Papillon - Người tù khổ sai - Chương 18 phần 1
Chương 18
Vượt ngục ở Santa Marta
Mãi hai mươi tám ngày sau, nhờ sự can thiệp của một ông lãnh sự Bỉ ở Santa
Marta tên là Klausen, tôi mới được ra khỏi cái hầm khủng khiếp kia. Người tù Da
đen, tên là Palacios, đã được ra ba tuần sau khi tôi đến: anh ta đã có cái sáng
kiến nhờ bà mẹ (khi bà ấy đến thăm) báo với lãnh sự Bỉ rằng có một người Bỉ bị
giam trong hầm. Anh nảy ra cái ý đó vì có một ngày chủ nhật anh trông thấy một
tù nhân người Bỉ được ông lãnh sự đến thăm. Vậy là một hôm họ dẫn tôi lên phòng
giấy viên chỉ huy. Hắn nói với tôi:
- Anh là người Pháp, tại sao anh lại khiếu nại với lãnh sự Bỉ?
Trong phòng giấy có một ông mặc đồ trắng trạc năm mươi tuổi, mái tóc vàng
nhạt gần như trắng ở phía trên một gương mặt tròn trĩnh, hồng hào và tươi tắn,
đang ngồi trong chiếc ghế bành, một cái cặp da đặt trên đùi. Tôi hiểu ngay tình
thế:
- Chính ông nói tôi là người Pháp chứ không phải tôi. Tôi công nhận là tôi
đã vượt ngục từ một nhà tù Pháp, nhưng tôi là người Bỉ.
- À! Ông thấy chưa. - Ông lãnh sự có bộ mặt cha xứ nói.
- Sao anh không nói từ trước?
- Tôi thiết tưởng điều đó không có gì quan trọng đối với các ông, vì thực
tình tôi không hề có một hành dộng nào đáng coi là phạm pháp thực sự trên đất
của các ông ngoài việc tôi bỏ trốn, một hành động bình thường đối với tất cả
mọi tù nhân.
- Bueno, tôi sẽ để anh ở chung với các bạn anh. Nhưng thưa Senor Lãnh sự,
tôi xin nói trước rằng hễ có âm mưu vượt ngục là tôi nhốt lại chỗ cũ. Các người
đưa anh này ra chỗ cắt tóc rồi đưa vào phòng giam bọn đồng lõa.
- Cám ơn ngài lãnh sự - tôi nói bằng tiếng Pháp, - cám ơn ngài rất nhiều đã
chịu phiền đến đây vì tôi.
- Trời ơi! Anh đã phải khổ sở biết chừng nào trong những cái chuồng giam
khủng khiếp ấy? Thôi anh đi ngay đi. Không thì nhỡ ra hắn lại đổi ý, cái thằng
súc sinh ấy. Tôi sẽ trở lại thăm anh. Tạm biệt.
Người cắt tóc không có mặt ở đấy cho nên họ đưa tôi về phòng các bạn. Chắc
trông mặt mũi tôi kỳ quặc lắm, vì họ cứ nói không ngớt:
- Có còn là cậu đâu nữa? Vô lý quá! Cái lũ khốn kiếp ấy đã làm gì cậu, đến
nỗi cậu bây giờ như thế này? Cậu nói đi, nói với chúng mình một cái gì đi. Cậu
có mù không? Mắt cậu làm sao thế? Sao lại mở ra nhắm vào lia lịa thế?
- Đó là vì tôi chưa quen được với thứ ánh sáng này. Ở đây sáng quá, mắt tôi
quen chỗ tối cho nên bị chói đấy thôi.
Tôi ngồi xuống và nhìn vào phía cuối phòng:
- Nhìn vào đây đỡ hơn.
- Cậu sặc mùi đồ thối, không thể tưởng tượng được! Mình mẩy cậu cũng toàn
mùi thối! Tôi đã cởi hết áo quần ra, và các bạn xếp nó vào cạnh cửa. Hai tay
tôi, lưng tôi, hai ống chân tôi chi chít những vết đốt đo đỏ như vết rệp đốt ở nhà,
và những vết cắn của đàn cua tí hon nổi trên mặt nước thủy triều. Tôi trông rất
gớm ghiếc, và không cần gương soi, tôi cũng biết như vậy. Năm người tù khổ sai
đã chứng kiến biết bao điều khủng khiếp mà lúc này cũng phải nghẹn ngào không
nói được. Clousiot gọi một tên cảnh sát đến, nói rằng nếu không có người cắt
tóc thì ngoài sân cũng có nước để tắm rửa chứ. Tên kia nói là phải đợi giờ đi
dạo.
