Người Dublin - Chương 14 - Phần 1

Người chết

Lily, con gái người gác cổng, đúng là đang vắt chân
lên cổ. Cô mới vừa dẫn một quý ông vào phòng xép đàng sau phòng làm việc dưới
tầng một và giúp quý ông cởi áo khoác, thì chuông ngoài sảnh đã lại rè rè vang
lên và cô lại phải vội vàng chạy qua hành lang đón vị khách tiếp theo. May mà
cô không phải đứng đón cả các quý bà. Miss Kate và Miss Julia lường trước được
tình hình và đã biến phòng tắm trên gác thành phòng để đồ cho các bà. Miss Kate
và Miss Julia đang ở đó, cười nói tíu tít, chốc chốc lại líu ríu thay nhau đi
ra phía đầu cầu thang, dòm xuống lan can và vọng xuống hỏi Lily xem ai vừa đến.

Dạ hội hàng năm của nhà Morkan luôn là một dịp trọng
đại. Ai biết họ đều đến dự cả, họ hàng người thân, bạn cũ gia đình, thành viên đoàn
thánh ca của Julia, bất cứ học trò nào đủ tuổi trưởng thành của Kate, và thậm
chí còn có cả mấy học trò của Mary Jane. Chưa một lần nào dạ hội thất bại. Trong
ký ức của mọi người bao nhiêu năm nay nó đã luôn diễn ra một cách tuyệt hảo: từ
hồi Kate và Julia, sau cái chết của người anh trai Pat, rời bỏ ngôi nhà ở
Stoney Batter và đưa Mary Jane, cô cháu gái duy nhất của họ, đến sống trong
ngôi nhà tối tăm ảm đạm trên giữ Usher's Island, nơi họ thuê lại tầng hai từ Mr
Fulham, một thương gia buôn ngũ cốc giờ sống ở tầng dưới. Mới thế mà đã ba mươi
năm. Mary Jane, hồi đó còn là cô bé con mặc quần cộc, giờ đã một tay cai quản
gia đình bởi cô phụ trách đàn organ nhà thờ trên đường Haddington. Cô đã học
qua Nhạc viện và mỗi năm lại đều đặn tổ chức một buổi hòa nhạc học sinh trong
khán phòng nhà hát Antient Concert Rooms. Rất nhiều học trò của cô là con cái
những gia đình có máu mặt sống phía Kingstown và Dalkey. Mặc dù đã lớn tuổi
nhưng các dì của cô vẫn tham gia vào nhiều việc. Julia, dù tóc đã khá bạc, vẫn
là giọng nữ cao chính của Nhà thờ Adam và Eva, và Kate, không còn đủ sức khỏe
để ra ngoài thường xuyên, thì dạy nhạc cho người mới học bằng cây đàn piano
vuông cũ kỹ trong phòng khách phía sau. Lily, con gái người gác cổng, làm các
việc nội trợ cho họ. Mặc dù cuộc sống của họ rất bình dị, họ luôn tin vào gía
trị của việc ăn ngon, luôn luôn là thứ tốt nhất, thịt thăn bò hảo hạng, trà giá
ba silling và bia stout đóng chai loại ngon nhất. Lily hiếm khi chọn mua nhầm
thức ăn, vậy nên cô sống hòa hợp với ba bà chủ của mình. Họ chỉ hơi nhặng xị
kiểu cách một chút, nhưng chỉ thế thôi. Điều duy nhất họ không thể chịu được là
sai bảo mà lại bị cãi lại.

Tất nhiên, họ hoàn toàn có lý do để nhặng xị kiểu
cách trong một đêm như thế này. Rồi thì còn chuyện đã quá mười giờ lâu lắm r
rmà vẫn chưa thấy tăm hơi Gabriel và vợ đâu. Lại thêm chuyện họ đang lo phát
sốt nhỡ đâu Freddy Malins lại đến đây trong bộ dạng say mèm. Có các vàng họ
cũng không thể để một học trò nào của Mary Jane nhìn thấy anh ta bị ma men dẫn
đường như thế, đôi khi rất khó quản lý anh ta trong tình trạng say sưa như vậy.
Freddy Malins thì luôn đến muộn rồi, nhưng họ đang băn khoăn không hiểu cái gì
có thể cản chân Gabriel và đó chính là điều khiến cứ hai phút một họ lại chạy
ra lan can để hỏi Lily xem Gabriel hoặc Freddy đã đến chưa.

