Loạn Thế Anh Hùng (Tập 2) - Nhất giải - Phần 02

Thẩm Phóng nghe mà lòng bội phục, thầm nhủ: Xét cho cùng, lão giang hồ quả là có tác phong của lão giang hồ. Tiêu Tứ Ẩn lại càng cẩn thận, chỉ sợ có mấy người Vương Mộc với Kim hòa thượng thì không gánh nổi trọng trách bảo vệ tiêu hàng, bèn đi theo đám Vương Mộc, chỉ có Thẩm Phóng, Kinh Tam Nương cùng Đỗ Hoài Sơn đi tới Túy Nhan các trước để dò hỏi tin tức.

Ba người còn chưa tới Túy Nhan các, Đỗ Hoài Sơn trông thấy bên đường có một quán ăn nhỏ, liền dừng bước, cười, nói với Thẩm Phóng: “Chúng ta ăn chút gì trước đã nhé?”

Thẩm Phóng hơi ngạc nhiên, thầm nghĩ: Túy Nhan các là tửu lâu, tới đó còn lo không có đồ ăn sao? Sao lại phải tìm một quán nhỏ bên đường để ăn trước? Xem ra nghĩa quân Hoài Thượng thật tiết kiệm. Hắn còn đang nghĩ ngợi, Đỗ Hoài Sơn đã rẽ vào trước, dùng giọng Hoài Thượng dặn chủ quán làm ba bát mì, lại gọi thêm vài món nhắm. Tam Nương Tử kết tóc với Thẩm Phóng đã chục năm, biết tỏng tâm tư của hắn, vừa nhìn sắc mặt hắn đã rõ hắn nghĩ lầm, mới thấp giọng cười, nhắc: “Lão chẳng phải vì tiết kiệm đâu. Đỗ Hoài Sơn là lão cáo già, trước nay chỉ bày hố cho người khác, sợ nhất là bước vào cái bẫy do người khác bày ra, cho nên lão nhất định phải nghe ngóng tình thế đại khái trong Túy Nhan các trước rồi mới chịu đi tiếp. Giang hồ hiểm ác, nói không chừng lại có chuyện gì... Xem ra, một dải Thư thành này cũng không phải nằm trong phạm vi thế lực của bọn họ, nếu không đã chẳng phải cẩn thận thế này. Ý tứ của lão chính là nếu có đánh nhau thì cũng phải ăn cơm cho có sức trước đã.”

Thẩm Phóng bật cười, nghĩ thầm, mấy thứ thói người lẽ việc, chiêu trò quỷ quái này thật không qua nổi mắt nương tử của mình. Thế rồi hắn kéo tay áo Tam Nương, cùng vào ngồi. Đỗ Hoài Sơn bên kia cũng đã gọi món xong, cười, nói với Thẩm Phóng: “Thẩm huynh vốn không chê nghĩa quân Hoài Bắc bọn tôi nghèo khổ, chịu gia nhập tương trợ, đáng lẽ tiểu lão nhi nên liệu đường mà mời vợ chồng Thẩm huynh một chén, nhưng giang hồ quỷ dị, không thể không đề phòng, với lại tôi có tiếng là cáo già, đã quen giảo hoạt, ba bát mì này coi như là rượu mừng Thẩm huynh gia nhập đi, Thẩm huynh chớ hiềm sơ sài.” Miệng nói, ánh mắt lão lại hiện ý cười mà nhìn Tam Nương.

Tam Nương không ngờ lão đầu này đã già nhưng tai lại thính thế, mặt hơi đỏ, có chút xấu hổ, thấy Đỗ Hoài Sơn không hề có ý trách cứ, ngược lại còn tỏ thái độ hài hước, rộng rãi, biết lão không giận, nàng mới yên lòng, thầm nhủ: Lão đầu này cũng không phải chỉ có mỗi bộ mặt âm trầm, xét ra vẫn có khá nhiều chỗ đáng yêu. Ba người cùng nhau ăn, quán nhỏ này chẳng mấy nhộn nhịp, khách không nhiều, nhà chủ cũng không bận rộn. Đỗ Hoài Sơn vốn nóng lòng chạy tới Túy Nhan các nhưng bây giờ lại không gấp, không vội, ăn xong mì cũng chẳng lên đường ngay mà câu được câu chăng chuyện trò với tiểu nhị.

