Hậu cung Chân Hoàn truyện (Tập 4) - Chương 13 - Phần 2
Thư Quý thái phi cười tủm tỉm. “Trước đây, ta từng nghe Thanh
Nhi nhắc đến nương tử mấy lần, lần nào cũng không ngớt lời khen. Khi đó, ta chỉ
nghe rồi bỏ ngoài tai, bây giờ gặp rồi mới biết nương tử thực đẹp như tiên nữ ở
trên núi tuyết A Nặc của người Bãi Di bọn ta.”
Tích Vân cũng cười, nói: “Phải rồi, trước đây những người già
trong tộc thường hay kể, tiên nữ trên núi tuyết A Nặc là người đẹp nhất trên
thế gian đấy!”
Tôi vội nói: “Thái phi cứ khen mãi như vậy, vãn bối thực
chẳng biết giấu mặt vào đâu. Phong tư của Thái phi, Chân Hoàn cũng đã ngưỡng mộ
từ lâu rồi.”
Thái phi đưa mắt liếc qua, mỉm cười hỏi: “Chân Hoàn? Đây là
tên của nương tử sao?”
Tôi gật đầu cười, đáp: “Dạ, là khuê danh trước đây của vãn
bối.”
Thái phi gật đầu, quay sang nói với Tích Vân: “Ta đã nói rồi
mà, tên của con gái người Hán là hay nhất. Chân Hoàn, nào có như ở Bãi Di, cái
tên đều là do cha mẹ tùy ý đặt.”
Tích Vân pha trà mang tới, cười trách: “Thái phi đúng là,
nương tử đã tới đây lâu như vậy rồi mà chẳng mời lấy một chén trà, còn bắt
người ta ở ngoài hầu chuyện.”
Thư Quý thái phi bật cười vui vẻ, đưa mắt liếc qua phía thị.
“Phải rồi, phải rồi, là ta không đúng. Nhưng sao ngươi cũng chỉ đứng một bên
chẳng làm gì vậy, còn không phải là thất lễ với khách sao?”
Tôi thấy bọn họ nói cười thân mật, không hề phân chia chủ tớ,
bất giác cảm thấy thân thiết, gần gũi vô cùng, nói: “Vừa rồi vãn bối khát nước,
tùy tiện vào đây, Thái phi không những không trách tội, còn đích thân rót nước
cho vãn bối, thực đã làm vãn bối tổn thọ rồi.”
Tích Vân đưa cho tôi và Thư Quý thái phi mỗi người một chén
trà, cười nói: “Trước đây ở Bãi Di, tên của Thái phi là Di Quang, còn ta tên là
A Vân, cái tên Tích Vân này là về sau mới đổi.”
Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “Thứ cho vãn bối mạo muội,
hình như trước đây vãn bối có nghe nói phương danh của Thái phi là...” Tôi cố
sức suy nghĩ nhưng nhất thời nôn nóng không sao nhớ ra được.
Thư Quý thái phi nói: “Là Yên Nhiên, Nguyễn Yên Nhiên.” Dừng
một chút, bà ta cười, nói tiếp: “Ta vốn tên Di Quang, cái tên Yên Nhiên sau khi
tới Đại Chu mới đổi, là do tiên đế đích thân đặt cho ta.”
Tôi thấy bà ta tâm tư thẳng thắn, có gì nói nấy, ngay cả khuê
danh cũng chẳng giấu giếm, không khỏi càng cao hứng, sinh lòng muốn kết giao.
“Duyên phận giữa vãn bối và Thái phi đúng là không cạn, tạm chưa xét tới việc
hôm nay tình cờ gặp mặt, vãn bối còn có một cây đàn tên gọi Trường tương tư,
cũng chính là vật mà ngày trước Thái phi từng dùng.”
Thư Quý thái phi “ồ” lên một tiếng, hai mắt đột nhiên sáng
rực, mừng rỡ nói: “Thật thế sao?”
Tôi gật đầu, đáp: “Lúc rời cung, vãn bối chỉ mang theo duy
nhất cây đàn Trường tương tư đó, bây giờ đang để ở chùa Cam Lộ.”