- Ôi ngài Conroy - Lily kêu lên khi cô mở cửa cho
Gabriel - Miss Kate và Miss Julia đã tưởng là chẳng bao giờ ngài đến được mất. Xin
chào bà Conroy.

- Tôi cũng đoán thế - Gabriel nói - nhưng họ quên
rằng người vợ của tôi đây phải mất ba tiếng đồng hồ sống chết mới chuẩn bị được
xong váy áo ư.

Anh đứng trên tấm thảm, rũ cho tuyết rơi khỏi ủng
cao su, trong lúc Lily đưa vợ anh đến chân cầu thang và gọi vọng lên:

- Thưa Miss Kate, Mrs Conroy đã đến rồi đây ạ.

Kate và Julia lập tức lật đật đi xuống cầu thang tối
mò. Hai bà rối rít hôn vợ Gabriel, nói chắc hẳn cô đang lạnh cóng, và hỏi
Gabriel đâu.

- Cháu đây, đúng hẹn như nhà dây thép, dì Kate! Mọi
người cứ lên trước đi. Cháu sẽ đi sau - tiếng Gabriel vọng lên từ khoảng tối
phía dưới.

Anh tiếp tục giậm chân giũ tuyết trong khi ba người
phụ nữ lên gác, cười nói, đi vào phòng để đồ của các bà. Một viền tuyết phủ
trên bờ vai áo choàng và trên mũi giày của anh, và khi những chiếc khuy áo
trượt ra cùng tiếng rin rít từ làn vải len cứng đơ vì tuyết bám, một làn không
khí lạnh cóng phả ra từ những đường xẻ và ly áo.

- Tuyết lại rơi ạ, thưa ngài Conroy? - Lily hỏi.

cô vẫn đi trước dẫn đường vào phòng xép để giúp anh
treo áo khoác. Gabriel mỉm cười trước cái cách cô nhấn tên họ anh thành ba âm
tiết[1] và liếc nhìn cô. Cô là một cô gái mảnh dẻ, cơ thể đang lớn, da
nhợt nhạt, tóc vàng. Làn khí sưởi tỏa ra trong căn phòng xép càng làm cô trông
nhợt nhạt hơn. Gabriel biết cô từ khi cô còn là một cô nhóc hay ngồi nơi bậc
thềm, ôm ấp con búp bê nhồi vải vụn.

[1]
Lily nói với giọng của người ít học, cô phát âm tên Conroy thành Con-er-roy
.

- Phải Lily ạ - anh trả lời - và tôi nghĩ tuyết còn
tiếp tục rơi hết đêm nữa.

Anh ngước nhìn lên trần nhà, nó đang rung nhẹ dưới
những bước giậm đôi chân theo nhịp nhảy trên lầu, lắng nghe tiếng đàn piano một
lúc và rồi nhìn sang cô gái, cô đang cẩn thận gấp áo khoác của anh để vào dưới
giá.

- Nói cho tôi biết nào, Lily - anh nói, giọng thân
mật - cô còn đi học không?

- Ôi không, thưa ông - cô trả lời - Tôi học xong đã
hơn năm nay rồi.

- Ồ, thế thì - Gabriel nói một cách vui sướng - chắc
chẳng mấy chốc chúng ta sẽ được dự cưới của cô với một anh chàng trẻ tuổi, phải
không?

Cô gái liếc lại anh qua vai và nói với một giọng cực
kỳ chua cay:

- Đàn ông bây giờ chỉ toàn lũ tán tỉnh vớ vẩn để lợi
dụng thôi.

