Papillon - Người tù khổ sai - Chương 10

Chương 10

Trinidad

Chim trời đã báo cho chúng tôi biết đã sắp tới đất liền trước khi chúng tôi
trông thấy đất liền rất lâu. Vào khoảng bảy giờ rưỡi sáng, một đàn chim đã bay
đến lượn vòng xung quanh thuyền chúng tôi.

-Đến rồi, các bạn ơi, đến rồi? Chúng mình đã hoàn thành được phần đầu của
cuộc vượt ngục, phần khó nhất. Tự do vạn tuế!

Cả ba đứa chúng tôi đều bộc lộ nỗi vui mừng của mình bằng những tiếng reo hò,
những lời cảm thán trẻ thơ. Mặt chúng tôi đều trát đầy mỡ ca-cao (chiếc tàu vừa
gặp có cho chúng tôi một ít để bôi những chỗ bị bỏng nắng cho đỡ rát). Đến
khoảng chín giờ thì trông thấy đất liền. Một ngọn gió mát rượi nhưng không mạnh
lắm nhanh chóng đưa chúng tôi vào bờ trên một mặt biển khá phẳng lặng. Mãi đến
khoảng bốn giờ chiều chúng tôi mới nhìn thấy những chi tiết của một hòn đảo dài
viền những ngôi nhà trắng chụm lại thành từng khóm nhỏ, trên chóp đảo mọc đầy
những rặng dừa. Chưa trông rõ đây là một hòn đảo hay là một bán đảo, mà cũng
chưa rõ mấy khóm nhà kia có người ở hay không. Phải đến hơn một tiếng đồng hồ
nữa mới nhìn thấy những bóng người đang chạy ra cái bãi cát mà thuyền chúng tôi
đang tiến vào. Không đầy hai mươi phút sau, một đám đông hỗn tạp đủ màu sắc đã
tụ tập lại. Cả cái làng nhỏ bé này đã ra bãi biển hết, không còn sót một ai, để
tiếp đón chúng tôi. Về sau chúng tôi được biết rằng đây là làng San Fernando.

Cách bờ ba trăm thước tôi bỏ neo. Neo ăn ngay lập tức. Tôi làm như vậy một
phần là để xem thử phản ứng của dân làng ra sao, và cũng để thuyền khỏi bị
thủng khi chạm đáy, nếu đáy biển ở đây bằng san hô. Chúng tôi hạ buồm và chờ
đợi. Một chiếc xuồng nhỏ bơi ra phía chúng tôi. Trên xuồng có hai người da đen
ngồi chèo và một người da trắng đội mũ cối kiểu thuộc địa.

- Xin hoan nghênh các vị khách mới đến Trinidad, - người da trắng nói bằng
tiếng Pháp rất sõi. Hai người da đen cười niềm nở, phô hết hai hàng răng trắng
muốt.

- Xin cám ơn ngài về những lời lẽ tốt đẹp của ngài. Đây bãi là san hô hay
là cát ạ?

- Cát đấy các ông có thể vào tận bờ mà không ngại gì cả.

Chúng tôi kéo neo lên, và sóng biển từ từ đẩy chúng tôi vào bờ cát. Thuyền
vừa chạm đất thì có mười người lội xuống nước kéo thẳng một mạch chiếc thuyền
lên bãi. Họ ngắm nghía chúng tôi, giơ tay sờ chúng tôi một cách thân ái, mấy
người đàn bà da đen hay Ấn Độ gì đấy phác những cử chỉ mời mọc. Ai ai cũng muốn
mời chúng tôi về nhà: người da trắng biết nói tiếng Pháp giảng giải cho chúng
tôi như vậy. Maturette bốc một nắm cát và đưa lên môi hôn. Thế là cả đám người
reo hò nhảy nhót như điên như dại.

Sau khi tôi nói rõ tình trạng của Clousiot cho người da trắng biết, ông ta
liền sai người khiêng cậu ấy về nhà ông ta, gần ngay bãi biển. Ông ta nói rằng
chúng tôi có thể để nguyên đồ đạc trên thuyền cho đến mai, không có ai động đến
đâu. Mọi người đều gọi tôi là “captain” (“thuyền trưởng”), tôi cười lớn khi
nghe mình được đề bạt như vậy. Ai cũng nói với tôi:

- Good captain, long ride on small
boat!” (Thuyền trưởng giỏi, chuyến đi thì xa mà thuyền thì nhỏ thế!”)

Đêm đã xuống. Sau khi yêu cầu họ
đẩy thuyền lên cao hơn chút nữa và buộc nó vào một chiếc thuyền to hơn nhiều
đang nằm giữa bãi, chúng tôi đi theo người da trắng (ông ta là người Anh) về
nhà ông. Đó là một ngôi bungalow thuộc loại thường thấy ở bất cứ vùng đất nào
thuộc Anh; vài ba bậc thềm bằng gỗ, một cái cửa ra vào có chăng lưới sắt. Tôi
vào theo người Anh, Maturette đi sau lưng tôi. Bước vào nhà, tôi trông thấy
Clousiot ngồi trên một chiếc ghế bành, cái chân bị gãy kê trên một chiếc ghế,
đang ba hoa chích chòe với một thiếu phụ và một cô con gái.

