23. "Cứng" mà lại... "mềm" - Sn

“Cứng” mà lại... mềm

Sn

Năm 1910, nhà khảo sát địa cực người Anh, thuyền trưởng Rôbec Xcot đã trang
bị cho một đoàn thám hiểm có nhiệm vụ đi đến Nam Cực, nơi mà thời bấy giờ con
người chưa đặt chân đến. Những vị du khách quả cảm này đã trải qua nhiều tháng
ngày gian nan trên hoang mạc băng tuyết của lục địa Nam Cực, họ còn để lại
trên đường đi của mình những kho nho nhỏ chứa thực phẩm và dầu hỏa dự trữ cho
đường trở về.

Cuối cùng, đầu năm 1912, đoàn thám hiểm đã đến Nam Cực, nhưng thật là mất
hết hứng khởi, vì Xcot đã phát hiện ra một dòng chữ ghi lại: Thì ra trước đó
một tháng, nhà thám hiểm Ruan Amunxen (Roald Amundsen) người Na Uy đã đến đây
rồi. Song, tai họa chủ yếu đã chờ đợi Xcot trên đường trở về. Ngay tại kho trạm
đầu tiên đã không còn dầu hỏa nữa: Các hộp sắt tây đựng dầu đã rỗng không.
Những con người mệt mỏi, lạnh cóng và đói khát ấy không có gì để sưởi ấm, để
nấu thức ăn. Vất vả lắm, họ mới lê bước được đến trạm tiếp theo và ở đây cũng
những cái hộp rỗng đã chờ đón họ: tất cả dầu hỏa đều chảy hết. Không đủ sức
chống đỡ với giá rét địa cực và những cơn bão tuyết dữ dội đang hoành hành ở Nam
Cực lúc đó, nên chẳng bao lâu, Rôbec Xcot và các chiến hữu của ông đã lần lượt
bỏ mạng.

Vậy do đâu mà dầu hỏa biến mất một cách bí hiểm như vậy? Tại sao cuộc thám
hiểm đã được trù tính kĩ càng lại phải kết thúc một cách bị thảm như vậy?

Nguyên nhân thật đơn giản. Các hộp đựng dầu hỏa bằng sắt tây đã được hàn
bằng thiếc. Có lẽ các nhà thám hiểm đã không biết rằng, trong băng giá, thiếc
bị “cảm lạnh”: Lúc đầu thứ kim loại màu trắng lấp lánh này biến thành kim loại
màu xám xịt, sau đó thì mủn ra thành bột. Hiện tượng này được gọi là “bệnh dịch
của thiếc” và nó đã đóng vai trò định mệnh trong số phận của đoàn thám hiểm.

Từ lâu trước khi xảy ra sự kiện vừa kể, người ta đã biết rằng, thiếc rất dễ
“mắc bệnh” khi bị lạnh. Ngay từ thời Trung Cổ, những người dùng bát đĩa bằng
thiếc đã nhận thấy rằng, khi gặp lạnh, chúng sẽ bị bao phủ bởi những vết “lở
loét” lan rộng dần và cuối cùng bát đĩa biến thành bột. Thêm vào đó, đĩa thiếc
bị cảm lạnh chỉ cần chạm vào chiếc khác còn “khỏe mạnh” thì chẳng mấy chốc,
chiếc “khỏe mạnh” cũng bị các vết xám xịt bao phủ rồi mủn ra.

Cuối thế kỉ trước, một đoàn tàu hỏa chở những thỏi thiếc đã khởi hành từ
Hà Lan sang Nga. Khi đến Maxcơva, người ta mở các toa tàu ra thì thấy trong đó
toàn là thứ bột xám chẳng dùng được vào việc gì cả. Mùa đông ở nước Nga đã “chơi
khăm” một vố độc ác với những người nhận thiếc.

Cũng vào khoảng những năm đó, một đoàn thám hiểm được trang bị tốt đã đến
Xibia. Hình như mọi thứ đã được dự liệu để cho băng giá vùng Xibia không cản
chở đến công việc tốt đẹp của đoàn. Nhưng các nhà thám hiểm vẫn phạm một sai
sót: Họ đã mang theo bát đĩa bằng thiếc, nên chỉ sau một thời gian ngắn, tất cả
chúng đều bị hỏng. Thế là đành phải đẽo thìa và bát bằng gỗ để thay thế. Sau
đó, đoàn thám hiểm mới có thể tiếp tục cuộc hành trình của mình.