Chỉ nghe Đỗ Hoài Sơn cười, hỏi: “Nhớ năm xưa, chỗ các vị có Túy Nhan các khá là được, nấu được rượu ngon, giờ có còn không?”

Tiểu nhị kia cười, đáp: “Tên tuổi mấy chục năm, đương nhiên vẫn còn, sao có thể bảo không còn là không còn luôn được?”

Đỗ Hoài Sơn cười. “Chỗ đó thực là một nơi thú vị, dạo gần đây có chuyện gì mới mẻ, hay ho không, nói nghe coi! Ta nhớ ở đó thường có nhiều chuyện mới mẻ nhất đấy!”

Cũng đúng, tửu lâu trà quán vốn là nơi có nhiều tin tức mới mẻ nhất. Tiểu nhị nọ cũng vui tính, chớp chớp mắt, nói đùa: “Lão nhân gia người thọ đà bao nhiêu rồi?”

Đỗ Hoài Sơn cười híp mắt, đáp: “Sáu mươi sáu.”

Tiểu nhị nọ tiếc rẻ, thở dài một tiếng. “Đáng tiếc, lão nhân gia ngài đến muộn mất rồi.”

Sâu trong đôi mắt tươi cười của Đỗ Hoài Sơn chợt hiện tia sắc bén. “Sao lại thế?”

Tiểu nhị cười, đáp: “Nếu lão nhân gia ngài tới sớm vài năm, trẻ lại vài tuổi thì đảm bảo sẽ cảm thấy tới Túy Nhan các kia đúng là không uổng, sẽ gặp được người ngài muốn gặp. Hắc hắc, không phải tôi trêu chọc ngài, ngài chớ giận, hồi ấy chỉ e bảo ngài giao cái mạng cho người ta, ngài cũng đồng ý ấy chứ!”

Khuôn mặt tươi cười của tiểu nhị nọ khá ám muội, lời nói ra như có ý mà như vô tình, nhưng lọt vào tai kẻ đi lại trên giang hồ đã lâu, sống đời đầu đao mũi kiếm đã thạo như Đỗ Hoài Sơn thì đương nhiên có ý nghĩa khác. Tới Thẩm Phóng cũng ngạc nhiên, không rõ rốt cuộc tiểu nhị kia có ý gì. Tam Nương không kìm được chăm chú nhìn thẳng vào tiểu nhị nọ, đôi mắt nàng trong trẻo, sáng ngời, có thể nói là từng xem qua vô số người rồi nhưng cũng không nhìn ra hàm nghĩa đằng sau vẻ tươi cười của tiểu nhị này. Đỗ Hoài Sơn lại càng hồ nghi, nhưng lão có tính cẩn thận trời sinh, thấy tiểu nhị này trong lời có hàm ý, không chịu nói rõ, lão cũng không hỏi sâu thêm, chỉ làm như thuận miệng hỏi: “Túy Nhan các kia còn việc gì khác hay ho không?”

Tiểu nhị nọ cười, đáp: “Còn, nghe bảo lão gia tử của Lỗ gia giàu nhất đám thương nhân Huy Châu bọn tôi cũng tới đó, đây hẳn được xem là tin tức mới chứ?” Sau đó, gã lại rề rà nói: “Ngoài ra, mấy ngày nay trong Túy Nhan các, sáng nào cũng vọng ra tiếng đàn. Có một người tới đó đánh đàn, không uống rượu, cũng chẳng ăn cơm, hình như là khách của Lỗ lão gia, hai người này lại chẳng nói chuyện với nhau, ngài bảo có lạ không?”

