Hậu cung Chân Hoàn truyện (Tập 4) - Chương 12 - Phần 2
Tôi đứng dậy, mở hộp châu ngọc phủ đầy bụi, lấy từ bên trong
ra những món đồ trang sức mà mình đã lâu không dùng tới, giao hết vào tay
Phương Nhược, khẩn khoản nói: “Lung Nguyệt là đứa con gái duy nhất của ta, bây
giờ nó sắp tròn một tuổi, ta là người làm mẹ, chỉ biết làm hết những điều có
thể thôi. Xin cô cô hãy giúp ta cầm mấy thứ này tới phủ Nội vụ nhờ những người
thợ ở đó làm nhanh giúp ta một chiếc vòng cổ như ta vừa nói, để Lung Nguyệt có
thể đeo trong dịp thôi nôi, đây cũng coi như một chút tâm ý của người làm mẹ
này.”
Phương Nhược nhìn tôi bằng ánh mắt thấu hiểu, hồi lâu sau
liền buông tiếng thở dài, giữ tay tôi lại. “Nương tử ở bên ngoài, đồ đạc cũng
chẳng còn lại bao nhiêu, mời thợ không cần tiêu tốn nhiều như vậy.” Bà ta tiện
tay cầm lấy một chiếc vòng ngọc phỉ thúy, nói: “Chỉ cái này cũng đủ rồi. Nương
tử yên tâm, nô tỳ sẽ cố hết sức.”
Tôi dặn dò thêm: “Ta vì mặc nhầm áo cũ của Thuần Nguyên Hoàng
hậu mà mang tội, hy vọng Lung Nguyệt đừng giẫm lên vết xe đổ của ta.”
Phương Nhược vỗ nhẹ lên bàn tay tôi tỏ ý an ủi, nói: “Nương
tử yên tâm, nô tỳ hiểu mà!”
Tôi đứng tựa người vào cánh cửa, dùng ánh mắt tiễn Phương
Nhược quay về. Thấy bóng dáng bà ta dần biến mất giữa ánh hoàng hôn mờ mịt, sự
lưu luyến trong lòng tôi bất giác càng nồng đậm hơn.
Khi Phương Nhược tới đây lần nữa thì đã là một tháng sau.
Theo lệ thường, bà ta nhận lấy chỗ kinh Phật mà tôi vừa chép xong, cười tủm
tỉm, nói: “Nghe Thái hậu nói chữ của nương tử đã đẹp hơn nhiều rồi, chỉ là
thiếu một chút sức sống, có lẽ vì đọc nhiều kinh Phật quá, tính tình nương tử
trở nên quá mức điềm đạm.”
Tôi nói: “Bản lĩnh nhìn chữ đoán người của Thái hậu quả là
phi phàm.”
Phương Nhược mỉm cười, nói: “Xương Tần có thai được ba tháng
rồi, cái bụng cũng đã hơi nhô lên.”
Tôi hờ hững “ừm” một tiếng, chậm rãi lần tràng hạt trong tay,
tỏ ra chẳng mấy để tâm tới việc này. “Ai mà chưa từng có thai, việc này thì
liên quan gì tới ta chứ?”
Phương Nhược nói: “Việc này quả thực không liên quan gì tới
nương tử, chỉ là cứ ngỡ cái thai của Xương Tần sẽ chia sẻ bớt sự quan tâm của
Hoàng thượng tới mấy vị công chúa và hoàng tử, nhưng bây giờ người khác thế nào
chúng ta tạm chưa nói tới, còn Lung Nguyệt Công chúa thì đắc sủng vô cùng,
không ai có thể so sánh được.”
Tôi mỉm cười, lật mở trang kế tiếp của cuốn Lăng Nghiêm kinh, khẽ nói: “Thực đã làm
phiền Phương Nhược cô cô rồi!”
“Nô tỳ chẳng qua chỉ làm theo sự dặn dò của nương tử mà thôi.
Sau việc lần này, ngay đến Kính Phi nương nương cũng thán phục không thôi.”
Phương Nhược chậm rãi kể lại: “Ngày mùng Sáu tháng Mười là ngày sinh của Công
chúa, lễ thôi nôi được tổ chức ở Trọng Hoa điện, khách chủ đều vui cả. Công
chúa mặc một chiếc áo kẻ ô may bằng gấm Thục, đáng yêu vô cùng, được Kính Phi
nương nương bế ngồi phía bên trái Hoàng thượng. Khi Hoàng thượng bế Công chúa
thì nhìn thấy chiếc vòng ngọc mà Công chúa đeo trên cổ. Việc này vốn khá mạo
hiểm, ban đầu Kính Phi nương nương đã do dự suốt một hồi lâu, sợ Công chúa giẫm
vào vết xe đổ của nương tử mà mang họa. Nô tỳ đã phải khuyên nhủ hết lòng, lại
kể ra mưu trí của nương tử ngày trước, Kính Phi nương nương mới chịu nghe theo.
