Papillon - Người tù khổ sai - Chương 36 phần 1
Chương 36
Quých-Quých
Chưa đến ba giờ sau, chúng tôi đã đến trước một cái ao đầy bùn. Trên mặt
lớp bùn là những cây hoa sen và những tàu lá xanh và to. Chúng tôi đi theo mép
bùn.
- Cẩn thận đừng có trượt chân đấy, nếu bị ngã xuống là không mong lên được
đâu, - Văn Huê vừa thấy tôi đi loạng choạng đã cảnh cáo tôi.
- Anh cứ đi đi, tôi theo anh, và tôi sẽ cẩn thận hơn.
Trước mặt tôi là một hòn đảo nhỏ, cách xa chừng một trăm năm mươi mét. Từ
giữa cái đảo tí hon ấy, khói hốc lên. Chắc đấy là chỗ đốt than. Tôi nhận thấy
có một con cá sấu nằm trong bùn, chỉ có cặp mắt ló ra. Không biết con cá sấu
này ăn gì để sống trong đống bùn này.
Sau khi đi bộ hơn một kilômét dọc bờ ao có bùn này. Văn Huê dừng lại và cất
tiếng hát một bài hát Tàu. Một bóng người hiện ra bên kia đảo. Đó là một người
nhỏ nhắn, chỉ vận một cái quần cụt. Hai người nói chuyện với nhau rất lâu, tôi
bắt đầu thấy sốt ruột thì vừa may họ cũng ngừng nói.
- Đi lối này - Văn Huê bảo tôi.
Tôi đi theo anh, chúng tôi lại lộn ra.
- Mọi việc tốt cả. Đây là bạn Quých-Quých, Quých-Quých đi săn cũng sắp về
rồi, ta phải đợi ở đây.
Chúng tôi ngồi xuống. Chưa đầy một giờ sau, Quých-Quých về. Đó là một người
nhỏ và gầy, da vàng, răng nhuộm gần như đen bóng, có cặp mắt thông minh và
thẳng thắn.
- Anh là bạn của Chang em tôi?
- Phải.
- Tốt lắm. Anh về được rồi đấy, Văn Huê ạ.
- Cảm ơn anh, - Văn Huê nói.
- Anh cầm con gà gô này về đi.
- Tôi không lấy đâu, cảm ơn anh. - Anh bắt tay tôi rồi quay đi.
Quých-Quých kéo tôi đi theo con heo cứ chạy trước anh. Anh theo sát nó từng
bước.
- Anh hãy chú ý đấy Papillon. Xảy chân, bước lỡ một bước là anh bị sa lầy
ngay. Trường hợp bị nạn, không ai có thể cứu được vì không phải một mà cả hai
cũng tiêu luôn. Đường đi lại thay đổi luôn vì bùn cứ xê dịch hoài, nhưng con
heo vẫn tìm được lối đi. Có một lần, tôi phải chờ hai ngày mới đi qua được.
Quả vậy, con heo đánh hơi và nhanh chóng vượt qua quãng bùn. Anh người Tàu
nói với nó bằng tiếng mẹ đẻ. Tôi di theo ngỡ ngàng vì thấy con vật nhỏ bé này
nghe lời anh như một con chó. Con heo đã đi qua được bên kia mà không lần nào
lún sâu quá vài phân. Anh bạn mới của tôi cũng mau chân theo nó và nói:
- Anh bước theo bước chân tôi nhé. Phải đi rất nhanh vì những vết chân heo
bị lấp rất chóng.
Chúng tôi qua ao bùn không khó lắm. Không lúc nào bùn ngập quá bắp chân
tôi, mà có ngập đến bắp chân thì cũng chí ở đoạn cuối thôi.
Con heo đi hai khúc quành dài, làm chúng tôi buộc lòng phải đi trên lớp đất
chắc ấy một quãng dài hơn hai trăm mét. Mồ hôi tôi chảy ròng ròng khắp người.
Nói là tôi sợ thật chưa đủ. Phải nói là kinh hoàng mới đúng.