Thư Quý thái phi không kìm được cất lời cảm khái: “Ngày đó
khi rời cung, ta đã để lại Trường tương tư và Trường tương thủ trong cung, chỉ
bởi vì tiên đế đã qua đời, ta có giữ lại hai thứ ấy cũng chẳng để làm gì. Không
ngờ bây giờ Trường tương tư lại ở trong tay nương tử, chắc nương tử cũng là
người tinh thông âm luật.” Bà ta nhìn tôi chăm chú. “Thoắt cái đã chia lìa hai
vật ấy mười mấy năm, nếu nương tử bằng lòng, xin hãy mang nó tới đây một
chuyến.”
Tôi áy náy nói: “Vốn nên mang nó tới cho Thái phi xem, chỉ là
mấy tháng trước, vãn bối gảy đàn không cẩn thận, đã làm đứt mất một sợi dây
đàn...”
Tôi hơi cúi đầu, thầm nghĩ Trường tương tư là vật mà Thư Quý
thái phi yêu quý, mình nhất định sẽ bị trách móc mấy câu. Thế nhưng Thư Quý
thái phi lại chỉ cười sảng khoái, hòa nhã nói: “Làm gì có ai gảy đàn mà không
làm đứt dây đàn bao giờ? Nếu nương tử tin tưởng, chi bằng hãy mang nó tới đây
cho ta xem thử, ta sẽ cố sửa lại xem.”
Tôi cả mừng, vội vàng đứng dậy. “Như vậy thì thật tốt quá!
Thái phi là chủ nhân cũ của Trường tương tư, tất nhiên biết rõ nên sửa thế
nào.”
Thái phi mím môi nói: “Tạm thời đừng cảm ơn ta vội, lối cài
dây của Trường tương tư khác với những cây đàn bình thường, muốn sửa được ít
nhất cũng cần vài ba tháng. Nếu thật sự không thể nối dây, ta phải bảo Thanh
Nhi về cung mang lông đuôi ngựa, Băng tuyết tàm ti và Kim ti tới đây, e là mấy
thứ ấy đều không dễ tìm.”
Tôi vội cười, nói: “Việc này giao cho Thái phi là vãn bối yên
tâm rồi. Nếu thật sự không sửa được, vậy chỉ đành than tiếc là không thể nghe
thấy tiếng đàn tuyệt diệu của Trường tương tư nữa thôi.”
Thái phi mỉm cười, ánh mắt toát lên vẻ hiền từ vô hạn. “Vậy
lần sau tới đây nương tử hãy ngồi lại lâu một chút, nhân tiện mang Trường tương
tư tới luôn. Ta thực sự rất thích trò chuyện cùng nương tử đấy!”
Đã lâu tôi không được nói chuyện thoải mái với người khác như
vậy, do đó cũng rất mừng rỡ. “Thái phi đã có thịnh tình, sao vãn bối dám không
tuân lệnh?”
Lúc tôi quay về đến chùa Cam Lộ thì đã rất muộn, Hoán Bích và
Cận Tịch đều nôn nóng không thôi nhưng lại không dám khua chiêng gióng trống ra
ngoài tìm, đành đứng ngoài cửa, nghển cổ chờ tôi. Thấy tôi quay về, Hoán Bích
mừng rỡ kéo tay tôi lại, đồng thời không kìm được oán trách: “Tiểu thư đi đâu
vậy, mãi bây giờ mới quay về, làm người ta lo lắng chết đi được. Nếu tiểu thư
còn chưa về, nô tỳ và Cận Tịch đành phải bẩm việc này với trụ trì, xin trụ trì
cho người ra ngoài tìm tiểu thư thôi.”
Cận Tịch đón lấy sọt cỏ trong tay tôi, dịu dàng nói: “Nương
tử đi đường chắc cũng vất vả rồi, cơm canh đã được hâm nóng, nương tử mau vào
ăn đi thôi!”
Hai người bọn họ mang nước đến cho tôi rửa mặt rồi ngồi xuống
cạnh tôi, nghe tôi kể lại mọi việc đã gặp trong ngày hôm nay.
