Papillon - Người tù khổ sai - Chương 28 phần 1

Chương 28

Cầm cố lần thứ hai

Tôi cùng trở về Quần đảo với anh
chàng Ba Lan, tay tôi và tay anh ta cùng khóa cung một cái khoá. Chúng tôi đã
không phải nằm lì trong các xà-lim ở Saint-Laurent! Đến đấy vào thứ hai, ra tòa
hôm thứ năm, thì thứ sáu đã lên tàu trở về Quần đảo.

Chúng tôi có cả thảy mười sáu
người được đưa ra Quần đảo, trong đó có mười hai người bị cấm cố. Biển động
mạnh, chốc chốc lại có một đợt sóng lớn tràn qua boong tàu. Trong cơn tuyệt
vọng, tôi đi đến nước mong sao cho chiếc tàu cà khổ này đắm quách. Tôi không
nói chuyện với ai. Ngọn gió ẩm ướt quất vào mặt tôi làm cho tôi hướng vào nội
tâm. Tôi không tìm cách che gió, ngược lại, tôi còn cố ý để cho mũ bay mất:
trong suốt tám năm ròng cấm cố, tôi còn cần gì đến mũ? Mặt quay thẳng ra phía
gió, tôi hít làn không khí ướt át đang quất vào tôi cho đến ngạt thở thì thôi.
Sau khi mong tàu đắm, tôi cố định thần lại: “Bébert Celier đã làm mồi cho cá
mập; còn mày, mày mới ba mươi tuổi, và phải ngồi tù cấm cố tám năm.” Nhưng liệu
có qua nổi tám năm trong những bức tường của cái chuồng giam ăn người ấy không?

Cứ theo kinh nghiệm của tôi đã
qua, tôi nghĩ rằng không thể nào qua nổi. Bốn hay năm năm hẳn là cái giới hạn
tột cùng của sức để kháng tối đa có thể có được. Giá tôi không giết Celier, tôi
chỉ ngồi có ba năm, thậm chí chỉ hai năm thôi, vì vụ giết người đã làm cho các
khoản kia nặng thêm, kể cả khoản vượt ngục. Lẽ ra tôi đừng giết cái thằng khốn
nạn ấy mới đúng. Bổn phận làm người của tôi đối với bản thân tôi không phải là
xét xử kẻ khác để lập lại công bằng cho tôi, mà trước hết và trên hết là phải
sống, sống mà để vượt ngục. Làm sao tôi lại có thể phạm một sai lầm như vậy? Đó
là chưa kể chỉ có một chút xíu nữa là hắn giết tôi, cái đồ rác rưởi ấy. Sống,
sống cho bằng được, lẽ ra đó phải là tôn giáo duy nhất của tôi. Trong số những
viên giám thị đi áp giải đoàn tù có một người tôi đã từng gặp ở nhà lao cấm cố.
Tôi không biết hắn tên là gì, nhưng tôi không sao cưỡng lại được ý muốn hỏi hắn
một câu.

- Thưa sếp, tôi muốn hỏi sếp một
điều này.

Viên giám thị ngạc nhiên, lại gần
tôi nói:

- Điều gì?

- Sếp đã từng biết có ai qua được
tám năm cấm cố chưa?

Hắn nghĩ một lát rồi nói:

- Chưa, nhưng tôi biết có mấy
người đã qua được năm năm, và còn có một người, tôi còn nhớ rất rõ, đã ra khỏi
nhà lao khỏe mạnh và cân bằng sau sáu năm cấm cố. Tôi có mặt ở nhà lao khi
người này được thả.

- Cảm ơn sếp.

- Không có gì - viên cảnh sát
nói. - Anh bị tám năm phải không?

- Thưa sếp vâng.

- Anh chỉ có thể qua được nếu anh
không bị phạt lần nào. - Nói đoạn hắn bỏ đi.