Đi quãng đường đầu tiên, tôi tự hỏi không biết số mạng tôi có phải chết như
Sylvain không. Tôi như lại trông thấy anh bạn khốn khổ ấy trong giai đoạn cuối
cùng, và tuy rất tỉnh táo tôi nhận rõ người anh nhưng mặt lại hao hao giống
tôi. Cảm giác của tôi khi tôi đi qua đoạn đường đó thật là ghê sợ. Tôi không dễ
quên ngay.
- Đưa tay cho tôi - Và Quých-Quých, anh chàng bé nhỏ chỉ có xương và da, đã
giúp tôi leo lên bờ.
- Anh bạn ơi, bọn đi săn người không tới đây lùng chúng ta đâu nhỉ.
- Ồ anh yên tâm về chuyện này.
Chúng tôi đi sâu vào đáo: Một mùi thán khí xộc vào họng tôi. Tôi họ đấy là
mùi khói của hai cái lò đốt than đang bốc cháy - ở đây tôi không còn sợ muỗi.
Một cái lán nhỏ, lợp lá, vách cũng bằng lá kết lại với nhau, đứng trước gió,
chung quanh mù mịt khói. Có một cửa vào, và đứng trước cứa là cái ông già người
Đông dương bé nhỏ mà tôi đã trông thấy trước khi gặp Quých-Quých.
- Chào me-xừ.
- Nói tiếng Pháp với anh ấy, đừng dùng tiếng địa phương, anh ta là bạn của
em tôi đấy.
ông già người Tàu, bé quắt một mẩu, nhìn tôi từ đầu đến chân. Hài lòng về
cuộc quan sát của mình, ông chìa tay ra cho tôi, miệng mỉm cười móm mém. Vào đi
ngồi xuống đây.
Cái bếp duy nhất này trông rất sạch sẽ. Trên bếp là một cái nồi to không
biết đun nấu gì. Chỉ có một cái giường bằng cành cây đan với nhau, cao cách mặt
đất ít nhất là một mét.
- Ông giúp tôi làm thế nào cho anh ấy có chỗ ngủ đêm nay đi.
- Được rồi.
Chưa đầy nửa giờ sau, chỗ nằm của tôi đã xong. Hai người Tàu dọn thức ăn ra
và chúng tôi ăn một món xúp tuyệt ngon, rồi cơm trắng với thịt nấu hành. Ông
bạn Quých-Quých là người đi bán than củi. Ông ta không ở lại đảo, vì vậy tối
đến, chỉ còn lại Quých-Quých và tôi.
- Phải, tôi đã lấy trộm cả bầy vịt của trại trưởng, vì vậy tôi phải vượt
ngục.
Chúng tôi ngồi đối diện với nhau ngọn lửa nhỏ chốc chốc lại bốc lên soi
sáng mặt chúng tôi. Mặt Quých-Quých không vàng hẳn. Do phơi nắng, màu vàng tự
nhiên đã chuyến thành màu đồng đỏ. Mắt anh xếch, đen nhánh, khi anh nói với ai
là mắt anh nhìn thẳng vào mắt người ấy. Anh hút những điếu xì- gà dài mà anh
dùng lá thuốc đen cuốn lấy. Tôi vẫn cuốn thuốc lá bằng tấm giấy bản mà anh cắt
cho tôi.
- Tôi phải trốn vì trại trưởng, chủ đàn vịt, muốn giết chết tôi, chuyện ấy
cách đây đã ba tháng. Khổ một cái là tôi thua bạc, không chỉ mất hết tiền bán
vịt mà mất cả tiền bán than của hai lò than này.
-Anh chơi ở đâu?
- Chơi trong rừng. Đêm nào cũng đánh với mấy anh Tàu ở trại Inini và mấy
anh tù mãn hạn từ bên Thác sang.
- Anh đã quyết định vượt biển chưa?
- Tôi chỉ mong có thế. Khi tôi
bán được than củi, tôi tính mua một chiếc ghe, tìm một người biết lái chịu đi
với tôi. Nhưng trong ba tuần nữa, ta bán than rồi là có thể mua một chiếc ghe
và đi đường biển, vì anh biết lái mà.
- Tôi có tiền đây, anh
Quých-Quých ạ, không cần phải chờ bán được than mới mua thuyền.
