngủ có chôn những cái vại bằng sành rất lớn để đựng dầu. Mua lại
căn nhà là một cửa hàng bán dầu nhưng bố mẹ tôi không sinh sống bằng nghề bán dầu,
những vại dầu trống không này chỉ là một thứ đồ chơi của tôi khi còn bé. Chơi
đi trốn với anh chị hay với bạn bè, tôi thường hay nhẩy vào một trong những vại
dầu cao hơn đầu tôi này. Vì trong nhà có tới 12 cái vại cho nên bắt được tôi rất
khó, tôi đã phải nằm trong đó rất lâu để tưởng tượng mình là Ali Baba của truyện
thần thoại Ả Rập.

Nơi quan
trọng thứ nhất của nhà tôi là bàn thờ tổ tiên, chiếm hết một phần sáu của diện
tích căn nhà. Trước bàn thờ là hai bức tường có gắn những tượng người bằng sành
rất đẹp. Vào ngày Tết Nguyên Đán, bàn thờ được mẹ tôi làm cho lộng lẫy từ ngày
ông Táo về trời và được duy trì cho tới sau ngày hai mươi mốt tháng giêng, nghĩa
là sau hai cái giỗ của bà nội tôi và của bố tôi, rồi mới được buông mành che đi.
Tôi được ăn Tết lâu hơn các trẻ con khác trong phố.

Nơi quan
trọng thứ hai là cái giường gỗ lim nơi mẹ con tôi nằm ngủ, kê sát tủ chè có
tranh ảnh nạm bằng sà cừ rất tinh vi. Ở chân giường, trước mặt cái sân nhỏ, là
hai chiếc ghế gụ để khách tới ngồi chơi trong khi chủ nhân ngồi xếp chân bằng
tròn trên giường tiếp chuyện. Nếu có đánh chắn hay tổ tôm thì canh bạc cũng xảy
ra ở chỗ này. Cuộc chơi bao giờ cũng kéo dài tới đêm khuya, tôi đi ngủ sớm thì
phải nằm cạnh những canh bài đỏ đen, tai nghe thoang thoảng những tiếng reo được
thua trong cơn mộng mị.

Nơi
không được coi là quan trọng trong căn nhà là cái chồ. Địa điểm phải được gọi
là phòng vệ sinh này bé bằng cái hộp, to béo như tôi bây giờ thì không thể nào
chui vào ngồi xổm trong đó một cách dễ dàng được. Không có hầm phân mà chỉ có
thùng phân. Vài ba ngày, có người của ông nhà thầu Năm Diệm đem thùng khác tới
đổi thùng đựng đầy phân. Đổi thùng thường làm vào nửa đêm về sáng. Lúc đó, tiếng
phu đổi thùng gõ cửa ầm ầm trong đêm thanh vắng thường làm thằng bé này giật
mình thon thót. Chắc tiếng gõ cửa bắt người ban đêm cũng chỉ hãi hùng đến thế
mà thôi.

Hoài niệm
thời thơ ấu, ai cũng có kỉ vật, nhân vật hay một chuyện nào đó để bâng khuâng
nhớ. Tôi nhớ nhất cái đồng hồ cũ kĩ đặt trên mặt tủ chè. Nó là chứng tích rõ
ràng nhất của thời gian. Mỗi một tích tắc hay một hồi chuông của nó ghi lại một
li ti hay một khoảng ngắn của thời tôi còn thơ. So với những đồ vật khác trong
nhà, chỉ có nó có sự sống.

Bà con
hàng xóm trong khu phố tôi là những người dân hiền lành sống cuộc đời âm thầm
nhưng cũng có một nhân vật dị thường khiến tôi để ý. Tên anh là Hùng, nhưng ai
cũng gọi là Khùng. Hằng ngày, anh bắc ghế đẩu ra ngồi ở ngã tư, thấy ai đi qua
cũng chào. Chào bằng đủ mọi thứ tiếng. Mọi người đều cho anh là thằng hóa dại. Trẻ
con thường quây chung quanh anh để chọc ghẹo. Riêng tôi, lúc nào cũng ngẩn ngơ
đứng nhìn con người kính chào không mỏi mệt này. Cho tới bây giờ tôi vẫn còn nhớ
gương mặt hiền hòa của một người lịch sự nhất phố Hàng Dầu.

Hà Nội
có những buổi trời mưa thật to, mưa nặng nề như mưa đá vậy. Có thêm những tia
chớp lớn. Những hạt mưa cục đập xuống mặt đường chưa trải nhựa, làm thành những
bong bóng to. Ngồi trên bậc cửa nhìn qua nhà trước mặt, thằng bé này biết nhớ
nhung da diết một con bé tên là Nguyệt. Nó thấy được nỗi buồn của một câu ca
dao để rồi sẽ đưa vào một bản trường ca:

Đêm qua
chớp bể mưa nguồn

Hỏi người
bên đó có buồn hay không?

... Năm
mươi năm sau, tôi trở về ngôi nhà cũ ở 54 Phố Hàng Dầu (bây giờ đổi tên là Phố
Lò Sũ) với con trai thứ...

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3