Câu này rất quan trọng. Đúng, tôi
chỉ có thể sống sót mà ra khỏi nhà lao nếu tôi không bị phạt một lần nào. Thật
thế, nếu bị phạt, anh sẽ bị giảm một phần hay toàn bộ suất ăn trong một thời
gian nào đấy, và về sau, ngay đến khi đã được trở lại chế độ ăn bình thường,
anh vẫn không tài nào lấy lại sức được nữa. Chỉ cần vài lần bị phạt hơi nặng
một chút là anh không thể chịu đựng đến cùng được nữa, anh sẽ chết trước khi
mãn hạn. Kết luận: tôi không được nhận dừa, hay thuốc lá, thậm chí cũng không
được viết và nhận thư nữa. Trong phần còn lại của chuyến đi, tôi không ngừng
nhai đi nhai lại cái quyết định này. Không nhận gì hết, tuyệt đối không, dù từ
bên ngoài hay từ bên trong. Tôi nảy ra một ý: cách duy nhất để được ăn khá hơn
một chút là làm sao từ bên ngoài có ai đút tiền cho mấy tên phát xúp để họ chọn
cho tôi miếng thịt to nhất và ngon nhất trong bữa xúp buổi trưa. Việc này dễ,
vì một người múc xúp vào cà-mèn tù nhân, rồi một người bưng khay đi theo sau bỏ
một miếng thịt vào phần xúp đã múc. Người múc xúp phải vét xuống đáy thùng để
vớt thật nhiều rau vào muối. Nghĩ ra được cách này, tôi thấy vững tâm. Quả
thật, tôi rất có thể không bị đói, và ăn gần đủ chất nếu phương cách kia được
thu xếp chu đáo. Tôi chỉ còn mỗi việc mơ mộng, thá hồn bay đi thật nhiều, cố
chọn những đề tài tươi vui để tưởng tượng, cho khỏi phát điên.

Chúng tôi đã về đến quần đảo. Lúc
bấy giờ là ba giờ chiều. Vừa lên bờ, tôi đã nhìn thấy tà áo màu vàng nhạt của
Juliette đang đứng cạnh chồng, ông chỉ huy trại bước nhanh đến cạnh tôi, trước
khi đoàn tù có đủ thì giờ xếp hàng, và nói:

- Bao nhiêu?

- Tám năm.

Ông ta trở lại cạnh vợ và nói cho
bà biết. Xúc động mạnh, bà ngồi xuống một tảng đá. Có thể thấy rõ bà thất vọng
ê chề. Chồng bà nắm lấy cánh tay bà, bà đứng dậy, và sau khi đưa về phía tôi
một cái nhìn nặng tình thương xót của đôi mắt mênh mông, bà đi theo chồng,
không ngoái lại.

- Papillon, bao nhiêu? - Dega hỏi tôi.

- Tám năm cấm cố.

Dega lặng thinh, không dám nhìn tôi. Galgani lại gần. Trước khi anh ta kịp
nói, tôi dặn:

- Đừng gởi gì cho tôi, cũng đừng viết gì. Thời hạn lâu như vậy, tôi không
thể để cho bọn họ có cớ phạt tôi.

- Tôi hiểu.

Tôi nói thầm rất nhanh: “cậu tìm cách làm sao cho họ dành phần khá trong
suất ăn tù cho tôi, vào buổi trưa và buổi tối. Nếu cậu làm được, có lẽ một ngày
kia chúng mình sẽ còn gặp lại nhau. Gửi Chúa.”

Tôi tự động đi về phía chiếc xuồng đầu tiên sẽ đưa tù cấm cố đến
Saint-Joseph. Mọi người đều nhìn theo tôi như nhìn một cỗ quan tài đang hạ
huyệt. Không ai nói một lời. Trên đoạn đường ngắn ngủi này, tôi nhắc lại với
Charpar những điều tôi đã nói với Galgani. Anh ta đáp:

- Chắc làm được thôi. Can đảm lên Papi - Rồi anh nói thêm - Thế còn
Matthieu Carbonieri thì sao?