Gabriel đỏ mặt, cảm thấy như anh vừa phạm phải sai
lầm và, không nhìn cô, đẩy tuột ủng cao su ra khỏi chân và lấy bao tay chăm chú
phủi đôi giày da bóng của anh.

Anh là một người đàn ông trẻ đẫy đà, khá cao. Sắc
hồng hào trên má anh lan lên tận trán, ở đó nó nhạt dần đi thành những khoảng
đỏ nhạt, và trên khuôn mặt nhẵn nhụi của anh lóe lên đôi mắt kính bóng loáng
trong cái gọng lấp lánh, ẩn đàng sau là đôi mắt thanh tú và tinh nhanh. Mái tóc
đen bóng mượt được rẽ ngôi giữa và chải dài uốn phía sau tai, hơi lượn theo nếp
mũ.

Khi đã làm cho đôi giày bóng lộn, anh đứng dậy, chỉnh
áo gi lê sát hơn vào thân hình mập mạp của mình. Rồi anh rút nhanh một đồng xu
khỏi túi.

- Lily à - anh nói, giúi nó vào tay cô - Giáng sinh
đến rồi, đúng không nào? Chỉ là... đây là một chút...

Anh bước vội về phía cửa.

- Ôi không, thưa ông! - cô gái kêu lên, đi theo anh
- Thật sự, thưa ông, tôi không thể nhận nó.

- Giáng sinh! Giáng sinh mà! - Gabriel nói, gần như
chạy về phía cầu thang, khoát khoát tay nài cô.

Cô gái thấy anh đã bước lên mấy bậc cầu thang bèn
gọi với theo:

- Vâng, cảm ơn ông vậy, thưa ông.

Anh chờ bên ngoài cửa phòng khiêu vũ cho đến khi
điệu valse kết thúc, lắng nghe tiếng váy áo sột soạt chạm sau cánh cửa và tiếng
chân đổi nhịp. Anh vẫn còn bối rối bởi lời bẻ lại chua cay của cô gái. Nó phủ
một bóng đen lên tâm trí anh và anh phải cố gắng xua đuổi nó bằng cách sửa lại
ống tay áo và cái nơ trên cổ. Rồi anh lấy từ túi áo gi lê một mảnh giấy và nhìn
qua những ý chính chuẩn bị cho bài diễn văn. Anh không chắc lắm có nên để lại
phần thơ của Robert Browning không, bởi anh sợ chúng vượt quá trình độ người
nghe. Trích câu nào đó từ Shakepeare hay từ tập Những giai điệu[2]
họ có thể nhận ra được thì có lẽ tốt hơn. Tiếng gót giày lộp cộp thô kệch và
tiếng đế giày lê loẹt xoẹt từ trong vọng ra nhắc anh nhớ lại vốn văn hóa của họ
khác với của anh. Anh chỉ tổ biến mình thành lố bịch nếu trích những vần thơ mà
họ không thể hiểu. Họ sẽ nghĩ anh đang khoe khoang học vấn cao của mình. Anh sẽ
thất bại với họ giọng như anh vừa thất bại với cô gái trong phòng để đồ kia. Anh
đã lựa chọn một tông sai lầm. Toàn bộ bài nói của anh sẽ là một sai lầm, từ câu
đầu tiên đến câu cuối cùng, một thất bại hoàn toàn.

[2]
Những giai điệu Ireland - tên tập thơ của Thomas Moore.

Vừa lúc đó các dì và vợ anh bước ra khỏi phòng để đồ
của quý bà. Các dì của anh là hai bà già bé nhỏ, ăn vận giản dị. Dì Julia cao
hơn khoảng hai, ba phân gì đó. Tóc dì, để trễ phủ trên vành tai, đã chuyển sang
màu xám, và cũng một màu xám, với sắc đậm hơn một chút, là khuôn mặt to bè, nhão
nhợt của dì. Mặc dù có dáng người cao lớn và đứng rất thẳng, đôi mắt lờ đờ và
đôi môi mở trễ của dì tạo ấn tượng một phụ nữ không biết mình đang ở đâu hoặc
không biết mình đang đi đâu. Dì Kate thì lanh lợi hơn. Mặt dì, khỏe mạnh hơn
mặt bà chị, nhưng cũng nhăn nhúm nhàu nhĩ, như một quả táo đỏ quắt queo, và tóc
dì, cũng được tết theo kiểu trễ lỗi mốt đó, may chưa bị mất đi màu nâu sẫm.