- Đây là vợ tôi và con gái tôi, -
người Anh nói. Tôi còn một đứa con trai nữa đang đi học ở Anh.

- Xin các ông tự coi là thượng
khách của nhà này - người thiếu phụ nói bằng tiếng Pháp.

- Mời các ông ngồi, - cô con gái
vừa nói vừa đêm lại cho chúng tôi chiếc ghế bành bằng mây đan.

- Cám ơn bà, cám ơn cô, xin các
vị dừng tự làm phiền nhiều quá vì chúng tôi.

- Sao lại thế ạ? Chúng tôi rất
biết các ông từ đâu đến, xin các ông cứ yên tâm, và tôi xin nhắc lại: các ông
là thượng khách trong nhà này.

Chủ nhân là một trạng sư, gọi là
master Bowen, có văn phòng luật sư ở Port of Spain, thủ đô của đảo Trinidad,
cách đây bốn mươi cây số.

Họ dọn ra cho chúng tôi một ấm
trà pha sữa, một đĩa bánh mì nướng phết đường, một đĩa bơ và một hũ mứt. Đây là
buổi tối đầu tiên chúng tôi được làm người tự do, tôi sẽ không bao giờ quên
buổi tối này. Không có một lời nào nhắc tới quá khứ của chúng tôi, không có lấy
một câu hỏi tò mò nào có thể làm cho chúng tôi ngượng ngập: họ chỉ hỏi xem
chúng tôi lênh đênh mất mấy ngày trên biển và chuyến đi có vất vả gì không,
Clousiot có đau lắm không, chúng tôi có muốn họ đi đăng ký với cảnh sát địa
phương ngay ngày mai hay để đến ngày kia, chúng tôi có còn ông cụ bà cụ không, có
vợ con gì không. Nếu chúng tôi muốn viết thư cho người thân, họ sẽ đi bỏ thư
cho... Còn biết nó với các bạn những gì nữa: đó là một cuộc đón tiếp hết sức
đặc biệt, của dân đảo ngoài bãi biển cũng như của cái gia đình đầy thiện ý chân
thành đối với ba người bôn tẩu.

Master Bowen gọi điện thoại cho
một ông bác sĩ để hỏi ý kiến ông ta về người bị thương. Bác sĩ dặn là đến chiều
mai phải đưa người ấy đến bệnh viện tư của ông để soi X-quang xem cần phải làm
gì. Master Bowen lại gọi điện đến Port of Spain cho vị chỉ huy Đạo Quân Cứu thế
(Salvation Army). Ông này hứa là sẽ chuẩn bị cho chúng tôi một căn phòng trong
khách sạn của Đạo, bao giờ thích đến thì đến, và dặn chúng tôi giữ thuyền cho
cẩn thận néu có còn tốt, vì chúng tôi sẽ cần đến nó để ra đi. Ông ta hỏi xem
chúng tôi là tù khổ sai hay là dân bị đày biệt xứ. Chúng tôi trả lời là tù khổ
sai.

Điều đó hình như làm cho ông bác
sĩ hài lòng.

- Các ông có muốn tắm táp, cạo
mặt không? - cô con gái nói. - Nhất là các ông đừng từ chối nhé, không có chút
gì phiền hà cho chúng tôi đâu. Trong phòng tắm đã có sẵn mấy bộ đồ để thay. Tôi
hy vọng các ông sẽ mặc vừa.

Tôi vào tắm, cạo râu, chải đầu
cẩn thận rồi trở ra trong một bộ trang phục tiêm tất: quần xám, sơ-mi trắng,
giầy tennis, bít tất trắng.

Một người Ấn Độ gõ cửa ngoài. Anh
ta cầm một cái gói lớn, đưa cho Maturette, nói rằng bác sĩ được biết tôi vóc
người xấp xỉ bằng bác sĩ cho nên dễ mượn áo quần, nhưng Maturette thì vóc người
bé nhỏ, mà trong nhà ông luật sư không có ái bé nhỏ như thế, cho nên không thể
mặc nhờ của ai được, ông ta phải gửi gói áo quần số nhỏ này tới. Nói xong,
người Ấn Độ cúi mình chào chúng tôi theo tập quán của người theo đạo Hồi, và
lui ra. Đứng trước một lòng nhân hậu lớn lao như vậy, tôi biết nói sao để các
bạn hiểu được nỗi xúc động không sao tả nỗi đang tràn ngập lòng tôi lúc bấy
giờ? Clousiot được cho đi ngủ trước, còn năm người chúng tôi ngồi giờ lâu trao
đổi ý kiến về nhiều vấn đề khác nhau. Điều làm cho hai người phụ nữ quan tâm
hơn cả là chúng tôi định sẽ làm lại cuộc đời ra sao. Không ai đả động đến quá
khứ, chỉ toàn chuyện hiện tại và tương lai.