Đỗ Hoài Sơn nhìn chằm chằm tiểu nhị kia, mỗi câu của gã tựa như đều có can hệ rất lớn nhưng lại không nhận ra được là gã cố ý hay vô tình. Tới lúc này, Đỗ Hoài Sơn cũng không tiện ngồi thêm, liền trả tiền, nói: “Quấy rầy rồi!” rồi cùng Thẩm Phóng và Tam Nương đứng dậy rời đi.

Ra khỏi cửa tiệm, rẽ vào một góc phố, Đỗ Hoài Sơn liền trông thấy một hán tử hộ tiêu mà Tiêu Tứ Ẩn phái tới đang đứng đợi bên đường, bèn vẫy tay gọi gã lại, thấp giọng sai phái: “Trở về báo với Tiêu lão gia tử, nơi này chỉ e có điều cổ quái, bảo lão cẩn thận mọi sự, ngoài ra, phái thêm người tới đợi tin của ta!”

Hán tử kia “dạ” một tiếng rồi rời đi. Bấy giờ Thẩm Phóng mới hỏi: “Đỗ lão, bây giờ chúng ta có tới Túy Nhan các nữa không?”

Đỗ Hoài Sơn chỉnh lại nét mặt. “Đi, sao lại không đi? Tôi muốn xem xem là kẻ nào mà đáng để lão Đỗ này giao mạng cho hắn, hắc hắc!” Tuy miệng lão nói thế nhưng trong lòng lại đang lo cho một người, không khỏi cất bước đi đầu.

Túy Nhan các là một tòa lầu cổ có kết cấu tinh xảo, đẹp đẽ. Cả tòa lầu được dựng bằng gỗ, tuy có chỗ màu sơn đã bạc nhưng từng phòng, từng tòa đều được làm vô cùng tỉ mỉ. Toàn bộ tòa lầu không lớn, bên trong men theo hành lang mà đi, lại có chỗ quẹo ngoặt, tạo thêm cảm giác hiên vườn thâm u. Tiểu nhị đón bọn họ lên lầu hai, tửu lâu này cũng chỉ có hai tầng, cửa ở ba mặt lầu hai vây thành một hành lang uốn khúc ở lưng chừng, ở giữa là một cái giếng trời thông thẳng xuống lầu một. Ánh nắng soi xuống, bóng xuyên qua khe cửa, cả tòa lầu mang một vẻ tĩnh lặng khôn tả, hoàn toàn không có không khí ồn ào của tửu lâu thông thường. Thẩm Phóng hỏi tiểu nhị: “Ít khách thế này, tửu lâu của các ngươi làm sao mà tiếp tục mở cửa được?”

Tiểu nhị nọ vừa lau bàn vừa cười, đáp: “Khách quan không thích yên tĩnh sao? Mà đúng là tửu lâu của chúng tôi ít khách thật. Thư thành vốn đã nhỏ, lại chẳng phải nơi giao thông trọng yếu gì, cho nên khách càng ít. Chỉ vì tòa tửu lâu này do Bùi Thượng thư hồi lập quốc của triều ta thuê thợ giỏi thầy khéo dựng cho nên ở một dải Hoán Nam cũng rất có danh tiếng. Không giấu khách quan, thật ra tửu lâu này của chúng tôi chủ yếu chỉ phục vụ một người, chính là Lỗ lão gia danh tiếng vang dội ở chỗ chúng tôi đây. Vừa hay Lỗ lão gia thích yên tĩnh, cũng dặn rằng ngài thích sự thanh tĩnh, ông chủ chúng tôi liền chấp nhận thà ít khách cũng được. Lỗ lão gia kia vốn là đệ nhất phú thương ở nơi này, không phải giàu nhất cả nước thì chí ít cũng giàu nhất bảy tỉnh. Ông ấy thích nhất phòng ở chỗ chúng tôi, đã dặn phải giữ gìn cho tốt. Mà một năm ông ấy tới được mấy lần chứ? Nhưng lần nào tới cũng thưởng rất nhiều, cho nên bằng vào mấy lần ấy, chỉ cần một vị khách như ông ấy cũng đủ để nuôi sống tửu lâu này rồi.”