Cả hai đều hôn Gabriel nồng nhiệt. Anh là đứa cháu
cưng của họ, con trai người chị đã quá cố của họ, Ellen, người lấy T. J. Conroy
ở Sở Cầu Cảng.

- Gretta bảo dì đêm nay hai đứa sẽ chưa gọi xe về
Monkstown ngay, đúng không Gabriel? - dì Kate nói.

- Vâng - Gabriel nói, quay sang vợ - Năm ngoái mình
đã chịu quá đủ, phải không? Dì không nhớ sao, dì Kate, Gretta đã bị một trận
cảm? Cửa xe ngựa thì rung bần bật suốt dọc đường, và khi chúng cháu đến Merrion
thì gió mùa đông bắc bắt đầu nổi lên. Quả là một lần ra trò. Gretta đã bị cảm
gần chết.

Dì Kate nhíu mày nghiêm trang và gật gật đầu khi
nghe từng từ.

- Thế thì lần này cháu quyết định đúng đấy Gabriel, rất
đúng - dì nói - Cẩn thận thế là hơn.

- Nhưng Gretta ấy à - Gabriel nói - Nếu để cô ấy tự
quyết thì dù có tuyết đi nữa cô ấy cũng vẫn sẵn lòng đi bộ về thôi.

Mrs Conroy cười phá lên.

- Đừng có nghe anh ấy, dì Kate - cô nói - Anh ấy thì
chỉ giỏi đi phá phách trêu ghẹo người khác, có lần anh ấy đổi chụp đèn trong
phòng Tom sang màu xanh lá cây khiến nó mất ngủ cả đêm, rồi lại còn bắt nó tập
tạ nữa. Rồi thì ép Eva phải ăn cháo yến mạch bằng được. Khổ thân con bé! Nó chỉ
cần nhìn thấy món đấy là đã tá hỏa rồi! Và trời ạ, các dì sẽ không thể tưởng
tượng được anh ấy toàn bắt cháu mặc những thứ gì đâu!

Cô cười giòn giã và quay sang chồng mình, từ nãy đến
giờ anh vẫn ngắm nhìn đầy ngưỡng mộ và hạnh phúc bộ váy của cô, gương mặt, mái
tóc của cô. Hai bà dì cũng cười sung sướng, bởi chuyện cô lập Gabriel thế này
thật là một trò vui nhộn.

- Ủng cao su! - Mrs Conroy nói - Đấy là thứ gần đây
nhất. Mỗi khi trời đất ẩm ướt là cháu lại phải đi ủng cao su. Ngay cả tối nay
cũng thế, anh ấy bắt cháu phải đi, nhưng cháu không chịu. Chắc chắn thứ tiếp theo
anh ấy mua cho cháu sẽ là một bộ đồ lặn!

Gabriel cười ngượng nghịu và vuốt vuốt cái nơ trên
cổ, trong khi dì Kate thì cười nhiều đến nỗi gần đứt hơi, dì thích chuyện đùa
này quá. Nụ cười nhanh chóng biến mặt trên khuôn mặt dì Julia và đôi mắt buồn
rầu của bà hướng về phía thẳng cháu. Ngập ngừng một lúc bà hỏi:

- Thế ủng cao su là cái gì, hở Gabriel?

- Ủng cao su ấy, chị Julia! - bà em kêu lên - Lạy
Chúa tôi! Chẳng nhẽ chị không biết ủng cao su là gì ư? Người ta đi chúng bên
ngoài... bên ngoài giày, có phải không, Gretta?