Đầu thế kỉ XX, tại kho quân khu ở Petecbua đã xảy ra một chuyện rất tai
tiếng: Trong cuộc kiểm tra viên sĩ quan hậu cần đã phát hiện thấy là những
chiếc cúc bằng thiếc dùng cho quân phục của các binh lính đã biến mất hết, các
hòm đựng các loại cúc này thì đầy ắp một thứ bột xám. Mặc dầu trong kho rét
buốt ghê người nhưng viên sĩ quan hậu cần khốn khổ vẫn toán hết mồ hôi. Tất
nhiên, anh ta sẽ bị nghi là ăn cắp, mà điều đó thì chẳng hứa hẹn gì khác ngoài
hình phạt khổ sai. Song kết luận của phòng thí nghiệm hóa học - nơi mà thứ bột
trong các hòm được gửi đến để xét nghiệm, đã cứu con người tội nghiệp này: “Không
phải nghi ngờ gì nữa, thứ bột mà các ngài gửi đến để phân tích chính là thiếc.
Rõ ràng là trong trường hợp này đã xảy ra một hiện tượng mà hóa học gọi là “bệnh
dịch của thiếc.”

Vậy thì sự biến đổi như vậy của thiếc đã diễn ra như thế nào? Thời Trung Cổ,
bọn thầy tu dốt nát cho rằng, “bệnh dịch của thiếc” là do những lời nguyền rủa
của các mụ phù thuỷ gây ra, chính vì vậy nên nhiều người đàn bà không có tội
tình gì đã bị thiêu sống trên đống lửa “trừ tà.” Với sự phát triển của khoa
học, tính vô căn cứ của điều khẳng định như vậy là quá rõ ràng, nhưng suốt một
thời gian dài, các nhà bác học vẫn không thể tìm được nguyên nhân thật sự của “bệnh
dịch thiếc.”

Chỉ sau khi phép phân tích bằng tia rơngen giúp các nhà kim loại học nhìn
nhận thấu tận tâm can và xác định được cấu trúc tinh thể của các kim loại, họ
mới hoàn toàn minh oan cho các “mụ phù thuỷ” và nêu lên cách lí giải khoa học
thực sự về hiện tượng bí ẩn này. Thì ra thiếc (cũng như các kim loại khác) có
thể có các dạng tinh thể khác nhau. Ở nhiệt độ bình thường hoặc cao hơn thì
thiếc trắng - một kim loại dẻo và dai, là biến thể bền vững nhất. Khi nhiệt độ
xuống dưới 13 độ C, mạng tinh thể của thiếc được thay đổi lại để cho các nguyên
tử bố trí trong không gian ít đặc sít hơn. Biến thể mới hình thành trong trường
hợp này được gọi là thiếc xám; thiếc xám không còn các tính chất kim loại nữa
và trở thành một chất bán dẫn. Ứng suất bên trong xuất hiện ở những chỗ tiếp
giáp của các mạng tinh thể khác nhau làm cho thiếc bị rạn nứt và biến thành
bột. Nhiệt độ xung quanh càng thấp thì sự chuyển hóa từ biến thể này sang biến
thể kia diễn ra càng nhanh. Ở nhiệt độ - 33 độ C, tốc độ chuyển hóa này đạt tới
trị số lớn nhất. Bởi vậy, những cơn giá rét khủng khiếp đã trừng phạt các đồ vật
bằng thiếc một cách tàn nhẫn và nhanh chóng đến thế.

Tuy vậy, chính thiếc lại được sử dụng rộng rãi để hàn các khí cụ vô tuyến
điện, nhất là các khí cụ bán dẫn, để mạ các dây dẫn và các chi tiết khác; thiếc
vẫn còn đi với chúng đến cả Bắc Cực lẫn Nam Cực và những nơi lạnh lẽo khác
trên hành tinh của chúng ta. Thế có nghĩa là tất cả các khí cụ mà trong đó có
sử dụng thiếc đều rất chóng hỏng hay sao? Tất nhiên là không. Các nhà bác học
đã biết cách “tiêm chủng” cho thiếc, tạo cho kim loại này tính miễn dịch đối
với “bệnh dịch thiếc.” Chẳng hạn, bimut là thứ “vacxin” thích hợp nhất cho mục
đích này. Bằng cách cung cấp các điện tử bổ xung cho mạng tinh thể của thiếc,
các nguyên tử bimut làm cho trạng thái của thiếc được ổn định, hoàn toàn loại
trừ được khả năng “nhiễm bệnh.”