Thẩm Phóng kêu “oa” một tiếng. Chẳng giống hắn - kẻ hoàn toàn không có tâm cơ gì - Đỗ Hoài Sơn với Tam Nương vừa vào liền quan sát khắp xung quanh, liệu xem nếu có chuyện gì thì chỗ nào tiến được, chỗ nào lui được, chỗ nào có thể công, chỗ nào thì nên thủ. Ba người vừa mới ăn mì, lúc này chỉ gọi trà. Trà Lục An là thứ nổi tiếng ở nơi này, lúc khói trà bốc lên, tiểu nhị liền lui xuống. Vài ngày nay, mấy người họ vất vả suốt, chẳng dễ dàng gì mới tới được đích, cộng thêm sự tĩnh lặng đột ngột này, thật khiến cho người ta không sao quen nổi. Nhất thời cũng không có gì để nói, tâm tình vốn đang dâng tràn, uống mấy hớp trà, chợt như vơi đi rất nhiều.

Thẩm Phóng đang nghĩ không biết Dịch tiên sinh kia là người thế nào, sẽ phái ai tới nhận xe hàng? Suốt chuyến đi, đặc biệt là sau khi qua sông, đâu đâu cũng có tai mắt của hội Đỗ Hoài Sơn, không chỉ thông báo tin tức mà còn có lương tiền qua lại, đất Sào Hồ này xem ra chính là hậu phương lớn của Hoài Thượng. Lúc này hàng hóa mà Đỗ Hoài Sơn áp tải đã không chỉ là thứ Lạc Hàn tặng. Trừ hai chục vạn lượng bạc có dư đổi thành vàng ngọc ra, dọc đường Đỗ Hoài Sơn còn thu thêm mấy chục bao bạc, tính ra cũng khoảng dăm ba vạn lượng, đều là tiền dọc đường được tai mắt nghĩa quân cũng như trăm họ dân gian thật tâm quyên tặng. Thẩm Phóng không khỏi ngầm bội phục vị Dịch Bôi Tửu kia: Đất Hoài Thượng được người này cày xới tỉ mỉ nhường này, đủ để thấy công sức bỏ ra. Chẳng rõ người này qua lại thế nào với Lỗ lão gia?

Ở một dải Sào Hồ, thanh danh của người này có vẻ vang xa. Dọc đường đi, Thẩm Phóng nghe người khác nhắc tới tên người đó không dưới năm, sáu lần, trong giọng nói đều có vẻ kính trọng. Một đường từ Trữ Châu tới đây, trên mọi phố lớn trấn to dọc đường, gần như nơi nào Thẩm Phóng cũng thấy có bảng hiệu “Thông Tế tiền trang”, còn có cả “Thông Tế dược phòng”, “Thông Tế khách điếm”, ắt hẳn đều do một nhà bỏ vốn. Tuy trước đây Thẩm Phóng từng nghe tên người này nhưng không ngờ việc làm ăn của lão lại hưng vượng đến vậy.

Vị Lỗ lão gia này nghe nói họ Lỗ tên Tiêu, tên chữ là Cuồng Triều, thương nhân đất Huy nổi tiếng khắp thiên hạ, nghe nói một nửa thương nhân của Huy Châu vay tiền vốn của lão để làm ăn, có thể tưởng tượng ra mức độ giàu có của lão. Khi ấy, hai nước Tống - Kim chia thiên hạ, duy chỉ có ngân phiếu trong tiền trang của lão là có thể lưu thông ở cả hai bên. Việc làm ăn chủ yếu của lão chỉ có một, chính là Thông Tế tiền trang nức tiếng thiên hạ. Lão chia tiền trang thành Bắc trang và Nam trang, xử lý việc làm ăn ở hai nước. Nghe nói triều đình Nam Tống xây đê biển ở Tiền Đường cũng phải có qua lại tiền bạc với lão, thật xứng danh gia tài bạc vạn, giàu ngang một nước. Thẩm Phóng đang mải nghĩ, chợt thấy tiểu nhị kia đem nước sôi tới, châm thêm nước rồi cười, nói với Thẩm Phóng: “Khách quan chẳng phải chê yên tĩnh sao? Sắp náo nhiệt tới nơi rồi, có một đám sứ Kim quá cảnh, Ngô Huyện lệnh của bản huyện muốn đích thân khoản đãi, nha phiếu của nha môn vừa được đưa tới, lát nữa Ngô Huyện lệnh sẽ tới đây đón khách, thu xếp chỗ ngồi ở ngay hành lang đối diện với chỗ của các vị, tới lúc ấy chỉ e còn phải diễn đàn nhạc, mời ca kỹ, chốc nữa thôi là ồn ào rồi.”