Tôi trần truồng bước ra sân. Clousiot cầm theo mấy thứ đồ sạch cho
tôi thay. Được Maturette giúp một tay, tôi tắm đi tắm lại mấy lần bằng thứ xà
bông đen nội địa. Tôi càng kỳ càng ra nhiều ghét. Cuối cùng sau nhiều lần xát
xà-bông và dội nước, tôi cảm thấy mình đã sạch. Tôi phơi nắng trong năm phút
thì khô, và mặc áo quần vào. Người cắt tóc đã đến. Anh ta định dùng tông-đơ cắt
ngắn tóc tôi. Tôi nói:
- Không. Cắt bình thường thôi và
cạo râu cho tôi.Tôi sẽ trả tiền.
- Bao nhiêu?
- Một peso.
- Cắt cho cẩn thận vào, -
Clousiot, nói, - tôi sẽ cho anh hai pesos.
Khi đã tắm rửa sạch sẽ, tóc tai
cắt gọn, râu ria cạo nhẵn, áo quần thơm tho, tôi cảm thấy như người chết đi sống
lại. Các bạn tôi cứ hỏi tôi tới tấp:
- Thế nước lên đến đâu? Thế còn
chuột cống? Lại còn đàn rết? Bùn thì sao? Lại còn lũ cứt nữa? Với lại cứt ở
trong mấy cái xô nổi lên và các xác chết thì sao?
- Đó là những người chết tự nhiên
hay là những người treo cổ tự sát? Hay là những người bị bọn cảnh sát “tự tử
cho chết”?
Những câu hỏi cứ kế tiếp nhau bất
tận, và vì nói nhiều, tôi đâm khát nước. Ngoài sân nhà tù có một người bán
cà-phê. Trong ba tiếng đồng hồ chúng tôi được đứng ngoài sân, tôi đã uống đến
một chục chén cà- phê đặc pha “papelón” (đường vàng chưa lọc). Thứ cà- phê ấy
tôi thấy là món uống ngon nhất trần gian. Anh Da đen trước giam ở chuồng đối
diện có đến chào tôi. Anh khẽ kể cho tôi câu chuyện mẹ anh khiếu nại với ông
lãnh sự Bỉ. Tôi siết chặt tay anh. Anh ta rất hãnh diện vì đã nghĩ ra cách giúp
tôi. Anh tạm biệt tôi trong một tâm trạng hết sức vui sướng, nói rằng mai gặp
lại sẽ nói chuyện thêm, còn hôm nay thế là đủ.
Tôi có cảm giác phòng giam các
bạn tôi là một cung điện. Clousiot có một cái võng thuộc quyền sở hữu của anh,
vì anh ta đã bỏ tiền ra mua được. Anh ta bắt tôi phải nằm cái võng ấy. Tôi nằm
ngang lên võng. Anh ta rất lấy làm lạ, nhưng tôi giải thích cho anh ta hiểu
rằng chỉ có những kẻ không biết nằm võng mới nằm dọc mà thôi.
Ăn, uống, ngủ, đánh cờ, đánh bài
bằng những con bài Tây Ban Nha, nói tiếng Tây Ban Nha với nhau và với bọn cảnh
sát cũng như với các tù nhân Colombia để tập nói cho thạo: tất cả những hoạt
động ấy giúp cho chúng tôi qua được ngày và cả một phần đêm nữa.
Đi nằm từ chín giờ tối là rất
khổ. Lúc bấy giờ những chi tiết về cuộc vượt ngục từ bệnh viện Saint-Laurent
cho đến Santa Marta thi nhau hiện ra từng mớ, nó diễu qua mắt tôi và đòi một sự
tiếp tục. Cuốn phim không thể dừng lại ở đấy, nó phải được chiếu tiếp, nó sẽ còn
tiếp anh bạn ạ. Hãy để cho tôi lại sức, rồi anh có thể biết chắc là sẽ còn
nhiều diễn biến mới nữa, anh cứ tin tôi! Tôi đã tìm lại được hai mũi tên nhỏ và
hai cái lá coca, một đã khô hẳn, một hãy còn hơi xanh. Tôi nhai cái lá xanh. Cả
bọn nhìn tôi sửng sốt. Tôi giảng giải cho các bạn biết rằng đó là thứ lá mà
người ta dùng để làm thuốc phiện trắng (cocaine).
- Cậu đùa đấy chứ?
- Thử nếm mà xem.
- Ừ, mà thật, nó làm cho lưỡi và
môi mất cảm giác.
- Ở đây có bán à?
- Không biết. Clousiot này, cậu làm thế nào mà thỉnh thoảng lại thấy có
tiền thế.