Thiếc nguyên chất có một tính chất đáng chú ý: Khi uốn cong một thỏi hoặc
một tấm thiếc, ta nghe thấy tiếng tí tách khe khẽ - đó là “tiếng kêu của thép.”
Dấu hiệu đặc trưng này xuất hiện do sự cọ xát lẫn nhau giữa các tinh thể thiếc
khi chúng bị xê dịch và biến dạng. Còn các hợp kim của thiếc với các kim loại
khác thì trong tình huống như vậy, như người ta thường nói, chúng lại biết “giữ
mồm giữ miệng.”

Hiện nay, gần một nửa lượng thiếc khai thác được trên thế giới được sử dụng
vào việc sản xuất sắt tây - thứ sắt chủ yếu dùng để làm vỏ đồ hộp. Ở đây, những
phẩm chất quý giá của kim loại này đã được bộc lộ đầy đủ: nó bền vững đối với
oxi, nước, các axit hữu cơ; đồng thời, các muối của nó lại hoàn toàn không độc
hại đối với cơ thể con ngườ. Thiếc đảm đương nhiệm vụ này một cách tuyệt vời và
trên thực tế thì không có kim loại nào cạnh tranh nổi với nó. Không phải ngẫu
nhiên mà người ta gọi thiếc là “kim loại của đồ hộp.” Nhờ một lá thiếc cực kì
mỏng phủ lên lá sắt, chúng ta có thể bảo quản khá lâu hàng triệu tấn thịt, cá,
rau, quả, bơ, sữa.

Trước đây, để tráng một lớp thiếc người ta dùng phương pháp nhiệt, trong
đó, lá sắt đã tẩy rửa sạch và khử hết dầu mỡ được nhúng vào thiếc nóng chảy.
Còn nếu cần mạ thiếc cho bề mặt của một lá sắt thì người ta tẩy rửa mặt đó thật
sạch, đốt nóng lên rồi sát thiếc vào. Ngày nay, phương pháp đó đã lỗi thời,
phương pháp mạ bằng điện trong bể mạ đã thay thế nó.

Lịch sử kĩ thuật đã từng biết đến một trường hợp về tình báo công nghiệp
có liên quan với việc sản xuất sắt tây. Ở nửa cuối thế kỉ XVII, nước Anh vốn
có cả sắt lẫn thiếc nhưng vẫn phải mua sắt tây, vì những người chế tạo sắt
không biết bí quyết của việc sản xuất thứ sắt trắng này. Trước đó hơn một trăm
năm, các nhà luyện kim ở công quốc Xaxonia đã biết cách mạ thiếc lên các lá sắt
mỏng và sản phẩm của họ đã đi đến nhiều nước. Năm 1665, một vị nào đó mang tên
Enđri Oaranton (Amđrew Warrington) đã được giao nhiệm vụ khám phá bí mật về
nghề này của người Đức. Mấy năm sau, người này đã mô tả “chuyến công cán sáng
tạo” của mình trong bài luận văn “Các phương pháp cố thủ của nước Anh ở trên
cạn và trên biển” như sau: “Người ta đã dành cho tôi một khoản tiền khá dư dả
để trang trải các chi phí trên đường du hành đến nơi làm ra những lá sắt trắng.
Từ nơi đó, tôi phải mang về được nghệ thuật của việc sản xuất thứ sắt này.”
Cuộc viếng thăm xứ Xaxonia đã thu được kết quả và chẳng bao lâu sau, các nhà
công nghiệp của nước Anh đã có thể phô trương thứ sắt trắng tuyệt vời do chính
họ sản xuất ra.