Thẩm Phóng biết gã có lòng tốt, liền cười với gã, thầm nghĩ: Cái người mà viên tiểu nhị lúc nãy nói Đỗ Hoài Sơn vừa gặp thì sẽ cam tâm giao mạng mình ở đâu nhỉ? Chắc không phải chỉ là một câu nói đùa đấy chứ!

Một lúc sau, quả nhiên bên ngoài lâu vọng vào tiếng ồn ào. Bố cục của tửu lâu này không giống bình thường, cách với đường lớn ngoài cửa một con ngõ nhỏ, như có ý giữa chốn ồn ã tìm lấy cái tĩnh lặng, giữa lầu chính với con ngõ nhỏ ấy lại cách một bức tường ngăn, sau tường vẫn còn một quãng dăm ba chục bước chân nữa. Cứ như vậy, tiếng ồn ào từ đường lớn truyền vào ngõ nhỏ, truyền vào cửa, vào tiểu viện rồi mới dần vọng tới tửu lâu. Thẩm Phóng và Tam Nương muốn nhìn xem rốt cuộc là ai mà ồn ào thế, bèn chăm chú ngóng nhìn, chỉ thấy đằng trước có ba, bốn nha dịch mở đường, mình mặc áo đen, đầu đội mũ công sai, khá uy phong. Kế đó là một sư gia mình bận áo lụa, vừa vào đã đảo mắt xem xét trên dưới cả tòa tửu lâu. Tiếp đó mới là Huyện lệnh. Vị Huyện lệnh này độ ngoài ba mươi, da trắng bóc, mang bộ dạng điển hình của thư sinh Nam triều, vừa vào cửa đã cung kính đưa tay mời khách. Khách khứa lũ lượt kéo vào, có đến hơn hai chục người, đều ăn mặc kiểu Bắc triều, tiết trời còn chưa quá lạnh mà bọn họ đã đeo thêm mấy thứ da, lông trên mũ. Người đứng trước có dáng vẻ vênh váo, cử chỉ ngang tàng, hình như là trưởng đoàn, hắn xem xét tửu lâu này rất kĩ, cứ gặp những chỗ tạc hoa khắc gỗ, hoa văn tinh xảo là dừng bước ngắm nghía. Đến cả chỗ đầu gỗ nối ghép cũng thường khiến hắn phải tán thán. Tiếng Hán của gã tuy cứng nhưng vẫn lưu loát, chỉ nghe gã nói với người Kim bên cạnh mấy câu tiếng Kim rồi mới dùng tiếng Hán nói với Huyện lệnh rằng: “Người Nam đánh nhau kém nhưng thợ thủ công thì thật ưu tú.”

Huyện lệnh nọ rất mực văn nhã, đưa tay mời khách lên tầng hai, vừa hay chênh chếch đối diện với chỗ ba người Thẩm Phóng, cách cái giếng trời, đôi bên có thể nhìn rõ nhau. Người bên đó ồn ào chiếm cả một đoạn hành lang nhưng chẳng có hứng thú gì với ba người Thẩm Phóng bên này. Đám tiểu nhị trong Túy Nhan các nhàn tản quen rồi, vốn trước nay ít khách, bây giờ bỗng lắm người tới thế này, lại là khách của Huyện lệnh, bọn họ nhất thời náo loạn. Hồi lâu sau, ba mươi mấy người bên kia mới coi như an tọa, bấy giờ rượu mới được mang lên. Người Kim dường như không quen uống món rượu Khổ Tô nổi tiếng ở đây, ai nấy nhíu mày, kêu ầm lên: “Nhạt, nhạt quá!”