Cận Tịch hơi cau mày, trầm giọng nói: “Quả như lời nương tử
nói, người nương tử gặp hôm nay chính là Thư Quý thái phi. Khi nô tỳ vào cung
thì đã là năm Long Khánh cuối cùng, thành ra chỉ được gặp Thư Quý thái phi mấy
lần. Thế nhưng phong thái của Thư Quý thái phi, bất cứ ai từng gặp, cả đời đều
khó mà quên được.”
Tôi dừng đũa, nghi hoặc hỏi: “Năm xưa Thư Quý thái phi phụng
chỉ xuất gia theo đạo, sao lại tu hành ngay gần chùa Cam Lộ thế này, bà ấy đáng
lẽ phải đến một đạo quán nào đó tu hành mới đúng chứ?”
Cận Tịch đáp: “Thư Quý thái phi quả thực tu hành trong đạo
quán, cũng chính là An Tê quán mà bà ấy hiện đang ở.” Cận Tịch hơi hạ thấp
giọng: “Bởi vì Thái hậu nói tu hành cần thanh tịnh mới có thể tập trung, do đó
bên cạnh Thư Quý thái phi chỉ có duy nhất một người thị nữ để sai bảo.”
Hoán Bích không kìm được ngạc nhiên “úi chao” một tiếng, tôi
vội dùng ánh mắt ra hiệu bảo nàng ta im lặng.
Hoán Bích không dám nói gì thêm, chỉ lẳng lặng nhìn Cận Tịch,
chờ nghe kể tiếp. Cận Tịch thở dài một tiếng, cất giọng đầy vẻ xót xa: “Trước lúc
tiên đế băng hà, Thư Quý thái phi là người đắc sủng nhất, gần như chiếm trọn sự
sủng ái của tiên đế, không ai có thể sánh được. Có điều, tuy trên danh nghĩa bà
ấy là con nuôi của Tri sự bình chương Nguyễn Diên Niên nhưng thực chất việc này
chỉ là để che tai mắt thiên hạ, các phi tần trong cung đều biết rõ bà ấy là
người dị tộc, hết sức coi thường, sau khi bà ấy được phong làm phi cũng chỉ một
mực ở trong Thái Bình hành cung, không qua lại với các phi tần khác. Thế nhưng
về sau, Thư Quý thái phi sinh được Lục Hoàng tử, cũng chính là Thanh Hà Vương
bây giờ, tiên đế hết sức yêu quý Lục Hoàng tử thông minh sáng dạ, liền bất chấp
sự phản đối của Thái hậu, sắc phong Thư Phi khi đó làm Thư Quý phi, từ đó bà ấy
nhảy vọt lên thành người đứng đầu các phi tần. Nếu chỉ có vậy thì thôi cũng
đành nhưng trước khi chết, Ngọc Ách phu nhân vẫn còn oán hận Thư Quý thái phi
vô cùng, Hoàng hậu cũng vì Thư Quý thái phi mà bị phế, ngay đến Chiêu Hiến Thái
hậu năm xưa cũng chẳng thích bà ấy chút nào, không ngừng làm khó. Trong tình
cảnh như vậy, tuy được tiên đế vô cùng sủng ái nhưng cuộc sống của Thư Quý thái
phi trong cung vẫn hết sức khó khăn. Duy có Thái hậu bây giờ, tức là Lâm Phi
nương nương năm xưa giao hảo với bà ấy, hai người thân mật vô cùng, chẳng khác
nào chị em ruột. Có mấy lần Thư Quý thái phi phải chịu ấm ức, đều là Lâm Phi
nương nương ra mặt giúp đỡ. Vậy nên ngay đến tiên đế cũng khá thương yêu Thái
hậu bây giờ, sau khi Hoàng hậu chết liền để cho Thái hậu bây giờ chấp chưởng
hậu cung, tới khi đó cuộc sống của Thư Quý thái phi trong cung mới thoải mái
hơn một chút.”
Sự sủng ái của tiên đế với Thư Quý thái phi bỗng khiến tôi
nhớ lại lời cảm khái của Huyền Thanh lúc ở trên đài Đồng Hoa: “Thực ra có người
chia sẻ sủng ái cũng là chuyện tốt, nếu không, ba ngàn sủng ái ôm trọn vào
thân, trở thành mục tiêu oán trách của cả lục cung, khi đó, Huyền Thanh quả
thực phải khóc than thay cho Tiệp dư rồi!”