- Dạ phải - Mrs Conroy nói - Kiểu giày làm bằng nhựa
két ấy dì. Cả hai vợ chồng cháu giờ mỗi người đều có một đôi. Anh Gabriel nói
giờ ở Lục địa ai cũng đi kiểu này hết.

- À, ở Lục địa - dì Julia lẩm bẩm, chậm rãi gất đầu.

Gabriel nhíu mày lại và nói, như thể anh đang thấy
khá bực mình:

- Thật ra cũng chẳng có gì to tát lắm, nhưng Gretta
thì nghĩ rằng chúng buồn cười vì cô ấy nói tên chúng gợi nhớ về Christy
Minstrels[3].

[3]
Tên đoàn hát rất nổi tiếng của Mỹ nửa đầu thế kỷ XIX của Edwin Pearce Chirsty
(1815-1862), đưa ra các buổi diễn trong đó diễn viên da trắng bôi mặt hóa trang
thành người da đen. Vào đầu thế kỷ XX bất cứ một buổi diễn nào có sự xuất hiện
của diễn viên hóa trang mặt đen đều được gọi là một buổi Christy Minstrels
(Gifford. Brown).

- Nhưng nói cho dì hay, Gabriel - dì Kate khéo léo
chuyển chủ đề - chắc chắn bọn cháu sẽ thuê khách sạn ở lại chứ. Gretta vừa mới
nói...

- À vâng, chuyện khách sạ nxong hết rồi - Gabriel
đáp - Cháu đã lấy một phòng ở Gresham.

- Chắc chắn rồi - dì Kate nói - làm thế là hợp lý
nhất đấy. Còn lũ trẻ thì sao, không có gì phải lo lắng chứ, hở Gretta?

- Ô, chỉ có một đêm thôi mà dì - Mrs Conroy nói - vả
lại có Bessie trông chúng mà.

- Chắc chắn rồi - dì Kate nhắc lại - Có được một cô
giúp việc như thế đúng là tốt quá, một cô tin tưởng được! Còn Lily nhà này ấy à,
dì chắc dạo này nó có chuyện gì ấy, nó chẳng giống trước gì cả.

Gabriel vừa định hỏi dì anh mấy câu về chuyện này, thì
bà đột nhiên quay ngoắt nhìn theo bà chị, bà này đã đi xuống cầu thang và đang
nghển cổ qua lan can.

- Nào, nhưng mà xem kìa - bà nói với một giọng gần
như là gắt gỏng - Julia đang đi đâu thế kia? Julia! Julia! Chị đi đâu đấy?

Julia, đã đi xuống hết một nửa cầu thang, giờ đang
quay trở lại và nhẹ nhàng thông báo;

- Freddy đến đấy.

Đúng lúc đó vọng lại một tràng vỗ tay và tiếng piano
lên cao những nốt cuối cùng báo hiệu điệu valse kết thúc. Cánh cửa phòng khách
mở rộng và một vài cặp khiêu vũ đi ra. Dì Kate vội kéo Gabriel sang một bên và
thầm thì vào tai anh:

- Xuống đấy họ dì, Gabriel, cứ đón cậu ta như bình
thường xem cậu ta có ổn không, nhưng đừng để cậu ta lên nếu cậu ta đang say xỉn.
Dì chắc thế nào hắn chả đang bí tỉ. Chắc chắn là thế.

Gabriel đi ra chỗ cầu thang và lắng tai nghe qua
hàng lan can. Có hai người đang nói chuyện với nhau trong phòng giữ đồ. Rồi anh
nhận ra tiếng cười của Freddy Malins. Anh bèn đi xuống, lần này cố tình phát ra
tiếng động.

- Quả thật là nhẹ cả người - dì Kate nói với Mrs
Conroy - may quá có Gabriel ở đây. Dì luôn cảm thấy yên tâm hơn mỗi khi có nó...
Chị Julia, chị mời Miss Daly và Miss Power nghỉ giải lao ăn uống chút gì đó nhé.
Cảm ơn cô, Miss Daly, cô đàn bản valse đó hay quá. Bản nhạc làm buổi tối nay
thật tuyệt.