Lúc Hoàng thượng nhìn về phía chiếc vòng ngọc kia, chắc Kính Phi nương nương đã
hồi hộp vô cùng. Ai ngờ Hoàng thượng chỉ ngẩn ngơ nhìn một lát, nói là rất quen
mắt nhưng không hề tức giận, chỉ hỏi Kính Phi nương nương chiếc vòng này là ở
đâu ra. Kính Phi liền trả lời rằng hai ngày trước, khi chuẩn bị đồ trang sức
cho Công chúa, phát hiện Công chúa còn chưa có vòng đeo cổ mới vội vã bảo phủ
Nội vụ làm một chiếc. Nương tử biết đấy, khi Kính Phi nương nương vào cung thì
Thuần Nguyên Hoàng hậu đã qua đời, Kính Phi nương nương tất nhiên chưa từng
nhìn thấy di vật của Thuần Nguyên Hoàng hậu, mà chiếc vòng ấy chế tác cũng đơn
giản, nhìn xa thì mới thấy hơi giống chiếc của Thuần Nguyên Hoàng hậu, còn nhìn
gần thì khác hẳn. Hoàng thượng tất nhiên không nghi ngờ gì Kính Phi nương
nương, chỉ cho rằng là trùng hợp mà thôi. Sau đó người liền sai Lý Trường đi
lấy chiếc vòng kia của Thuần Nguyên Hoàng hậu tới, ban tặng cho Công chúa, còn
đích thân giúp Công chúa đeo lên cổ. Mãi tới lúc ấy nô tỳ mới dám thở phào một
hơi.”
Những hạt châu tròn lẳn chậm rãi lướt đi trên đầu ngón tay
tôi, tuần hoàn liên tục. Tôi nhắm hai mắt lại, ngửi mùi đàn hương trong phòng,
khẽ nói: “Công chúa còn nhỏ tuổi, vẫn chưa biết gì, cho dù là một thứ đồ giống
hệt, Hoàng thượng cũng sẽ không cho rằng Công chúa cố ý mạo phạm. Làm một vật
có phần tương tự như thế, thứ nhất là để Kính Phi không bị liên lụy, thứ hai là
biến việc hữu ý thành vô tâm, khiến Hoàng thượng càng dễ dàng tin tưởng hơn,
ngay đến Hoàng hậu cũng không nghi ngờ gì.”
“Sau việc này, ngay đến Kính Phi nương nương cũng nói, có
được chiếc vòng ngọc phù dung này của Thuần Nguyên Hoàng hậu, Công chúa giống
như có thêm bùa hộ mệnh vậy.”
Tôi hỏi: “Vậy ở trước mặt Hoàng thượng, Kính Phi nương nương
xưng hô với Công chúa thế nào?”
Phương Nhược hơi cúi đầu, thấp giọng đáp: “Ở chỗ có người thì
gọi là Lung Nguyệt, còn khi ở riêng với Hoàng thượng thì gọi khuê danh Oản Oản
của Công chúa.”
Tôi gật đầu, mỉm cười. “Kính Phi là người thông minh, hiểu
rất rõ cách tự bảo vệ mình. Giao Công chúa cho nàng ấy nuôi dưỡng, ta rất yên
tâm. Phiền cô cô khi quay về hãy dặn Kính Phi một câu, chiếc vòng ngọc phù dung
ấy nên cất vào một chỗ, nếu để Công chúa thường xuyên đeo trên người, có thể sẽ
gặp phải những rắc rối không cần thiết.”
“Nô tỳ hiểu.” Phương Nhược nở nụ cười hiền dịu. “Nương tử từ
chỗ mình sẩy chân học được cách biến thua thành thắng, giúp Công chúa thu được
rất nhiều lợi ích. Qua việc này có thể thấy tâm trí nương tử không hề vì đắm
chìm trong Phật pháp mà trở nên trì trệ, đầu óc ngược lại còn có vẻ chu toàn
hơn.”
Tôi hờ hững nói: “Cô cô nói đùa rồi, ta chỉ là một kẻ thua
trận, còn dám nói gì tới mưu trí nữa. Chẳng qua là ngã một keo, leo một nấc, ta
có thể giúp được con gái mình chỗ nào thì cố gắng giúp chỗ đó mà thôi!”