- Tôi quên mất cậu ấy, cậu tha thứ cho tôi. Chủ tọa Tòa án binh đã yêu cầu
bổ sung tài liệu về trường hợp cậu ấy trước khi ra quyết định, như thế là đáng
mừng hay đáng lo?

- Chắc là đáng mừng.

Tôi đi ở hàng đầu một toán gồm mười hai người đang leo lên đốc để đến nhà
lao Cấm cố. Tôi đi rất nhanh, kể cũng lạ: tôi nóng lòng muốn ngồi lại một mình
trong buồng giam. Tôi rảo bước đến nỗi tên lính gác nói:

- Từ từ chứ Papillon. Có vẻ như anh đang vội quay về ngôi nhà mà anh mới từ
giữ cách đây chẳng bao lâu.

- Đến nơi rồi.

- Cởi hết ra! Đây là vị chỉ huy nhà lao Cấm cố.

- Tôi lấy làm tiếc là anh lại trở lại, Papillon ạ, - Ông nói. Đoạn lại
chuyển sang bài diễn văn quen thuộc:

- Các phạm nhân cấm cố! ở đây v.v...

Sau đó ông lại nói với tôi:

- Nhà A, buồng một trăm hai bảy.
Buồng giam khá nhất đấy Papillon ạ, vì anh được ở trước mặt cửa hành lang, do
đó anh có nhiều ánh sáng hơn, và không bao giờ bị thiếu không khí. Tôi hy vọng
anh sẽ có hạnh kiểm tốt. Tám năm là một thời hạn rất dài. Nhưng có lẽ với một
hạnh kiểm thật tốt, anh có hy vọng được án giảm một hai hay năm. Tôi cầu mong
anh được như thế, vì anh là một người can đảm.

Thế là tôi về buồng giam một trăm
hai bảy. Quả nhiên nó ở ngay trước mặt một khung cửa lớn có chấn song đưa vào
hành lang. Tuy đã sáu giờ mà trông còn khá rõ. Căn buồng cũng không có cái mùi
và cái vị của một nơi đựng đồ mục ruỗng như căn buồng của tôi lần trước.

Điều đó làm cho tôi vừng lòng đôi
chút: “Anh bạn Papillon thân mến, đây là bốn bức tường sẽ nhìn anh sống trong
tám năm. Chớ làm cái việc đếm tháng đếm giờ, việc đó hoàn toàn vô ích. Nếu anh
muốn có một đơn vị khả thủ để đo thời gian, anh phải tính từng lục cá nguyệt. Mười
sáu lần sáu tháng là anh mãn hạn. Dù sao thì anh cũng được một ưu thế. Anh có
chết ở đây thì ít nhất cũng được chết trong ánh sáng, nếu anh chết vào ban
ngày. Điều này rất quan trọng. Chết trong bóng tối chắc chẳng vui chút nào. Nếu
anh ốm, ít ra bác sĩ cũng nhìn thấy được mặt anh. Anh không việc gì phải tự
trách móc vì đã muốn sống lại bằng cách vượt ngục, và quả tình cũng không nên
tự trách mình đã giết chết thằng Celier. Anh thử tưởng tượng xem anh sẽ đau đớn
nhường nào khi nghĩ rằng trong lúc anh đang ngồi đây thì hắn đã lên đường vượt
ngục. Thời gian sẽ trả lời. Biết đâu rồi đây chẳng có một cuộc đại ân xá, một
cuộc chiến tranh, một trận động đất, một trận bão lốc, làm cho cái pháo đài này
sụp đổ tan tành? Sao lại không? Biết đâu rồi đây chẳng có một con người trung
trực từ đây trở về Pháp khuấy động được niềm công phẫn trong lòng dân Pháp, và
dân Pháp sẽ buộc ban Quản trị trại trừng giới bãi bỏ cái lối giết người không
cần đến máy chém này? Hoặc giả một ông bác sĩ, buồn nôn trước cái cảnh này, kể
lại cho một nhà báo, một ông linh mục gì đấy, tôi làm sao biết được? Dù sao thì
thằng Celier đã được lũ cá mập tiêu hóa từ lâu. Còn tôi, tôi vẫn còn đây, và
nếu tôi xứng đáng với bản thân, tôi sẽ sống cho đến cùng để ra khỏi nấm mồ này.”