Nhưng chúng ta hãy thử hình dung ba thế kỉ nữa và thử tưởng tượng một quả
núi gồm hàng trăm tỉ cái vỏ hộp được sản xuất hàng năm ở tất cả các nước trên
thế giới trong thời đại chúng ta. Bên cạch quả núi đồ hộp được dựng lên bằng
trí tưởng tượng này, núi khồng lồ Everet trông chẳng khác gì một quả đồi tầm
thường. Sớm hay muộn thì các hộp sắt tây rỗng cũng sẽ rơi vào đống rác, song
thiếc (mà trong mỗi vỏ hộp có chừng nửa gam) thì không đành lòng chịu chôn vùi
ở đây mãi mãi: Con người đang tìm cách lấy lại thứ kim loại quý báu này để sử
dụng lại nó cho các nhu cầu của mình.

Những chiếc hộp sắt tây được thu nhặt lại rồi được đưa đến một thiết bị đặc
biệt; ở đó, dưới tác động của các chất kiềm và của dòng điện, sắt buộc phải cởi
bỏ áo bằng thiếc ra. Sắt lá đã được tẩy sạch và những thỏi thiếc sáng ngời đi
ra từ “bể tắm” đặc biệt này sẵn sàng trở lại thành vỏ đồ hộp.

Một đặc điểm nổi bật của thiếc là nó rất dễ nóng chảy. Hẳn bạn còn nhớ
trong truyện cổ tích của Hanxơ Khrittia Anđecxen (Hans Christian Andersen), chú
lính thiếc kiên cường phút chốc đã tan biến trong lửa khi chú bị rơi vào lò do
một ý nghĩ độc ác.

Nhờ có nhiệt độ tương đối thấp, nên thiếc rất có tiếng tăm như một thành
phần chủ yếu của các chất hàn và các hợp kim dễ nóng chảy. Một điều kì thú là
hợp kim của thiếc (16%) với bimut (52%) và chì (32%) có thể nóng chảy ngay cả
trong nước sôi: nhiệt độ nóng chảy của hợp kim này chỉ là 95 độ C, trong khi
đó, các kim loại hợp thành nó đều nóng chảy ở nhiệt độ cao hơn nhiều: thiếc ở
232 độ C, bimut ở 271 độ C, còn chì ở 327 độ C. Các hợp kim trong đó thiếc là
chất phụ thêm cho gali và inđi lại còn dễ chuyển sang trạng thái lỏng hơn nữa.
Thậm chí còn có loại hợp kim nóng chảy ngay ở 3 độ C. Những hợp kim kiểu như
vậy được sử dụng trong kĩ thuật điện để làm cầu chì.

Những tính chất rất tốt như dễ đúc, dễ rèn, có màu trắng đẹp như bạc đã mở
cửa đưa thiếc vào nghệ thuật trang trí thực dụng. Ngay ở Ai Cập và Hy Lạp cổ
đại, người ta đã dung thiếc để làm các hình trang trí gắn lên các kim loại
khác. Trong thiên anh hùng ca “Iliat,” Homer kể rằng, sau khi rèn xong tấm lá
chắn cho người anh hùng Asin, vị thần của lửa và của nghề thợ rèn là Hefet đã
gắn lên đó một hình trang trí bằng thiếc. Sau đó rất lâu vào khoảng thế kỉ
XIII, những thứ đĩa, cốc, chén, đồ thờ và những đồ dùng khác bằng thiếc có hình
chạm nổi đã xuất hiện ở châu Âu.

Thiếc là một trong những thứ vật liệu được dùng làm các ống phát ra âm
thanh trong đại phong cầm: Người ta cho rằng, kim loại này phát ra âm thanh
hùng tráng và trong trẻo. Có một dòng khác trong tiểu sử của thiếc có liên quan
với âm thanh: Năm 1877, nhà phát minh nổi tiếng người Mỹ Tomat Anva Eđixơn
(Alva Edison) nhờ chiếc máy ghi âm do ông chế tạo đã lần đầu tiên ghi được lời
nói trên một là thiếc mỏng có phủ một lớp sáp, sau đó ông đã phát lại những lời
này - những lời đã đi vào lịch sử của kĩ thuật ghi âm: “Cô Mary bé nhỏ có một
chú cừu non.”

Từ thời cổ xưa, thiếc đã là một thành phần quan trọng trong các loại đồng
đỏ khác nhau, trong các hợp kim làm chữ in và hợp kim babit (Hợp kim để làm bi
có khả năng chống mài mòn, do nhà phát minh người Mỹ tên là Babit sáng chế năm
1839).