- Mình đã đổi tiền ở Rio Hacha, và từ đấy bao giờ mình cũng có tiền để tiêu
trước mặt mọi người.
- Còn tôi, - tôi nói, - tôi có ba mươi sáu đồng tiền vàng ăn một trăm
pesos, hiện viên chỉ huy đang giữ, giá trị hiện nay của mỗi đồng là ba trăm
pesos. Đến một ngày nào đấy tôi sẽ nêu vấn đề này lên.
- Bọn chúng nó toàn là bọn chết đói, cậu nên mặc cả với hắn thì hơn.
- Cũng là một ý hay.
Hôm chủ nhật tôi có nói chuyện với ông lãnh sự Bỉ và người tù Bỉ. Người tù
này mang tội thất tín đối với một công ty trồng chuối Mỹ. Ông lãnh sự đã chấp
nhận yêu cầu của tôi nhờ ông che chở cho cả bọn chúng tôi ông ta đã hợp thức
hóa một tờ khai trong đó tôi ghi là ra đời ở Bruxelles trong một gia đình người
Bỉ.
Tôi có kể cho ông ta nghe chuyện mấy bà xơ và cái túi ngọc trai. Nhưng ông
ta là người theo đạo tin lành, không hề quen các bà xơ và các ông linh mục. Ông
chỉ hơi quen đức giám mục một chút mà thôi. Về món tiền vàng thì ông khuyên tôi
đừng đòi. Việc đó quá nguy hiểm. Khi được chuyển đến Branquilla, phải cho ông
biết trước hai mươi bốn tiếng đồng hồ, và lúc bấy giờ “ông có thể đòi số tiền
đó trước mặt tôi, - Ông lãnh sự nói như vậy, - vì nếu tôi không hiểu lầm thì có
những nhân chứng biết việc này.”
- Vâng.
- Nhưng bây giờ ông đừng đòi gì hết, viên chỉ huy rất có thể lại nhốt ông
vào mấy cái chuồng khủng khiếp ấy và có lẽ thậm chí còn có thể sai chúng nó
giết ông.
- Mấy chục đồng tiền vàng ấy quả là một gia sản. Giá trị hiện nay của mỗi
đồng không phải là ba trăm pesos như ông tưởng đâu, mà là năm trăm năm mươi
pesos. Vậy thì đó là một món tiền lớn. Không nên cám dỗ Quỷ. Còn về mấy hạt
ngọc trai thì đó là chuyện khác. Ông cứ để cho tôi có thì giờ suy nghĩ.
Tôi hỏi anh tù Da đen xem thử anh có muốn vượt ngục với tôi không, và theo
anh nên hành động như thế nào. Da mặt anh ta xám hắn đi khi nghe nói chuyện
vượt ngục.
- Tôi van anh, anh bạn ạ. Anh đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa. Nếu bại lộ, anh
sẽ phải nhận lấy một cái chết dần dà khủng khiếp nhất. Anh đã được nếm qua rồi
đấy. Anh phải đợi đến Baranquilla đã. Còn ở đây thì làm như thế chẳng khác nào
tự sát. Anh muốn chết lắm à? Nếu không, anh hãy ngồi yên. Trong cả xứ Colombia
này không có một nơi nào có thứ chuồng giam như anh đã từng biết đâu. Vậy thì
việc gì phải lĩnh ở đây?
- Phải nhưng ở đây tường không cao, chắc tương đối dễ.
- Hombre, facilono, anh đừng
trông mong gì vào tôi. Tôi không đi mà cũng không giúp anh đâu. Thậm chí tôi
không thể nghe anh nói chuyện này nữa đâu.
Cuối cùng anh ta bỏ đi, vẻ hết
sức sợ hãi, sau khi nói:
- Francés, anh không phải là một
người bình thường, anh phải là người điên loạn mới có thể nghĩ đến những chuyện
như thế ở đây, ở Santa Marta.
Sáng nào và trưa nào tôi cũng
nhìn các tù nhân Colombia bị giam ở đây vì những tội nặng. Họ đều có những bộ
mặt sát nhân, nhưng có thể cảm thấy họ đã chịu khuất phục. Nỗi kinh hoàng bị
giam xuống những cái chuồng kia đã làm cho họ hoàn toàn tê liệt về mọi phương
diện. Cách đây bốn năm hôm chúng tôi đã thấy người ta đưa từ dưới hầm lên một
người cao lớn hơn tôi đến một cái đầu, được gọi là “El Caiman” (Cá sấu). Anh ta
nổi tiếng là một người hết sức nguy hiểm. Tôi nói chuyện với anh ta, rồi sau ba
bốn lần cùng đi dạo, tôi nói:
- Caimán, quieres fugarte con mi go? (Anh có muốn vượt ngục với tôi không?)