Một, hai, ba, bốn, năm, đằng sau
quay; một, hai, ba, bốn, năm, đằng sau quay; tôi bắt đầu đi đi lại lại, ngay
lập tức tìm lại được cái tư thế tối ưu của đầu, của tay, và chiều dài chính xác
của mỗi bước đi để cho quả lắc hoạt động hoàn hảo. Tôi quyết định chỉ đi đi lại
lại hai giờ vào buổi sáng và hai giờ vào buổi chiều, cho đến khi nào biết chắc
là sẽ có được một chế độ ăn ưu tiên về lượng. Trong tình trạng tinh thần kích
động của những ngày đầu, không nên lãng phí năng lượng một cách vô ích.

Phải, đến phút cuối mà thất bại
cũng thật thê thảm. Tuy đây mới chỉ là phần đầu của cuộc vượt ngục: còn phải
gặp may trong một chuyến vượt biển dài hơn một trăm năm mươi cây số trên chiếc
bè mỏng manh này. Và tùy nơi đổ bộ lên Đất liền, lại phải bắt đầu một hành
trình đào tẩu khác. Nếu hạ thủy bình yên, cánh buồm làm bằng ba cái bao bột sẽ
đưa chiếc bè đi với tốc độ hơn mười cây một giờ. Không đầy mười lăm tiếng, có
lẽ mười hai cũng nên, sẽ đến đất liền. Dĩ nhiên là nếu ngày hôm ấy trời mưa, vì
chỉ có trời mưa mới dám căng buồm. Tôi nhớ mường tượng hình như hôm tôi bị giam
vào xà-lim, trời mưa thì phải. Tôi không chắc lắm. Tôi tìm thử xem tôi đã phạm,
những lỗi lầm gì. Tôi chỉ thấy có hai. Anh thợ mộc đã muốn làm một cái bè quá
tốt, quá chắc chắn, cho nên để ghép dừa vào, đã phải bỏ công ra làm một cái
khung phức tạp gần như thành hai chiếc bè ghép vào nhau. Thành thử phải làm quá
nhiều bộ phận và mất quá nhiều thì giờ vào đấy để làm cho thật cẩn thận và kín
đáo

Thứ hai, là sai lầm nghiêm trọng
nhất: khi đã có nghi vấn nghiêm trọng về Celier, lẽ ra tôi phải giết hắn ngay
đêm hôm ấy. Giá tôi làm như vậy, không biết bây giờ tôi đã ở tận đâu đâu rồi?
Dù có bị bại lộ khi đến Đất liền hay bị bắt ngay khi hạ thủy, thì tôi cũng chỉ
ăn ba năm chứ không phải là tám, mà lại có được sự thỏa mãn của hành động. Giả
sử mọi việc đều xuôi lọt bây giờ tôi đang ở đâu? Có thánh mà biết được. Có lẽ
đang nói chuyện với ông Bewen ở Trinidad, hay đang ở Curacao dưới sự bảo trợ
của Giám mục Irénée de Bruyne. Và từ đó, chúng tôi sẽ chỉ lên đường khi nào đã
biết chắc có một nước nào chịu nhận chúng tôi. Nếu không, tôi sẽ dễ dàng đi một
mình, trên một con thuyền nhỏ, hướng thẳng về Guajira, lãnh thổ của bộ lạc đã
dung nạp tôi làm một thành viên. Rất khuya tôi mới ngủ được, nhưng giấc ngủ của
tôi đêm ấy cũng bình thường. Cái đêm đầu ấy đã không đến nỗi quá khổ sở. Sống,
sống cho bằng được. Tôi sẽ phải tự nhắc đi nhắc lại, mỗi khi thấy mình sắp
buông xuôi vào tuyệt vọng, câu châm ngôn sau đây của niềm tin ở tương lai:
“Chừng nào hãy còn sống là hãy còn hy vọng.”