Rất nhiều hợp chất hóa học của thiếc được sử dụng rộng rãi trong kĩ thuật.
Chúng được sử dụng làm chất cầm màu khi nhuộm vải bông và tơ lụa, làm cho đồ sứ
và thuỷ tinh có màu đỏ, làm chất nhuộm màu vàng và khi cần thì tạo ra một màn
khói dày đặc. Các hợp chất hữu cơ của thiếc làm cho vải dễ ráo nước, ngăn chặn
được sự mục nát của gỗ, tiêu diệt được một số loài sâu bọ. Nhưng trong tất cả
các hợp chất của thiếc, có lẽ loại hợp chất stanua là được biết đến nhiều nhất
trong kĩ thuật; hợp chất này chuyển sang trạng thái siêu dẫn ở nhiệt độ không
thấp lắm: nếu đa số các kim loại, các hợp kim và các chất chỉ mất điện trở ở
nhiệt độ gần độ không tuyệt đối, thì niobi stanua chuyển sang trạng thái siêu
dẫn (không có điện trở) ngay ở 18 K (hoặc - 255 độ C).

Từ nhiều thế kỉ xa xưa, con người đã biết đến thiếc. Ban đầu, thiếc chỉ
được sử dụng trong hợp kim với đồng: Hợp kim của hai kim loại này được gọi là
đồng đỏ đã được biết đến từ rất lâu Trước Công nguyên. Các công cụ bằng đồng đỏ
cứng hơn và bền hơn hẳn bằng đồng. Có lẽ vì thế mà tên La Tinh của thiếc là “stannum”
bắt nguồn từ tiếng Phạn “sta,” nghĩa là cứng, bền chắc. Còn bản thân thiếc ở
dạng nguyên chất thì lại là một kim loại mềm, hoàn toàn không xứng đáng với tên
gọi của mình. thời gian đã hợp pháp hóa điều nghịch lí lịch sử này và các nhà
luyện kim ngày nay dễ dàng gia công thiếc mềm dẻo mà không ngờ rằng họ đang
động chạm đến một thứ kim loại “cứng.”

Khi khai quật các ngôi mộ được chôn cách đây khoảng sau ngàn năm, người ta
đã tìm thấy một số sản phẩm bằng đồng đỏ. Nói về gương, Plini Bố đã khẳng định
rằng “những tấm gương được làm ở Brunđizi bằng hỗn hợp của đồng và thiếc là
loại gương tốt nhất trong các loại mà tổ tiên chúng ta biết đến.”

Thật khó mà xác định chính xác cái thời mà xã hội loài người bắt đầu sử
dụng thiếc ở dạng nguyên chất. Trong một ngôi mộ cổ Ai Cập thuộc triều vua thứ
XVIII (giữa thiên niên kỉ thứ nhất Trước Công nguyên), người ta đã tìm thấy
một chiếc nhẫn và một cái chai bằng thiếc; những vật này được coi là những đồ
vật bằng thiếc cổ nhất. Trong các tác phẩm của nhà sử học cổ Hy Lạp Herođot
(thế kỉ V Trước Công nguyên) cũng có những chỗ nói đến việc mạ thiếc để giữ
cho sắt khỏi gỉ.

Tại một thành luỹ cổ của người Inka (một bộ tộc da đỏ ở châu Mỹ) ở Pêru,
các nhà bác học đã tìm thấy thiếc nguyên chất; có lẽ nó được dùng để nấu đồng
đỏ: dân cư trong thành luỹ này vốn nổi tiếng là những nhà luyện kim xuất sắc và
là những người thợ khéo léo trong việc chế tác các tác phẩm bằng đồng đỏ. Có lẽ
người Inka không sử dụng thiếc ở dạng nguyên chất, vì trong thành luỹ này không
tìm thấy một đồ vật nào bằng thiếc cả.

Ernan Cortec (Hernando Cortès) - một tên thực dân người Tây Ban Nha từng
xâm chiếm Mêhicô hồi đầu thế kỉ XVI, đã viết: “Đã tìm thấy vài mảng thiếc nhỏ
dưới dạng những đồng tiền mỏng ở thổ dân tỉnh Tacxco; khi tiếp tục tìm kiếm,
tôi đã phát hiện ra là ở tỉnh này cũng như nhiều tỉnh khác, thiếc đã được sử
dụng để làm tiền...”