Lời cảm thán đó của y là vì tôi, cũng là vì cuộc đời của mẫu
thân y, Thư Quý thái phi.
Ôm trọn sủng ái vào người cũng là ôm trọn mọi sự oán hận vào
người. Quá được sủng ái, con người ta chẳng khác nào như phải ở trên lò lửa!
Nghe kể về tình cảm giữa Thái hậu và Thư Quý thái phi, tôi
hết sức cảm động, lại nhớ tới My Trang còn ở trong cung, thế là càng thổn thức
không thôi.
Lời của Cận Tịch dường như là đang khen ngợi tình tỷ muội
giữa Thái hậu và Thư Quý thái phi, thế nhưng lại chẳng liên quan chút nào tới
câu hỏi của tôi.
Cận Tịch cũng hiểu sự nghi hoặc của tôi, cặp mắt thoáng đong
đưa, mỉm cười, nói: “Sau khi tiên đế băng hà, Thư Quý thái phi khóc lóc sầu
thảm không thôi, có mấy lần còn muốn tự vẫn đi theo tiên đế, may mà được các
cung nhân kịp thời phát giác và cứu sống. Phi tần trong cung tuy trước đây đều
oán hận Thư Quý thái phi nhưng thấy vậy thì vô cùng cảm động, ngay cả các thần
tử bên ngoài cũng biết được việc này, liền hết lời khen ngợi Thư Quý thái phi.
Thái hậu hết sức cảm động, lúc này Thư Quý thái phi lại xin được xuất gia để
cầu phúc cho tiên đế, đồng thời giao phó Lục Vương gia cho Thái hậu nuôi dưỡng.
Thái hậu cảm tấm lòng thành của Thư Quý thái phi, lại nói Thái phi sống thoải
mái đã quen, tất nhiên không thể ở cùng với các ni cô trong chùa Cam Lộ, liền
đặc biệt cho xây dựng An Tê quán để Thư Quý thái phi ở một mình, sau đó lệnh
cho bà ấy xuất gia tu đạo chứ không phải vào chùa Cam Lộ tu hành. Thái hậu sợ
người ngoài hầu hạ không quen sẽ làm Thái phi tức giận, liền để thị nữ hầu cận
của Thái phi đi theo hầu hạ, đây cũng là vì suy nghĩ cho Thư Quý thái phi. Tất
nhiên, nếu không có việc gì quan trọng, Thư Quý thái phi cũng không thể tự tiện
rời khỏi An Tê quán một bước.”
Cận Tịch nói với giọng vô cùng mềm mỏng nhưng dù có mềm mỏng
đến mấy, tôi cũng đã hiểu được ý tứ bên trong.
Thư Quý thái phi xuất gia tu đạo, mà chùa Cam Lộ lại là nơi
cửa Phật, hai bên tất nhiên sẽ nước sông không phạm nước giếng, không qua lại
với nhau, mà bên cạnh bà ta lại chỉ có một thị tỳ hầu hạ... Lòng tôi thầm máy
động, như vậy coi như Thư Quý thái phi đã bị cách ly hoàn toàn với thế giới bên
ngoài rồi.
Tôi mặt không đổi sắc, chỉ chậm rãi đưa đũa gắp lấy một cọng
rau xanh. Cọng rau xanh ấy đã được nấu chín, rất mềm, chỉ có thể để mặc người
ta gắp đi gắp lại. Tôi thản nhiên nói: “Nghe nói lúc sinh tiền, tiên đế hết sức
yêu quý Thanh Hà Vương, có mấy bận còn muốn lập y làm thái tử.”