Phương Nhược khoan khoái nói: “Qua chiếc vòng ngọc phù dung
này, đủ thấy địa vị của Công chúa trong lòng Hoàng thượng, dù sau này Xương Tần
có mẹ tròn con vuông, đứa bé sắp ra đời kia cũng khó mà uy hiếp tới Công chúa
được.”
Trong lòng tôi cũng trào dâng một tia mừng rỡ, mỉm cười khẽ
than: “Nuôi con tới trăm tuổi thì có đến chín mươi chín năm lo lắng, làm gì có
lúc nào thật sự yên tâm. Dù sau này Lung Nguyệt được gả chồng, ta cũng sẽ lo
lắng không biết phò mã liệu có thật lòng thật dạ với nó không.” Thoáng suy nghĩ
một chút, tôi lại hỏi Phương Nhược: “Có một việc ta vẫn luôn muốn hỏi cô cô.
Đoan Phi là con gái của danh tướng Tề Bất Trì, vừa vào cung đã thành quý tần;
Hoa Phi có chỗ dựa là Nhữ Nam Vương, mới tiến cung đã được phong làm Hoa Tần;
Hoàng hậu năm xưa càng chẳng cần phải nói, là biểu tỷ của Hoàng thượng, cháu
gái của Thái hậu, mới vào cung đã được tôn làm Nhàn Phi. Nhưng Xương Tần là con
gái của Tấn Khang Quận chúa, có quan hệ thân thích với hoàng gia, tại sao khi
vào cung lại chỉ có danh phận quý nhân, bây giờ có thai rồi cũng chỉ được phong
làm tần?”
Phương Nhược thoáng suy nghĩ rồi trầm ngâm đáp: “Khi Hoàng
thượng vừa mới đăng cơ, cả hậu cung và triều đình đều chưa ổn định, do đó cần
phải lập mấy vị phi tử có địa vị thật cao. Bây giờ hậu cung về cơ bản đã đi vào
quy củ, dù Xương Tần có đắc sủng đến mấy thì cũng phải tiến dần từng bước từ
thấp đến cao. Vì việc này, khi tới thỉnh an Thái hậu, Tấn Khang Quận chúa đã
từng không ít lần than vãn. Thế nhưng Tấn Khang Quận chúa cũng thật quá hồ đồ.”
Phương Nhược lắc đầu, nói: “Bây giờ hậu cung là do Hoàng hậu chủ trì đại cuộc,
thân thể Thái hậu không khỏe lắm, đâu còn có thể một lời chín đỉnh như năm xưa
được.”
“Vậy quan hệ của Xương Tần với các phi tần ở hậu cung thế
nào? Có đặc biệt thân thiết với ai không?”
“Dạ không.” Phương Nhược không chút nghĩ ngợi đáp ngay.
“Xương Tần thân phận tôn quý, xưa nay luôn tự thị rất cao, không mấy khi qua
lại với người khác, luôn độc lai độc vãng. Ngoài Hoàng hậu, Đoan Phi và Kính
Phi ra, những người khác, cô ta đều không để tới.”
Tôi đưa tay khẽ vuốt chiếc cằm ngày một gầy guộc của mình,
trầm giọng hỏi: “Vậy với An Lăng Dung thì sao?”
Phương Nhược chẳng buồn nhướng mày lên, nói: “Xương Tần mắt
cao quá trán, sao thèm để ý đến An Dung hoa. An Dung hoa tuy có tước vị cao hơn
Xương Tần nhưng cư xử với Xương Tần lại vô cùng cung kính, không dám ra vẻ kẻ
cả chút nào.”
Tôi cười lạnh, nói: “An Lăng Dung vốn chẳng có căn cơ gì
trong hậu cung, trước mặt Xương Tần tất nhiên phải nhún mình rồi. Có điều, chỉ
cần Xương Tần và An Lăng Dung không chung một giuộc, ta cũng không có gì phải
lo lắng nữa.”
Phương Nhược nghe thấy vậy thì trầm ngâm một lát, sau đó liền
đứng dậy cáo từ: “Nương tử đã không có gì để lo lắng, như vậy nô tỳ cũng yên
tâm hơn rồi.”
Giữa vùng núi vắng mênh mang, mùa đông thường tới rất sớm.
Như lệ thường, mùa đông năm nay lại tới giữa những chiếc lá cây rơi lả tả.