- Thế thì hay. Có một chiến
thuyền tốt lắm, một ngàn năm trăm francs, của một người da đen làm nghề bổ củi
bán.
- Anh đã coi chưa?
- Rồi.
- Nhưng tôi cũng muốn xem.
- Mai, tôi sẽ đi gặp Sô-cô-la,
tôi vẫn gọi hắn như vậy Papillon ạ, anh kể cho tôi nghe chuyện vượt ngục của
anh đi. Tôi tưởng không thể nào vượt ngục từ đảo Quỷ đi được. Sao Chang không
đi cùng anh?
Tôi kể với anh chuyện vượt ngục,
con sóng Lisette, cái chết của Silvain.
- Tôi hiểu tại sao Chang không
muốn đi với anh. Thật là quá mạo
hiểm. Số anh đỏ lắm đấy, cho nên anh mới sống sót mà tới đây được. Tôi mừng cho
anh lắm.
Quých-Quých và tôi trò chuyện với nhau đã ba giờ.
Chúng tôi ngủ sớm vì anh muốn đi tìm Sô-cô-la ngay lúc hừng đông. Sau khi
đặt vào bếp một cành cây to để nó cháy suốt đêm, chúng tôi ngủ. Khói làm tôi ho
và tắc cả mũi, nhưng có điều lợi là không có lấy một con muỗi.
Nằm trên giường, đắp chăn ấm, tôi nhắm nghiền mắt. Tôi không sao ngủ được.
Tôi bị căng thẳng quá. Đúng là chuyến vượt ngục diễn ra thật tốt đẹp. Nếu tàu
tốt chỉ tám ngày nưa là tôi sẽ ra khơi. Quých-Quých nhỏ và gầy, nhưng anh có
sức mạnh phi thường, và sức chịu đựng của anh có thể vượt qua được mọi thứ
thách. Chắc chắn là anh trung thực và đàng hoàng đối với bạn, nhưng có thể anh
cũng rất tàn nhẫn với kẻ thù. Khó mà nhận xét được điều gì trên mặt một người Á
đông, nó chẳng bộc lộ chút gì hết. Tuy vậy, mắt anh đã nói thay anh.
Tôi ngủ thiếp đi và mơ thấy biển khơi tràn đầy ánh nắng, tàu của tôi tưng
bừng vượt sóng trên đường đi tới tự do.
- Anh uống cà-phê hay trà?
- Thế anh uống gì?
- Tôi uống trà.
- Vậy cho tôi trà.
Trời vừa ló sáng, lửa vẫn cháy từ đêm qua, nước reo trong xoong. Một con gà
vui mừng cất tiếng gáy. Chung quanh chúng tôi không có tiếng chim kêu, chắc
chắn khói đã làm chúng bạt đi mất. Con heo đen nằm trên giường với Quých-Quých.
Con heo chắc làm biếng lắm, vì đến giờ nó vẫn còn ngủ. Những miếng bánh tráng
làm bằng bột gạo đang được nướng trên than hồng. Sau khi pha trà đường, anh bạn
tôi cắt bánh làm đôi, phết mỡ rồi đưa cho tôi. Chúng tôi ăn một bữa thịnh soạn.
Tôi ăn ba chiếc bánh tráng đã được nướng kỹ.
- Tôi đi đây, anh theo tôi ra nhé. Nếu có ai kêu hay huýt sáo, đừng trả
lời. Anh không phải lo, không ai đến đây được. Nhưng nếu anh ra chỗ mép bùn,
anh có thể bị chết đấy.
Con heo đã dậy theo tiếng gọi của chủ. Nó ăn, uống rồi ra ngoài, chủ nó đi
theo nó. Nó đến thẳng nơi có bùn. Nó đi xuống cách đoạn đường chúng tôi tới đây
hôm qua hơi xa hơn một chút. Đi được vài chục mét, nó quay lại: nó không ưng
lối này. Sau khi dò thử ba lần, nó mới vượt qua chỗ bùn. Quých-Quých theo ngay
nó, không e ngại, và đã tới được chỗ đất rắn. Mãi tận chiều, Quých-Quých mới
về. Tôi ăn một mình món súp anh đã đặt trên đống lửa. Sau khi nhặt được tám quả
trứng trong chuồng gà, tôi lấy mỡ làm một đĩa ba quả trứng ốp-lết. Gió đã đổi
chiều và khói ở hai lò bên lán đã bay về hướng khác. Buổi chiều trời mưa, tôi nằm
trên giường gỗ của tôi, tôi không bị thán khí làm cho khó chịu.