Giữa những năm 20, ở nước Anh, khi khai quật cạnh một tòa lâu đài cổ từng
được xây dựng hồi thế kỉ III Trước Công nguyên, các nhà bác học đã tìm thấy
những hố nung trong đó có xỉ thiếc. Điều này có nghĩa là ở đây, nghề luyện
thiếc đã phát triển từ hơn hai ngàn năm về trước. Ngoài ra, trong cuốn sách “Bình
luận về cuộc chiến tranh ở xứ Gallia,” Julius Cesar có nói đến việc sản xuất
thiếc ở một số vùng thuộc nước Anh.

Năm 1971, người ta đã minh oan cho 94 người thợ đúc tiền ở nước Anh sau khi
họ đã chết từ lâu. Họ đã bị kết án trước đó... 847 năm. Ngay từ năm 1124, vua
Henry I đã trừng trị những công nhân xưởng đúc tiền của mình về tội gian lận: Một
kẻ nào đó đã tố cáo với nhà vua rằng, khi đúc tiền bằng bạc, những người thợ
đúc đã pha thêm vào quá nhiều thiếc. Tòa án hoàng gia đã vội vàng đưa ra một
bản án hà khắc: Chặt tay phải của những người phạm tội; bản án đã được bọn đao
phủ của triều đình lập tức thi hành ngay. Mãi cho đến tám thế kỉ rưỡi sau, một
nhà bác học ở Oxford đã dùng tia rơngen để phân tích những đồng tiền oan nghiệt
này và đã đi đến kết luận dứt khoát: “Những đồng tiền này chứa rất ít thiếc.
Nhà vua đã xử phạt không đúng.”

Từ thời xa xưa, khoáng vật caxiterit (còn gọi là đá thiếc) là nguồn thiếc
chủ yếu. Trước Công nguyên rất lâu, người Phenycia đã phái tàu thuyền của mình
đi lấy thiếc ở xứ Caxiterit xa xôi (những hòn đảo nhỏ rất giàu quặng thiếc, nằm
ở phía bắc Đại Tây Dương, gần quần đảo Anh), sau này, trung tâm khai thác thiếc
của thế giới đã chuyển về đảo Malaysia. Toàn bộ lịch sử của nước Malaysia - nơi
mà từ lâu đã nổi tiếng giầu có về thiếc, đã gắn liền với kim loại này. Thủ đô
hiện nay của quốc gia này - Kuala Lampua (nghĩa là “cửa sông đục ngầu”), là một
thành phố đẹp, tương đối trẻ, ra đời vào nửa cuối thế kỉ XIX tại nơi mà những
người Trung Hoa đi tìm vàng đã phát hiện ra mỏ quặng thiết rất lớn. Những ai đã
từng đến Kuala Lampua đều mang từ đây về những vật lưu niệm bằng thiếc: lọ cắm
hoa, gạt tàn thuốc lá, chân nến... do bàn tay khéo léo của những người thợ Malaysia
làm ra.

Nhưng thỉnh thoảng người ta cũng chở ra khỏi nước này những “vật lưu niệm”
hoàn toàn khác. Điều đó có thể thấy trong trường hợp sau đây xảy ra ở biên giới
giữa Malaysia và Xingapo. Hai nước này tiếp giáp với nhau bằng một con đê đi
qua eo biển Johore. Con đường chạy dọc thep con đê này luôn luôn chật ních
những ô tô qua lại. Một hôm, một đoàn ô tô kéo rơmooc chở những chiếc cột bằng
bê tông rất cao đi đến trạm kiểm soát quá cảnh ở phía Malaysia. Những chiếc cột
này giống hệt như những chiếc cột thông thường, nhưng có một cái gì đó khiến
nhân viên hải quan cảm thấy khả nghi nên họ đã quyết định “sờ nắn.” Họ ra lệnh
cho tài xế lái xe sang một bên đường và nhờ một chiếc xe cần cẩu, họ đã nhấc
một cái cột ra khỏi ô tô rồi dùng búa tạ đập vỡ thành từng đoạn. Cái gì vậy? Sự
nhạy cảm nghề nghiệp đã không đánh lừa các nhân viên hải quan: trong mỗi cột bê
tông đều có một cái hòm bằng kim loại đựng tinh quặng thiếc - thứ nguyên liệu
rất cần cho các ông chủ nhà máy luyện thiếc ở Xingapo. Trong “bao bì” bằng bê
tông có cả thảy 127 tấn tinh quặng rất giàu thiếc. Một lần khác, trong một
chiếc ô tô xitec khổng lồ mà ở đây người ta gọi là “tàu chở dầu trên cạn,”
thay cho dầu lửa như lời người lái xe đã khẳng định là tám tấn rưỡi tinh quặng
thiếc buôn lậu.