Một tuần lễ đã trôi qua. Kể từ
hôm qua tôi đã nhận thấy có sự thay đổi trong suất ăn hàng ngày. Bữa ăn trưa
tôi được một miếng thịt hầm rất to, rồi bữa tối là cả một cà mèn rau muống, rất
ít nước. Như một đứa trẻ, tôi tự nhủ: “Rau muống có chất sắt, bổ lắm.”

Nếu tình hình này kéo dài, tôi sẽ
có thể đi đi lại lại mấy ngày từ mười đến mười hai tiếng đồng hồ, và đến tối,
thân thể mỏi mệt, tôi có thể tha hồ du hành giữa cái vì sao. Không, tôi không
đi lan man đâu, tôi đang ở trên trần thế, thực sự đang sống trên trần thế, tôi
nghĩ đến tất cả những trường hợp các phạm nhân đã gặp phải mà tôi được nghe kể
trong thời gian sống trên Quần đảo. Mỗi người đều có thiên lịch sử của mình,
đều có một quá khứ và một hiện tại. Tôi cũng nghĩ đến những truyền thuyết mà
người ta thường kẻ cho nhau nghe trên quần đảo. Trong đó có một chuyện mà tôi
tự hứa là sẽ kiểm tra lại xem thực hư ra sao: đó là chuyện cái chuông.

Như tôi đã có dịp nói, phạm nhân
chết không được chôn cất, mà bị đem ném xuống biển ở khoảng giữa đảo
Saint-Joseph và đảo Royale, một nơi nhung nhúc những cá mập. Người chết được
bọc trong mấy cái bao bột, chân buộc vào một cục đá lớn. Một cái thùng hình chữ
nhật dài, được dùng thường xuyên cho mọi người, đặt nằm dọc ở phía trước mũi
thuyền. Đến nơi đã ấn định, sáu phạm nhân chèo thuyền nâng mái chèo lên khỏi
mặt nước, ngang tầm mạn thuyền. Một người dốc cái thùng, một người khác mở cái
nắp ở bản lề ở đầu thùng ra. Bấy giờ cái xác chết tụt xuống biển. Có một điều
chắc chắn, không thể hồ nghi gì được, là ngay tức khắc lũ cá mập cắn đứt sợi
thừng buộc đá vào chân tử thi. Không bao giờ tử thi có đủ thì giờ chìm xuống
sâu lắm. Nó lại trồi lên mặt nước, và lũ cá mập bắt đầu tranh nhau miếng mồi
ngon ấy. Theo những người đã chứng kiến cảnh này, nhìn lũ cá mập ăn thịt người
tù đã chết là một cảnh tượng gây cảm giác rất mạnh, vì khi cá mập đến đông,
chúng nâng cả cái bọc vải liệm lên khỏi mặt nước, xé tung nó ra và đớp từng
miếng thịt người to tướng.