Chỉ nghe viên quan huyện nọ cười, nói: “Đây là rượu của người Nam chúng tôi, vị không mạnh nhưng dư âm kéo dài, vào miệng hơi đắng nhưng hay ở chỗ trong đắng có ngọt. Bá Nhan đại nhân vốn hào sảng, hẳn là uống không quen, để tôi bảo họ đem đổi rượu. Có điều, nếu đại nhân có thể kiên nhẫn thưởng thức, hẳn sẽ cảm nhận được một thứ ý vị khác.”

Viên quan nhà Kim được gọi là Bá Nhan nọ không ngờ lại nghe theo lời khuyên của Huyện lệnh, nhâm nhi hai ngụm, cười, nói: “Người Nam các ông chỉ giỏi làm ra mấy thứ lằng nhằng quanh co, đến rượu mà cũng phải xét dư vị. Theo ta thấy, là do cổ họng các người mềm, chẳng chịu nổi hơi rượu mạnh, không như người Kim bọn ta, uống rượu mà lớn, thế mới là anh hùng thật sự, các người cái gì cũng phải làm mềm trước rồi mới nói.” Nói xong, gã quay đầu dặn viên quan người Kim sau lưng: “Nhớ khi nào quay về phải bảo sứ thần Nam triều đem cái kẻ chế ra rượu Khổ Tô với đám thợ dựng Túy Nhan các này đến cho Hoàng đế chúng ta.”

Nói rồi, gã cười ha ha, bảo: “Không sai, rượu này quả có chút hương vị, cơ mà người Nam các ông có khéo hơn nữa thì cũng có tác dụng gì? Nếu không đủ mạnh, đồ có tinh xảo hơn cũng chỉ để đem cho chúng ta dùng thôi.”

Nghe lời này của người Kim, Đỗ Hoài Sơn không khỏi nổi giận, Thẩm Phóng thì khẽ than: “Đáng tiếc, lời gã nói chẳng sai.” Không thể không nói rằng ham của lạ, thích đồ đẹp là nguyên do chính khiến người Nam Tống đớn hèn. Đám Thẩm Phóng không muốn chú ý tới bên kia nữa, để tránh tức giận. Đang định tìm chuyện mà nói, chẳng ngờ lời kế tiếp bên kia lại cứ rõ rành rành chui tọt vào tai họ. Chợt nghe Bá Nhan nói: “Có điều, trong số người Nam các ông cũng có người được đấy, lần này ta tới là vì chuyện sứ giả nhà Kim bị giết ở quán Thất Lý. Ngột Nhi Ca đại nhân cũng là một trang dũng sĩ, đấu vật, bắn tên, trước nay trong người Kim bọn ta ít có địch thủ, thế mà ông ấy cùng hai mươi mấy hộ vệ với bao nhiêu lính Tống lại bị một người giết sạch, sao Hoàng đế bọn ta chẳng nổi cơn thịnh nộ? Ta vốn cũng không tin, nhưng khi tận mắt trông thấy vết thương của bọn họ thì đúng là do một người ra tay. Cái người động thủ này thật sự là anh hùng, chỉ là chẳng biết tại sao bỗng dưng không thấy đâu nữa.”

Ngô Huyện lệnh cười bợ đỡ. “Bá Nhan đại nhân đúng là anh hùng trọng anh hùng, tấm lòng này quả thật khiến tại hạ bội phục, hẳn là triều đình đã đồng ý sai người truy xét?”