Ở Liên Xô - tại vùng viễn đông, Zabaican và Cazăcxtan cũng có trữ lượng
quặng thiếc khá lớn. Tại phòng bảo tàng của liên hợp xí nghiệp “Thiếc viễn đông”
ở Uxurixcơ còn giữ được một thể liên tinh caxiterit hiếm có, nặng gần nửa tạ.

Cách đây không lâu, Liên Xô đã chế tạo được một khí cụ gọn nhẹ, xách tay
được, dùng vào việc tìm quặng thiếc bằng cộng hưởng tia gama. Để xác định hàm
lượng thiếc trong quặng với độ chính xác đến vài phần vạn, nhà địa chất được
trang bị khí cụ này chỉ mất vài phút là xong. Giá trị của khí cụ này còn thể
hiện ở chỗ là nó chỉ nhạy cảm với caxiterit, chứ không để ý đến một khoáng vật
khác cũng chứa thiếc là stanin mà công nghiệp rất ít quan tâm đến với tư cách
là nguyên liệu để luyện thiếc.

Các nhà khoa học Xô-viết đã có một phát minh lớn: Họ đã xác định được rằng,
có thể dùng flo để làm chất chỉ thị độc đáo về sự có mặt của thiếc trong một
vùng địa chất nào đó. Rất nhiều phép phân tích và thực nghiệm dường như đã cho
phép tái tạo lại bức tranh về sự tạo thành quặng từng diễn ra hàng triệu năm về
trước. Bây giờ mới vỡ lẽ ra rằng, ở những thời kì xa xưa, thiếc đã từng tồn
tại dưới dạng một hợp chất phức trong đó luôn luôn có mặt flo. Dần dần, thiếc
và các hợp chất của nó lắng đọng lại rồi tạo nên các mỏ thiếc, còn “người bạn
cũ” flo của nó thì ở lại gần thân quặng thiếc để “cư trú” vĩnh viễn. Phát minh
này cho phép xác định được những vùng có khả năng có quặng thiếc và thậm chí
còn giúp cho việc dự báo trữ lượng thiếc.

Các nhà địa chất không những tìm kiếm caxiterit ở trên cạn mà còn tìm cả
dưới nước nữa. Nhiều cuộc tìm kiếm đã thu được kết quả tốt: Đã phát hiện được
sa khoáng chứa thiếc ở đáy biển Nhật Bản trong một vùng biển. Nước vên bờ của
các vùng biển thuộc Bắc Băng Dương như vũng Vanka, mũi Thánh và một số nơi khác
cũng giàu sa khoáng chứa thiếc. Những người thợ lặn giúp sức rất nhiều cho
những người đi tìm quặng dưới đáy biển. Và bản thân các nhà địa chất cũng phải
bổ sung thêm bộ đồ lặn vào hành trang thông thường của mình, bởi vì không có nó
thì không thể “lục lọi” phần thềm mũi Thánh được.

Vì thiếu thiếc nên các nhà bác học và các kĩ sư luôn luôn phải tìm chất
khác để thay thế. Trong khi đó, kim loại này càng ngày càng có thêm nhiều lĩnh
vực sử dụng mới. Công ty Mỹ “Ford Motor” đã xây dựng một nhà máy, tại đó đã sử
dụng một phương pháp độc đáo đã sản xuất kính cửa sổ thành dải rộng liên tục.
Thuỷ tinh lỏng từ lò đi vào một bể chứa rất lớn, dài hàng chục mét, ở đây, nó
chảy loang ra theo lớp thiếc nóng chảy. Vì kim loại nóng chảy có bề mặt nhẵn
đến mức lí tưởng, nên khi nguội và đông cứng trên bề mặt kim loại, kính cũng
hết sức nhẵn và phẳng. Loại kính như vậy không cần phải mài nhẵn và đánh bóng,
do đó giảm được nhiều chi phí sản xuất.