Cái thủ tục mai táng ấy diễn ra
đúng như tôi đã tả nhưng có một điều tôi chưa xác minh được. Các phạm nhân,
không trừ một ai, đều nói rằng cái làm cho cá mập tụ tập đến chỗ ấy chính là
tiếng chuông của nhà thờ trại giam đánh lên mỗi khi có người chết. Họ nói là
nếu anh đứng ở đầu con kè dài từ đảo Royale đâm ra biển vào lúc sáu giờ chiều,
có những ngày không thấy có lấy một con cá mập nào. Nhưng khi ngôi nhà thờ nhỏ
của trại giam gióng chuông lên, chỉ một nhoáng ở đấy đã nhung nhúc một đàn cá
mập đến chờ người chết, vì không còn lý do nào khác khiến cho chúng nó tập
trung về đấy đúng vào giờ ấy. Mong sao tôi sẽ không phải làm món ăn cho lũ cá
mập của đảo Royale trong một hoàn cảnh tương tự. Chúng nó có nhai tươi nuốt
sống tôi trong một chuyến vượt ngục thì cũng đành, ít nhất thì đó cũng là một
sự cố xảy ra trên đường đi tìm tự do. Nhưng nếu là sau khi tôi chết bệnh trong
một căn buồng giam thì xin đừng! Một việc như thế không thể để xảy ra được.

Được ăn đủ chất nhờ cách dàn xếp
của các bạn tôi, sức khỏe tôi vẫn hoàn hảo. Tôi đi đi lại lại trong phòng giam
từ bảy giờ sáng đến sáu giờ chiều, không lúc nào ngưng. Thành thử cái cà-mèn
đầy rau quả khô, rau muống, đậu đũa hay cơm rang của bữa ăn tôi bao giờ cũng
được vét sạch. Bao giờ tôi cũng ăn hết mà không phải cố gắng gì. Cái môn đi đi
lại lại rất có lợi cho cơ thể của tôi, sự mệt mỏi mà nó đem lại cho tôi là một
sự mệt mỏi lành mạnh, và trong khi đi như vậy, tôi lại còn tìm được cách tự
phân thân ra thành hai. Như hôm qua chẳng hạn, tôi đã suốt ngày rong chơi trên
những cánh đồng cỏ của một thôn nhỏ ở Ardèche gọi là thôn Favras. Hồi mẹ tôi
mất rồi, tôi hay đến đấy ở chơi vài tuần với bà dì em ruột mẹ tôi làm giáo viên
trong trường làng. Thế thì hôm qua tôi đã thực sự dạo chơi trong khóm rừng
phong, thấy đâu có nấm lại cúi xuống nhặt, rồi tôi lại nghe bạn tôi, cậu bé
chăn cừu hô lớn những mệnh lệnh sai bảo con chó berger, và con vật khôn ngoan
răm rắp thi hành những mệnh lệnh của cậu chủ, khi thì đi kiếm một con cừu lạc
lôi về, khi thì trừng phạt một con dê quá nghịch ngợm. Hơn nữa, miệng tôi còn
thấm thía cái vị nồng nồng của ly nước mát rượi, khoái trá thưởng thức cái cảm
giác nhột nhột của những đám bọt nhỏ li ti trong nước suối xông lên tận mũi.
Những cảm giác rõ như thật này về những giờ phút đã qua hơn mười lăm năm về
trước, cái khả năng sống lại thực sự những cảm giác ấy một cách mãnh liệt như
vậy chỉ có thể thực hiện được trong nhà giam, xa cách mọi tiếng ồn ào, trong
cõi im lặng tuyệt đối.

Thậm chí tôi còn trông thấy cả
cái màu vàng của tà áo dài của dì Outine. Tôi nghe thấy tiếng gió vi vu trong
rặng phong dương, tiếng động khô gọn của một quá phong khi rơi xuống chỗ đất
khô, và tiếng động mềm khi rơi xuống lớp lá vàng. Một con lợn lòi to tướng tử
trong đám bụi rậm và cao lao ra đã làm cho tôi sợ hãi đến nỗi tôi bỏ chạy thục
mạng, trong cơn hốt hoảng đánh rơi mất một phần lớn những cây nấm đã nhặt được.
Vâng, tôi đã suốt ngày dong chơi (trong khi đi đi lại lại trong buồng giam) ở
Favras với dì tôi và với bạn tôi cậu bé Julion chăn cừu cho Hội Từ Thiện. Những
kỷ niệm êm đềm, trong sáng, rõ nét ấy, không ai có thể cấm tôi sống lại một lần
nữa, không ai có thể ngăn tôi lăn xả vào đấy để tìm thấy sự thanh thản rất cần
cho mảnh hồn dập nát của tôi.