Buổi sớm, tôi dạo một vòng quanh đảo. Khoảng giữa đảo có một khu đất trống
khá rộng, cây đổ và củi bổ tại đó chứng tỏ là Quých-Quých lấy gỗ ở đấy để đốt
thành than. Tôi còn thấy một cái hố có đất sét trắng, chắc anh moi lên để phết
vào gỗ làm cho nó cháy không thành ngọn. Lũ gà kiếm ăn ở khu đất trống. Một con
chuột kếch xù chạy vụt dưới chân tôi, và cách đấy vài thước, tôi thấy một con
rắn dài gần hai mét đã chết.
Chắc hẳn con chuột đã cắn chết con rắn.
Suốt ngày hôm ấy, ở một mình trên đảo, tôi khám phá hết cái nọ đến cái kia.
Ví dụ, tôi gặp một gia đình những con ăn kiến. Một mẹ và ba con. Một tổ kiến to
đang sôi sục quanh chỗ chúng. Hơn một tá khỉ rất nhỏ nhảy từ cành nọ sang cành
kia trên khoảng đất trống.
- Tôi không gặp Sô-cô-la, cũng không thấy chiếc thuyền. Chắc anh về làng ở
vùng Thác mua thực phẩm. Anh ăn đủ chưa?
- Rồi.
- Anh còn muốn ăn nữa không?
- Không.
- Tôi mang về cho anh hai gói thuốc đen, loại sợi to của lính: vì chỉ có thứ
này.
- Cảm ơn anh, thứ này được rồi. Khi Sôcôla đi vắng, thường anh ta ở lại
làng mấy ngày?
- Hai ba ngày, nhưng mai tôi lại đi, ngày nào tôi cũng đi, vì tôi không
biết anh ta đi lúc nào.
Hôm sau trời mưa tầm tã. Nhưng Quých-Quých vẫn trần truồng đội mưa ra đi.
Anh bọc quần áo trong một tấm vải sơn cắp dưới nách. Tôi không tiễn chân anh.
- Anh đừng đi làm gì cho ướt.
Anh nói với tôi thế. Mưa đã tạnh. Nhìn mặt trời, tôi biết là đã mười một
giờ. Lò than thứ hai bị nước mưa làm sập. Tôi tới gần để ước lượng tai họa này.
Mưa xối xà cũng không làm tắt hết củi. Vẫn còn khói từ trong cái đống dị hình
đó bốc lên. Bỗng tôi dụi mắt rồi nhìn lần nữa vì những thứ tôi trông thấy thật
bất ngờ: trong lò than có năm chiếc giày. Trông rõ ngay là mỗi chiếc giày đều
đặt thắng đứng trên gót, đều được xỏ vào một cái chân còn nguyên từ bàn chân
lên đến bắp. Như vậy là có ba người bị thiêu trong lò. Không cần phải mô tả
phản ứng đầu tiên của tôi: khám phá ra chuyện này tôi thấy lành lạnh ở sống
lưng. Tôi cúi xuống lấy chân bới chút tàn than cháy dở, thì thấy bàn chân thứ
sáu.
Quých-Quých cũng ghê thật, anh đã biến những người anh giết hàng loạt thành
tro bụi. Tôi bị xúc động đến nỗi phải rời khỏi lò than ngay ra tận khu bãi
trống đế có chút ánh nắng. Tôi cần phải được sưởi nóng. Đúng, trong không khí
ngột ngạt này, tôi bỗng thấy lạnh và cần phải có một chút mặt trời nhiệt đới.