Anh ta nhìn tôi như thể nhìn Quỷ Sa tan, và nói:
- Để lại bị giam xuống đấy nếu thất bại? Không đâu, xin cảm ơn. Tôi thà
giết mẹ tôi còn hơn trở về đấy.
Đó là thí nghiệm cuối cùng của tôi. Không bao giờ tôi nói với ai về việc
vượt ngục nữa.
Chiều hôm ấy tôi thấy viên chỉ huy nhà tù đi qua.
Hắn dừng lại nhìn tôi rồi nói:
- Thế nào, ổn chứ?
- Ổn, nhưng sẽ còn ổn hơn nếu tôi có mấy đồng tiền vàng của tôi.
- Tại sao?
- Tại vì tôi sẽ có tiền thuê trạng sư.
- Vào đây.
Hắn đưa tôi vào phòng giấy. Ở đây chỉ có hắn và tôi. Hắn đưa cho tôi một
điếu xì gà - tình hình khá đây - châm lửa cho tôi - mỗi lúc một khá hơn.
- Anh có biết tiếng Tây Ban Nha đủ để hiểu và trả lời cho rõ nếu chúng ta
nói với nhau rất chậm không?
- Có
- Tốt. Anh vừa nói là anh muốn bán hai mươi sáu đồng tiền vàng của anh.
- Không, ba mươi sáu đồng tiền vàng của tôi.
- À phải, phải? Và dùng để thuê trạng sư phải không? Nhưng chỉ có anh và
tôi biết là anh có mấy đồng ấy.
- Không, còn có viên trung sĩ và năm người đi bắt tôi, ngoài ra còn có viên
phó chỉ huy đã nhận món tiền ấy trước khi trao lại cho ông. Rồi lại có ông lãnh
sự nước tôi nữa.
- À! À! Bueno. Đã nhiều người biết như thế thì càng tốt, vì như thế ta sẽ
hành động một cách quang minh chính đại. Anh có biết không, tôi đã giúp anh một
việc rất lớn. Tôi đã ỉm đi, không chuyển phiếu điều tra cho các lực lượng cảnh
sát của các nước anh đã đi qua để biết rõ họ có hồ sơ gì về một vụ trộm tiền
vàng hay không.
- Lẽ ra ông phải làm việc đó mới đúng.
- Không, không làm thì có lợi cho anh hơn.
- Xin cám ơn ông chỉ huy.
- Anh muốn tôi đem bán hộ anh à?
- Giá bao nhiêu?
- Thì cái giá mà anh nói là người ta đã trả cho anh lần anh bán ba đồng ấy:
ba trăm pesos. Anh sẽ cho tôi ăn hoa hồng mỗi đồng một trăm pesos để đền đáp
cái công của tôi đã giúp anh. Anh thấy thế nào?
- Không. Anh trả cho tôi từng mười đồng một và tôi sẽ cho anh không phải là
một trăm mà là hai trăm pesos mỗi đồng. Việc mà anh đã làm cho tôi đáng được
trả công như thế.
- Francés, anh quá tinh ma. Tôi thì chỉ là một anh sĩ quan Colombia hèn
mọn, quá tin người và hơi ngốc nghếch, còn anh là người thông minh, và như tôi
đã nói, quá tinh ma.
- Vậy anh có đề nghị gì phải chăng hơn không?
- Ngày mai tôi sẽ gọi người mua đến đây, trong phòng giấy này. Hắn sẽ xem
mấy đồng tiền vàng, sẽ trả giá, sau đó được bao nhiêu ta chia đều. Một là thế
hai là không có gì hết. Tôi gửi anh đi Baranquilla, kèm theo món tiền, hoặc tôi
giữ nó lại để điều tra.
- Không, đây là đề nghị cuối cùng của tôi: người ấy sẽ đến đây xem, rồi
toàn bộ số dư trên ba trăm năm mươi pesos mỗi đồng tiền vàng sẽ là của anh.
- Esta biên (Được rồi), tu tienes mi palabra (anh có thể tin ở lời hứa của
tôi). Nhưng một số tiền lớn như thế, anh cất vào đâu?
- Khi nhận tiền, anh sẽ mời ông lãnh sự Bỉ đến. Tôi sẽ đưa tiền cho ông ta
để thuê trạng sư.
- Không, tôi không muốn có nhân chứng.