Xã hội cứ tưởng đâu tôi đang nằm
ở một trong những căn xà lim của cái nhà giam ăn thịt người này. Nó có biết đâu
tôi đã ăn gian được của nó cả một ngày trời, tôi đã sống cái ngày ấy ở trên
những bãi cỏ, trong những rặng phong ở Favras, lại còn uống cả nước khoáng ở
con suối được gọi là Suối cây Đào. Thế rồi sáu tháng đã trôi quạ Tôi đã tự hứa
là sẽ tính từng sáu tháng một: tôi đã giữ đúng lời hứa ấy.

Chỉ đến sáng hôm nay, tôi mới hạ
con số mười sáu xuống thành con số mười lăm... Chỉ còn mười lăm lần sáu tháng
nữa.

Ta thử sơ kết lại xem: Trong sáu
tháng vừa qua cá nhân tôi không có sự cố gì. Thức ăn hàng ngày trước sau vẫn
thế, nhưng với một khẩu phần khá đủ để duy trì sức khỏe của tôi ở một trạng
thái khả quan. Xung quanh tôi đã xảy ra nhiều vụ tự tử và nhiều trường hợp phát
điên dữ dội, may mà họ đưa người điên đi ngay.

Thật nản vô cùng khi phải nghe họ
la hét, rên rỉ hay kêu than hàng giờ liền hay suốt ngày suốt buổi. Tôi đã tìm
được một cái mẹo khá tốt cho thần kinh, nhưng lại có hại cho lỗ tai. Tôi cắt
một mảnh xà-bông nhét vào hai tai để khỏi nghe những tiếng kêu gào rùng rợn ấy.

Đáng tiếng là xà-bông làm cho ống
tai bị đau, chỉ hai ba ngày là trong tai có nước rỉ ra: Lần đầu tiên kẻ từ khi
tôi đến trại khổ sai, tôi đã hạ mình xuống xin xỏ một tên cảnh sát. Số là một
tên cảnh sát trông coi việc phát xúp là người Montelimar, gần quê tôi. Tôi có
quen hắn ở Royale, nên đã xin hắn đem vào cho tôi một cục sáp để tôi nhét vào
tai cho đỡ nghe những tiếng la hét của những tù nhân phát điên khi họ chưa được
đưa đi. Hôm sau hắn đã đem vào cho tôi một cục sáp to bằng hạt dẻ. Cái cảm giác
nhẹ nhõm khi không còn nghe những tiếng gào của những người khốn khổ ấy nữa
thật dễ chịu không thể tưởng tượng được.

Tôi đã thành thạo về cái khoản
trị rết. Trong vòng sáu tháng tôi chỉ bị cắn có một lần, tôi đã tự chủ được
hoàn toàn những khi thức giấc mà cảm thấy có một con rết đang bò trên thân thể
trần truồng của tôi. Cái gì rồi người ta cũng quen đi, chẳng qua đấy là vấn đề
tự điều khiển, vì cái cảm giác nhột nhột do chân và râu gây ra hết sức khó
chịu. Nhưng nếu không khéo bắt nó thì bị cắn ngay. Tốt hơn là nên đợi cho nó tự
bò xuống, rồi sau đó mới tìm nó mà xéo cho chết đi. Trên cái ghế xi măng của
tôi lúc nào cũng để sẵn hai ba mẩu bánh mì nho nhỏ. Thế nào mùi bánh mì cũng
hấp dẫn rết đến. Lúc bấy giờ tôi cứ việc giết.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3