Các nhà khoa học Liên Xô đã chế tạo được một loại kính đặc biệt dùng làm
một thứ “bẫy” độc đáo để bắt giữ năng lượng mặt trời. Nhìn bề ngoài thì nó
không khác gì các loại kính thông thường, chỉ có điều là nó được phủ một lớp
thiếc oxit cực kì mỏng. Lớp màng mà mắt thường không thể nhìn thấy được này
cho ánh sáng mặt trời xuyên qua chứ không hề cản trở gì cả, nhưng lại không cho
phép các tia nhiệt phản xạ ngược lại. Loại kính này rất quý đối với các nhà
trồng rau: nhà kính được mặt trời sưởi ấm cả ngày, nhưng ban đêm thì hầu như
nhiệt độ vẫn giữ nguyên, trong khi đó, các loại kính thông thường thì dễ dàng
làm cho nhiệt năng phân tán ra ngoài. Trong các nhà kính loại mới này, các loại
cây rau cảm thấy dễ chịu ngay cả khi nhiệt độ ngoài trời giảm đến - 10 độ C.
Loại kính có phủ thiếc còn được dùng cho các dụng cụ nung nóng bằng năng lượng
mặt trời để thu nhiệt của thiên thể này.

Tiểu sử của thiếc sẽ không đầy đủ nếu không kể đến một câu chuyện gần như
là câu chuyện trinh thám có kết thúc may mắn, trong đó kim loại này đóng vai
trò không nhỏ.

... Chiến tranh thế giới thứ hai sắp đến ngày kết thúc. Hiểu được rằng,
tương lai sắp tới sẽ không hứa hẹn điều gì dễ chịu, bọn cầm quyền quốc gia “độc
lập” Xlovac do Hitle nặn ra hồi năm 1939 trên lãnh thổ Tiệp Khắc đã nghĩ đến
chuyện cất giấu một cái gì đó để phòng ngày mạt vận. Chúng cảm thấy rằng, đơn
giản hơn hết là cứ thò tay móc vàng trong két do công sức của nhân dân Xlovac
làm nên. Nhưng một nhóm người yêu nước giữ các chức vụ trọng trách trong ngân
hàng đã quyết không cho chúng làm điều đó. Một số vàng đã được bí mât chuyển
sang ngân hàng ở Thuỵ Sĩ và được cất giấu ở đó cho đến khi chiến tranh vì lợi
ích của nước Cộng hòa Tiệp Khắc. Những người du kích đã làm được một phần việc
nào đó. Nhưng một phần số vàng vẫn đang nằm trong két sắt của ngân hàng
Bratixlava.

Một trong những tên cầm đầu trong chính phủ bù nhìn đã mật báo với tên đại
sứ Đức ở Bratixlava về những của quý còn nằm trong các tầng hầm sắt và đã yêu
cầu đưa binh lính để mở một “chiến dịch ngân hàng” nhằm cướp đoạt vàng. Thực ra
thì còn phải có thêm tên tướng của quân đội SS làm ban canh ti thứ ba và như
vậy không còn phải nghi ngờ gì về kết quả của vụ cướp bóc nữa.

Bọn lính SS đã bao vây được tòa nhà ngân hàng, còn tên sĩ quan thì vừa dọa bắn
các nhân viên vừa ra lệnh giao nộp của quý. Vài phút sau, chúng đã khuân các
hòm vàng từ các két sắt lên xe tải của bọn SS. Bọn làm ăn đã xoa tay một cách
phấn khởi mà không ngờ rằng, chúng đã vớ phải những thỏi “vàng” do giám đốc
xưởng đúc tiền làm sẵn bằng... thiếc. Còn các nhân viên ngân hàng thì kiểm tra
lại một lần nữa những ổ khóa của những nơi cất giấu vàng thật và bắt đầu nóng
lòng chờ đợi ngày giải phóng đất nước mình khỏi quân đội Hitle.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3