Một người đàn ông dong dỏng, gương mặt đầy nếp nhăn,
hàng ria màu xám và làn da ngăm ngăm, đang đi ngang qua với bạn nhảy, bèn nói:

- Liệu chúng tôi cũng được nghỉ giải lao ăn uống chứ,
Miss Morkan?

- Chị Julia - dì Kate nói ngắn gọn - cả Mr Browne và
Miss Furlong đây nữa. Đưa họ vào cùng Miss Daly và Miss Power nhé.

- Tôi được sinh ra để dành cho các quý bà - Mr
Browne nói, mím môi lại đến khi hàng ria của ông ta dựng đứng và mỉm cười làm
nhăn nheo hết khuôn mặt - Bà biết đấy, Miss Morkan, lý do khiến họ mê tôi
nhường ấy là...

Ông ta không nói hết câu, vì thấy dì Kate không nghe
nữa, bèn ngay lập tức dẫn ba quý cô vào phòng khách phía sau. Chính giữa căn
phòng là hai chiếc bàn hình vuông kê sát nhau, và dì Julia và người gác cổng
đang vuốt thẳng tấm khăn bàn phủ bên trên. Trên cái bàn hẹp kê sát tường là
những chồng đĩa, ly cốc và những bó dao đĩa thìa ngay ngắn. Chiếc piano sau khi
đóng nắp lại cũng được biến thành mặt bàn để đồ ăn và bánh trái. Phía chiếc bàn
nhỏ kê trong góc, hai người đàn ông trẻ đang đứng uống hopbitter[4].

[4]
Bia màu vàng, vị ngọt.

Mr Browne dẫn bầu đoàn của ông ta tiến về hướng đó
và mời tất cả bọn họ, với một giọng nhả nhớt, hày uống chút rượu punch của quý
bà, thật nóng, thật mạnh và thật ngọt nhé. Khi họ nói là không bao giờ uống
rượu mạnh ông ta bèn mở ba chai nước chanh cho họ. Rồi ông ta bảo một trong hai
người đàn ông trẻ kia dịch ra một chút, và, nâng bình lên, tự rót cho mình một
ly whisky kha khá. Hai chàng trai nhìn ông ta một cách ngưỡng mộ trong khi ông
ta nhấp một ngụm.

- Chúa lòng lành - ông ta nói, mỉm cười - Đây là đơn
thuốc của bác sĩ đấy.

Khuôn mặt nhăn nhúm của ông ta nứt ra một nụ cười, và
ba quý cô khúc khích trước câu đùa, đung đưa người, vai thỉnh thoảng lại rung
rung hồi hộp. Người can đảm nhất nói:

- Ô không, ngài Browne, tôi chắc bác sĩ không đời
nào lại kê một đơn thuốc như vậy đâu.

Mr Browne nhấp một ngụm whisky nữa và lấy giọng dí
dỏm:

- Ấy chớ, các cô thấy đấy, tôi là tôi giống Mrs
Cassidy một thời lừng lẫy, nó ntừng được đồn đại là đã nói thế này: thôi nào, Mary
Grimes, nếu đơn thuốc của tôi không như thế, hãy làm cho nó thành như thế, bởi
tôi cảm thấy tôi rất cần như thế. [5]

[5]
Mrs Cassidy và Mary Grimes: Gifford cho rằng có thể đây là hai nhân vật hư cấu
trong các truyện cười của Ireland.

Khuôn mặt nóng hổi của ông ta vươn ra sát các quý cô
một cách hơi quá tự tin và ông ta đã lấy một chất giọng Dublin vô cùng hạ đẳng
khiến các quý cô giật mình cảnh giác và lặng thinh không hưởng ứng ông ta nữa. Miss
Furlong, một học trò của Mary Jane, hỏi Miss Daly bản valse tuyệt hay cô vừa
chơi tên là gì và Mr Browne, thấy rằng mình đang bị lờ đi, bèn quay phắt sang
hai chàng trai, họ có vẻ sẵn sàng đón nhận ông ta hơn.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3