Đọc đến đây, chắc độc giả cho là chuyện vô lý: đáng lẽ sau khi khám phá ra việc
này, tôi phải toát mồ hôi mới phải. Thế mà không, tôi thấy lạnh cóng người, về
tinh thần và thể chất. Rất lâu, đến một tiếng đồng hồ sau, mồ hôi mới bắt đầu
chảy trên trán tôi vì càng nghĩ, tôi càng thấy rằng, tôi đã nói với anh ta là
tôi có rất nhiều tiền giấu ở trong plan thế mà đến bây giờ tôi vẫn còn sống thì
thật là một điều kỳ diệu. Phải chăng anh ta để dành tôi cho một cái lò đốt than
thứ ba?
Tôi nhớ là Chang em của anh đã nói với tôi là anh bị kết án về tội ăn cướp
và giết người trên một chiếc thuyền buồm. Khi họ tấn công một chiếc tàu để cướp
của, họ giết cả gia đình, tất nhiên là vin vào những lý do chính trị. Vậy thì
đây là những người đã quen giết người hàng loạt. Thế mà tôi lại bị cầm giữ ở
đây. Tôi ở trong một hoàn cảnh thật gay go. Thứ điểm lại tình hình xem sao. Nếu
tôi giết Quých-Quých trên đảo này rồi cho xác anh vào lò than, không ai hay
biết được. Nhưng con heo lại không chịu nghe tôi con heo được rèn luyện này
cũng không hiểu tiếng Pháp. Vậy là không có cách nào ra khỏi đảo. Nếu tôi ép
buộc được anh Tàu này nghe theo tôi, thì sau khi bắt anh đưa tôi ra khỏi đảo,
tôi sẽ giết anh trên đất liền. Nếu tôi ném anh xuống bùn, anh sẽ biến mất,
nhưng chắc anh phải có lý do gì đế thiêu những người này mà không ném xác họ
xuống bùn, làm thế dễ hơn nhiều. Bọn cai tù, tôi đếch sợ, nhưng nếu các bạn Tàu
của anh khám phá ra là tôi đã giết anh, họ sẽ thành kẻ đi săn người. Họ lại
thông thạo địa thế ở đây. Như vậy, bị họ đuổi theo chẳng phải là chuyện hay hớm
gì.
Quých-Quých chỉ có khẩu súng trường một nòng, nạp đạn từ phía đầu nòng. Anh
không chịu rời nó, kể cá lúc nấu ăn, lúc ngủ và ngay cả khi đi ngoài anh cũng
mang súng theo. Tôi có con dao lúc nào cũng mở sẵn nhưng tôi còn phải ngủ. Thế
mà anh lại là người tôi chọn để cùng vượt ngục đấy, thật oái oăm. Cả ngày hôm
ấy tôi không ăn. Và khi tôi nghe tiếng anh hát, tôi cũng chưa quyết định làm
gì. Quých-Quých đã trở về. Nấp sau các cành cây tôi thấy anh đi tới. Anh mang
một cái bọc đặt thăng bằng trên đầu và khi anh đến bên tôi, tôi mới ló ra. Anh
tươi cười đưa tôi gói đồ bọc trong cái bao bột mì, leo lên rồi đi vội vào nhà.
Tôi đi theo anh.
- Tin mừng, Papillon ạ, Sô-cô- la đã về rồi, thuyền vẫn còn. Anh ta nói là
tàu có thể chở được hơn năm trăm kí-lô mà vẫn nổi. Thứ anh đang cần là những
bao bột mì để ghép lại thành buồm chính và một buồm mui. Đây là bọc hàng đầu
tiên. Nhưng thứ còn lại mai ta sẽ lấy về nốt, vì anh sẽ đi xem thuyền với tôi.
Quých-Quých vừa đi vừa nói, không quay mặt lại.
Chúng tôi nối gót nhau đi. Trước tiên là con heo, rồi đến anh ta, còn tôi
đi sau cùng. Tôi thoáng nghĩ rất nhanh là anh không có vẻ gì có ý định cho tôi
vào lò than, vì ngày mai anh sẽ đưa tôi đi xem thuyền, và anh đã bắt đầu tiêu
pha để chuẩn bị cho cuộc vượt ngục: anh còn mua cả những bao bột mì.
- Một cái lò bị sập đổ kìa. Chắc tại trời mưa.
- Mưa nhiều quá nên cũng chẳng có gì là lạ.