Bá Nhan cười, đáp: “Triều đình các ông giao chuyện này cho Đề kỵ, đáng tiếc là thủ lĩnh Đề kỵ lại chẳng hề chuyên tâm, ta rất không hài lòng. Bức ép thế nào, thủ lĩnh Đề kỵ vẫn không chịu trả món nợ này, chính là Tần Thừa tướng của các ông không chịu nổi áp lực của ta nên mới mời người của Văn gia Giang Nam tra xét hung thủ, rồi bảo hung thủ là kẻ thôn dã không được giáo hóa, với người trên giang hồ phải dùng cách của giang hồ. Ta lại chẳng xem trọng người của nhà họ Văn nọ, chỉ biết ám sát, hành thích, việc này bọn chúng ắt làm chẳng xong. Về sau, nghe nói bảy bộ hạ, một đồ đệ của thủ lĩnh Đề kỵ Viên lão đại cũng bị một người giết sạch, lại còn đánh trọng thương em ruột hắn, bấy giờ hắn mới tức giận mà động thủ. Bây giờ hắn tới Trấn Giang rồi ta mới yên tâm, Viên lão đại là một anh hùng, chỉ có hắn mới tóm được tên kia.”

Gã dường như hiểu rất rõ mọi chuyện ở Nam triều, tuy nói tiếng Hán còn cứng gượng nhưng đủ để biểu đạt ý tứ. Thẩm Phóng không ngờ trong triều đình lại còn uẩn khúc này. Hiện giờ áp lực của Viên lão đại dồn lên Hoài Thượng rất lớn, Thẩm Phóng cùng Đỗ Hoài Sơn không khỏi vểnh tai lắng nghe. Lại nghe sứ Kim nói: “Sao gã Lạc Hàn này không xuất hiện nữa nhỉ? Hắn với người Nam Tống tầm thường các ông rất khác nhau, người Nam các ông toàn dựa vào bạn bè thân thích của người khác để khống chế người ta, nhưng hắn hình như chẳng có bạn bè thân thích, tới cả Đề kỵ cũng tra không ra ai có quan hệ với hắn. Ta rất lo, cũng rất giận. Nếu hắn cứ một mực không chịu thò mặt, lẽ nào cái án này coi như thôi?”

Ngô Huyện lệnh chỉ giương vẻ mặt cười nhạt mà lắng nghe, tuy gã làm quan trong triều nhưng thói quen nhất quán là việc to việc nhỏ gì hễ không liên quan tới mình thì chỉ nghe để đấy, nhưng sứ nhà Kim ngược lại càng nói càng hưng phấn: “Ta mới đem lời này nói với Viên lão đại, vẫn là hắn có biện pháp, hắn chỉ hỏi ta một câu: “Ngài có biết chuyện chúng tôi bị cướp một món bạc không?” Ta gật đầu, bảo: “Biết.” Hắn hỏi tiếp: “Thế ngài có biết là ai cướp bạc không?” Ta lắc đầu, rồi lại gật đầu, không rõ Viên lão đại có thích nghe tới tên người đó không. “Nghe bảo là một kẻ tên Lạc Hàn.” Ta thấy mặt Viên lão đại âm trầm như nước, rồi hắn hỏi: “Vậy ngài có biết bạc ấy được chuyển tới đâu không?” Ta lắc đầu. Ta thấy Viên lão đại cười, bảo: “Hoài Thượng!” Lời của hắn luôn rất ngắn nhưng lại chắc chắn, khiến người ta tin tưởng. Hắn bảo: “Tuy tôi không thật chắc chắn nhưng tôi đã đoán ra hắn muốn đem bạc ấy gửi cho ai rồi, người kia cũng đang trong lúc khốn khó. Hắc hắc! Phiêu bạt khốn cùng một bôi rượu[5], thiên hạ ngày nay cũng thật sự chỉ mình hắn mới có được bằng hữu như Lạc Hàn. Hắc hắc! Vỏ tuyết kiếm băng, thanh bạch song bích! Cho nên tôi chẳng cần phí sức đi tìm Lạc Hàn, chỉ cần tuyên bố một câu: Nếu hắn không ra mặt, tôi sẽ ép Hoài Thượng. Với câu này của tôi, hắn nhất định sẽ xuất hiện.””

[5] Nguyên văn: “Linh lạc thê trì nhất bôi tửu”. Trích bài Trí tửu hành của thi nhân Lý Hạ (790-816) thời Đường.


Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3