Cận Tịch cúi đầu, cung kính đứng một bên, nhìn xuống mũi bàn
chân mình, nói với giọng đều đều, không có lấy một tia xao động: “Xuất thân của
Thư Quý thái phi bị người ta bàn tán rất nhiều, việc lập Thanh Hà Vương làm
thái tử, ngay đến các triều thần cũng cực lực phản đối. Bên trên Thanh Hà Vương
còn có mấy vị vương gia, tuy triều ta chủ trương lập người hiền, không lập con
trưởng, Hoàng hậu cũng không sinh được con trai nhưng mấy vị vương gia khác, ví
như đương kim Hoàng thượng, cũng đều vô cùng xuất sắc, mà khi đó ở trong cung,
Lâm Phi nương nương bất kể là về địa vị hay sự sủng ái đều chỉ thua kém một
mình Thư Quý phi, xuất thân lại cao quý hơn một chút, còn nắm quyền quản lý hậu
cung. Vậy là cuối cùng, tiên đế đành quyết định lùi một bước, lập đương kim
Thánh thượng làm thái tử, ấy cũng là việc hợp tình hợp lý.” Câu cuối cùng, Cận
Tịch nói rất khẽ, tựa như đang kể về một chuyện chẳng hề quan trọng, nhưng tôi
vẫn nghe được rõ ràng: “Huống chi, có sự ủng hộ của Nhiếp Chính Vương năm xưa,
đương kim Thánh thượng kế thừa ngôi thiên tử cũng là lẽ thường tình.”
Tôi bất giác cảm thấy lòng mình rét buốt từng cơn, đồng thời
sau nháy mắt đã hiểu ra được rất nhiều điều.
Nhiếp Chính Vương, có lẽ y mới là điểm mấu chốt để Huyền Lăng
được kế thừa ngôi báu.
Thế nhưng, tôi rất nhanh đã bình tĩnh trở lại.
Đó chỉ là những việc xưa cũ mà thôi, đều là ân oán của đời
trước rồi. Bây giờ, người ngồi vững trên ngai vàng ở Tử Áo Thành, tay nắm càn
khôn, ngạo nghễ cúi đầu nhìn thiên hạ đã là Huyền Lăng rồi.
Thư Quý thái phi và Huyền Thanh đều là vật hy sinh trong cuộc
chiến đoạt hoàng quyền, dù không cam tâm đến mấy thì sự thực cũng đã là như
vậy, chẳng thể thay đổi.
Nhưng bất kể sự thực như thế nào, việc tôi qua lại với Thư
Quý thái phi và Huyền Thanh đều không liên quan gì tới hoàng quyền, dù sao bây
giờ tôi cũng đã là người xuất gia rồi.
Tôi lẩm bẩm nói: “Mọi sự phân tranh kỳ thực đều bắt nguồn từ
việc Thư Quý thái phi là nữ tử Bãi Di thôi.”
Hoán Bích vốn luôn im lặng lắng nghe, nhưng khi nghe đến chỗ
này, bát cơm trong tay chợt “cạch” một tiếng rơi xuống bàn, lăn tròn một lúc
mới dừng lại. Tôi vội giúp nàng ta giữ chiếc bát lại, lo lắng hỏi: “Sao thế?”
Trong mắt thoáng qua một nét hoang mang, Hoán Bích vội cười,
nói: “Nô tỳ chỉ có chút tò mò, Thư Quý thái phi thật sự là nữ tử Bãi Di sao?”
“Ừm.”
Hoán Bích đưa tay gạt nhẹ lọn tóc mai bên thái dương, thấp
giọng nói: “Sau khi bị chinh phục, Bãi Di đã trở thành thuộc quốc của Đại Chu,
thế nhưng dù sao cũng là dị tộc, Thư Quý thái phi có thể leo lên địa vị như vậy
với xuất thân dị tộc quả là không dễ dàng gì.”
Tôi nghe vậy bèn ngoảnh đầu qua, hỏi: “Hoán Bích, hình như
muội khá hiểu về Bãi Di thì phải?”
Hoán Bích khẽ “a” một tiếng, hờ hững nói: “Chẳng qua nô tỳ
chỉ được nghe nói một chút chuyện bên ngoài mà thôi.” Sau đó nàng ta lại khẩn
khoản nhìn tôi. “Tiểu thư, vừa rồi tiểu thư nói định mang Trường tương tư tới
chỗ Thái phi, khi đó đưa nô tỳ theo cùng được không?”
Tôi ôn tồn nói: “Muội cũng rất muốn gặp Thái phi sao? Vừa hay
có thể để muội ôm đàn, rồi chúng ta cùng tới đó.”
Trên khuôn mặt xuất hiện nét mừng rỡ như trẻ con được quà,
Hoán Bích gật đầu thật mạnh.