- Anh không có gì phải lo, tôi sẽ ký giấy xác nhận rằng anh đã trả cho tôi
đủ ba mươi sáu đồng tiền vàng. Anh cứ nhận đi, và nếu anh xử sự đứng đắn với
tôi, tôi sẽ bàn với anh một việc khác.
- Việc gì?
- Anh cứ tin tôi. Việc này cũng hời như việc kia, và trong việc thứ hai ta
sẽ chia đều
- Cual es? (Cái gì đấy?) Anh nói đi.
- Mai anh làm nhanh đi, rồi đến năm giờ chiều, khi tiền của tôi đã được an
toàn trong tay ông lãnh sự của tôi, tôi sẽ nói cho anh biết việc kia.
Cuộc thương lượng đã diễn ra khá lâu. Khi tôi hài lòng trở ra sân, các bạn
tôi đã về phòng giam.
- Thế nào, ông việc ra sao?
Tôi kể cho họ nghe hết cuộc nói chuyện vừa qua các bạn lăn ra cười, tuy
tình cảnh họ chẳng có gì đáng lấy làm vui.
- Cái thằng cha ấy cáo thật! Nhưng cậu đã át giọng hẳn. Cậu có tin là hắn
sẽ thực hiện đúng như thế không? Tôi cuộc một trăm pesos lấy hai trăm là hắn
chịu rồi. Có ai đám cuộc với tôi không?
- Không, tôi cũng nghĩ là hắn sẽ chịu.
Suốt đêm hôm ấy tôi suy nghĩ. Vụ thứ nhất thì thế là xong. Vụ thứ hai cũng
sẽ xong thôi, vì hắn sẽ mừng rơn lên khi được đi lấy túi ngọc trai. Còn lại vụ
thứ ba. Vụ thứ ba... là tôi định đút cho hắn tất cả số tiền tôi thu lại được để
hắn làm ngơ cho tôi lấy trộm một chiếc thuyền trong cảng. Chiếc thuyền này tôi
có thể mua bằng số tiền tôi còn giữ lại trong plan: Để xem hắn có cưỡng nổi sự
cám dỗ hay không. Tôi mất gì mà sợ? Sau hai vụ thứ nhất hắn không còn dám trừng
phạt tôi nữa. Sau sẽ biết. Đừng bán da gấu, v.v... Việc gì phải đợi khi đến
Baranquilla? Thành phố lớn hơn thì nhà tù cũng vừng chắc hơn, được giám sát kỹ
hơn và tường cao hơn. Tôi phải quay về sống với Lali và Zoraiam: tôi sẽ vượt
ngục thật nhanh, về đấy đợi mấy năm, rồi sẽ đi vào vùng núi với cái bộ lạc nuôi
bò, và sẽ bắt mối liên hệ với người Venezuela. Bằng bất cứ giá nào tôi cũng
phải thành công trong chuyến vượt ngục này. Suốt đêm tôi nằm suy nghĩ đường đi
nước bước để thực hiện vụ thứ ba.
Hôm sau, công việc được tiến hành khá chóng vánh. Vào lúc chín giờ sáng họ
đến gọi tôi ra gặp ông khách đang đợi tôi ở phòng giấy viên chỉ huỵ Khi tôi
đến, tên cảnh sát đã đi gọi tôi đứng ngoài, để một mình tôi vào. Trước mặt tôi
là một người đàn ông trạc sáu mươi tuổi mặc đồ màu xám nhạt, thắt ca-vát xám.
Trên bàn đặt một chiếc mũ dạ màu xám rộng vành kiểu như mũ cao bồi. Một viên
ngọc trai lớn màu xám lẫn màu xanh bạc nổi bật lên trong một thứ khung cài trên
ca-vát. Người đàn ông gầy gò và khô đét này không phải không có một vẻ trang
nhã nhất định.
- Chào ông.
- Ông có nói được tiếng Pháp không?
- Thưa ông có, tôi vốn là người Liban. Được biết ông có những đồng tiền
vàng một trăm pesos, tôi rất quan tâm. Với giá năm trăm pesos mỗi đồng, ông có
nhượng lại được không?
- Không, sáu trăm năm mươi pesos.
- Như vậy là ông không biết giá rồi? Giá tối đa bây giờ là năm trăm năm
mươi pesos.
- Ông ạ, vì ông lấy hết nên tôi xin nhượng lại với giá sáu trăm.
- Không, năm trăm năm mươi.
Cuối cùng hai bên ngã giá là năm trăm tám mươi pesos. Thế là việc mua bán
đã xong xuôi.
- Qué han dicho? (Anh vừa nói gì
thế?)
- Chúng tôi đã ngã giá năm trăm
tám mươi. Chiều nay sẽ giao hàng.