Huyền Thanh cứ cố định mỗi tháng đến thăm tôi một, hai lần, để tránh bị nghi
ngờ, cũng để tránh cho tôi khỏi gặp khó khăn với những lời đồn thổi, y thường
xuyên đợi tôi bên bờ sông dưới chân núi khi tôi ra ngoài giặt giũ hoặc đi cắt
cỏ.
Ban đầu, thường là y bảo A Tấn đi nói với Hoán Bích thời gian
y tới, sau đó đợi tôi ra ngoài gặp y. Dần dần, có lẽ là do hiểu nhau, tôi
thường xuyên cảm giác được khi nào thì y sẽ tới, thế là bèn ra ngoài, những lúc
đó, y đều chờ tôi sẵn bên bờ sông rồi.
Thỉnh thoảng tôi hỏi tới việc này, y chỉ cười, đáp: “Ta
thường xuyên rảnh rỗi không có việc gì làm, bèn đi lại loanh quanh bên bờ sông,
đi lại nhiều rồi, tất nhiên biết được khi nào thì nương tử sẽ đi qua đây.” Nụ
cười của y điềm đạm như làn gió, cắt ngang qua mặt sông, làm mặt nước nhẹ nhàng
lay động. “Cũng có thể nói, ta thật sự rất thích chờ ở đây, nếu chờ được người
mà mình muốn gặp thì thật sự là một niềm vui lớn vô cùng, còn có thể cảm thán
sự diệu kỳ của duyên phận nữa.”
Tôi khẽ cười trước gió. “Nói thực lòng, trong chuyện tình cảm
nam nữ, ta không hề tin vào duyên phận. Xưa nay ta luôn nghĩ chỉ những người
yếu đuối, không chịu cố gắng tranh thủ mới dùng hai chữ duyên phận để làm cái
cớ, khi nào thân mật thì nói là duyên phận sâu dày, còn khi muốn kết thúc mối
tình thì nói là duyên phận đã hết.”
Huyền Thanh cười tủm tỉm, nói: “Nương tử cứ luôn khiến người
ta phải sáng mắt lên như thế đấy, từng lời nói đều ẩn chứa chân lý sâu xa.”
“Vương gia quá khen rồi!” Tôi nhìn về phía con thuyền đang
dập dềnh trên sóng nước đằng xa, khẽ nói: “Có lẽ tới ngày nào thật sự không còn
đường để đi nữa, ta mới chịu nói rằng, duyên phận đã hết rồi.”
Huyền Thanh chậm rãi nói, khuôn mặt đầy vẻ ung dung, điềm
đạm: “Nếu là trước đây, khi nương tử còn đắc ý, nương tử nói ra những lời này
Thanh sẽ không hề cảm thấy lạ. Nhưng bây giờ nương tử đã theo Phật Tổ tu hành,
chẳng lẽ vẫn chưa tin vào duyên phận sao?”
“Phải.” Tôi hơi chỉnh lại vạt áo, nơi nội tâm trong veo và
bình lặng. “Dù đã vào nơi cửa Phật, ta vẫn kiên trì với lòng tin của mình.
Huống chi Phật pháp tinh thông, ta cũng chưa từng hiểu được hết, chỉ mong Phật
pháp có thể làm lòng người yên ổn mà thôi. Còn về cái thuyết duyên phận, ta cảm
thấy việc là ở người, sum vầy hay ly tán đều như thế cả, không cần thiết phải
lấy hai chữ duyên phận ra làm cái cớ.”
Huyền Thanh vỗ tay cười, nói: “Thanh cứ ngỡ tính tình của
nương tử đã hoàn toàn bị kinh Phật làm mềm đi, không ngờ vẫn còn một mặt thế
này. Những lời vừa rồi của nương tử thực chẳng có vẻ gì của một người xuất
gia.”
Hai bờ má thoáng ửng hồng, tôi rất nhanh đã cười, nói: “Tuy
gần đây thường xuyên tiếp xúc nhưng dù sao ta cũng mới nghiên cứu kinh Phật
được hơn một năm thôi, những chỗ bác đại tinh thâm còn chưa thể lĩnh ngộ, đã
khiến Vương gia chê cười rồi!”
Chúng tôi cứ thỉnh thoảng trò chuyện vài câu như vậy, y không
hề nhắc tới nhi nữ tư tình, khiến một chút tâm tư thấp thỏm của tôi dần tan
biến.
Ngoài dịp cứ hai tháng một lần đưa tranh của Lung Nguyệt tới,
phần lớn thời gian gặp gỡ, tôi và y đều trò chuyện với nhau về Phật pháp hay
thi từ, thỉnh thoảng không có gì để nói thì chỉ ngồi cùng nhau ngắm cảnh. Cũng
có lúc y tìm được cuốn sách hay nào đó, liền đem tặng cho tôi. Nếu khi nào
không tiện gặp mặt, y sẽ bảo A Tấn nhân lúc Hoán Bích ra ngoài mà nhờ giao lại
cho tôi. Cuộc sống trong chùa Cam Lộ vẫn luôn khô khan và cô độc, chỉ có những
cuốn kinh văn và công việc hằng ngày, thỉnh thoảng trò chuyện với y là dịp mà
tôi vui vẻ nhất, qua đó mà còn nhớ được một số bài thơ, bài từ thuở xưa, đây có
lẽ là chút lạc thú duy nhất của tôi trong quãng đời tẻ nhạt còn lại.
Những ngày tháng ở chùa Cam Lộ, tâm trạng tôi luôn tràn ngập
sự tuyệt vọng và oán hận nặng nề, vô số chuyện cũ hoặc tươi đẹp hoặc u ám không
ngừng xuất hiện trước mắt tôi. Tôi vẫn luôn cố gắng quên chúng đi, nhưng mỗi
lần màn đêm buông xuống, những ngọn gió bên ngoài cửa sổ đều như than như khóc,
kết hợp với những dòng ký ức ùa về, đè nặng lên trái tim tôi, hủy hoại tôi một
cách tàn nhẫn mà dữ dội.
Thế nhưng mỗi lần tới trước mặt y, tôi lại luôn giữ được tâm
trạng bình lặng, bình lặng tựa mặt nước hồ thu lấp lánh những ánh dương ấm áp.
Hoán Bích thường không yên tâm để tôi và Huyền Thanh ở riêng
với nhau, sợ lại xuất hiện những lời đồn thổi như lần trước, thế là lần nào
cũng đòi đi theo, nhưng thấy tôi và y chỉ tán gẫu bình thường, liền đứng ra
phía xa, trò chuyện với A Tấn đôi câu.
Cứ thế, chúng tôi lẳng lặng qua lại với nhau, hết sức thanh
bạch.
Mãi đến rất nhiều ngày sau, đã khá lâu rồi không thấy y tới,
khi đi ngang qua dòng sông bên dưới chùa Cam Lộ, nghe thấy tiếng chim hót véo
von, cảm nhận sự mềm mại và đắm đuối đặc biệt của làn gió trong dịp giao mùa
xuân hạ, lại ngửi mùi thơm thoang thoảng của cỏ cây xung quanh, tôi đột nhiên ý
thức được, Huyền Thanh đã hai tháng không tới đây rồi, dưới chân núi chỉ còn
lại dòng sông vẫn lững lờ chảy mãi, A Nô vẫn tiếp tục hát khúc hát mà tôi từng
nghe thấy trong lần đầu gặp mặt.
Em nay đối với tình lang, tình càng
thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ
tình lang. Tình lang ơi hỡi tình lang, lòng này thắm thiết xin chàng chớ
quên...
Tiếng ca của A Nô cao vút mà khoan khoái, lúc nào cũng hết
sức vui tươi.
Có lúc tôi không hiểu, liền hỏi cô bé: “A Nô, ngươi có biết ý
nghĩa của khúc hát này không?”
A Nô tươi cười rạng rỡ, đáp: “Tất nhiên là biết chứ!”
Tôi cười, thở dài: “Khúc hát này nói về tình cảm nam nữ,
ngươi tuy rằng biết nhưng lại chẳng hát ra được chút tình ý nào.”
A Nô ngẩng cao đầu, tỏ ý không tán đồng, bàn tay mân mê bím
tóc, tươi cười nói: “Biết được thì sao? Không hát ra được thì sao? Trên thế
gian này có rất nhiều chuyện bản thân rõ ràng biết là không thể làm được. Huống
chi ta còn chưa có người trong lòng, không hát ra được tình cảm nam nữ thì có
gì là kỳ lạ đâu.”
Tôi vẫn tiếp tục nghe khúc tình ca đó bằng giọng hát vui vẻ
của A Nô, trong lòng chợt trào dâng nỗi cô độc tột cùng. Bên cạnh tôi, Hoán
Bích cũng thở dài, nói: “Vương gia đã lâu lắm rồi không tới, đến một người để
nói chuyện cũng chẳng còn nữa rồi.” Nghe giọng của cô nàng cũng đầy vẻ cô đơn.