Master Bowen lấy làm tiếc rằng
Trinidad không chấp nhận cho những người vượt ngục định cư trên đảo. Ông phân
trần rằng ông đã có mấy lần xin nhà chức trách trên đảo chấp nhận biện pháp này
cho một vài người nhưng chưa bao giờ được chấp thuận. Cô con gái nói tiếng Pháp
y hệt người Pháp, không thua gì cha cô, không bao giờ phát âm sai hay có giọng
lơ lớ. Cô ta tóc vàng, mặt đầy tàn nhang, tuổi chừng từ mười bảy đến hai mươi
(tôi không dám hỏi xem cô bao nhiêu tuổi). Cô nói:

- Các ông hãy còn trẻ lắm; cả một
quãng đời dài đang đợi các ông. Tôi không biết các ông đã làm gì nên tội mà bị
xử như vậy, và không muốn biết. Nhưng đã có đủ can đảm để lao ra biển trên một
con thuyền nhỏ bé như vậy để đi một hành trình dài và nguy hiểm như vậy, thì
tất nhiên các ông sẵn sàng trả bất cứ giá nào để được sống tự do và đó là một
điều rất đáng phục.

Đêm hôm ấy, chúng tôi đã ngủ đến
tám giờ sáng mới dậy. Bàn ăn đã dọn sẵn. Hai người phụ nữ nói với chúng tôi một
cách rất tự nhiên rằng Master Bowen đã đi Prot of Spain đến chiều mới về, có
đem theo những tài liệu cần thiết để vận động cho chúng tôi. Con người ấy đã đi
khỏi nhà trong khi có ba tên tù khổ sau vượt ngục đang ở đấy: đó là một bài học
có một không hai đối với chúng tôi. Ông ta muốn nói với chúng tôi:

- Các anh là những con người bình
thường, lành mạnh; các anh có thể thấy tôi tin các anh như thế nào khi tôi mới
tiếp xúc với các ông có mười hai tiếng đồng hồ mà đã để cho các ông ở lại trong
nhà một mình với vợ con tôi. Sau khi đã nói chuyện với ba ông, tôi đã thấy rõ
rằng ba ông là những con người hoàn toàn đáng tin cậy, đến mức các ông không
thể nào có một hành vi, một cử chỉ hay một lời lẽ nào đáng trách ở nhà tôi, cho
nên tôi đã để các ông ở trong nhà tôi như những người bạn cũ.

Cách bày tỏ lòng tin cậy này đã
làm cho chúng tôi rất cảm động.

Tôi không phải là một người tri
thức có thể miêu tả lại cho bạn đọc - nếu một ngày kia cuốn sách này sẽ có
người đọc - với sức truyền cảm cần thiết, với đầy đủ tính hùng biện, để bạn đọc
hiểu hết cái cảm giác tự trọng lớn lao... không phải: cái cảm giác trong sáng
và mãnh liệt của kẻ thấy mình được phục hồi, nếu không phải là được bước vào
một cuộc sống mới. Lễ rửa tội tưởng tượng ấy, cuộc tẩy rửa thanh cao ấy, cuộc nâng
cao con người tôi lên trên đống bùn nhơ mà tôi đã sa vào, cái cách thức mà
người ta đã dùng để chỉ qua một ngày đã trao cho tôi một trách nhiệm thực sự
ấy, vừa rồi đã làm cho tôi biến thành một con người khác một cách giản dị đến
nỗi cái mặc cảm của người tù khổ sai khiến cho người ta còn nghe thấy tiếng
xiềng xích ngay cả khi đã được trả tự do và luôn luôn có cảm giác như có ai
đang theo dõi mình, đến nỗi tất cả những gì tôi đã trông thấy, đã trải qua và
đã chịu đựng, tất cả những gì đã xô tôi đến chỗ trở thành một con người tật
nguyền, thối nát, luôn luôn nguy hiểm cho mọi người, bề ngoài thì phục tùng một
cách thụ động nhưng bất cứ lúc nào cũng có thể biến thành một kẻ nổi loạn hung
hãn khủng khiếp, tất cả - những cái đó giờ đây bỗng biến mất như do một phép
thần thông. Xin cám ơn Luật sư Bowen, vị trạng sư của Hoàng gia, cám ơn ông đã
làm cho tôi trở thành một con người khác trong một thời gian ngắn ngủi như vậy!

Người con gái có mái tóc vàng
óng, có đôi mắt xanh như biển khơi ở xung quanh, đang ngồi với tôi dưới rặng
dừa mọc quanh nhà cha cô. Những giàn hoa giấy đỏ, vàng và tím nhạt đang nở rộ
làm cho mảnh vườn có được cái thi vị cần thiết cho giờ phút này.

- Ông Henri ạ, (cô gọi tôi là Monsieur. Đã bao nhiêu lâu rồi không ai còn
gọi tôi là Monsieur nữa!) như ba tôi đã nói với ông hôm qua, một sự thiếu thông
cảm đầy bất công của nhà cầm quyền Anh không cho phép các ông ở lại đây: thật đáng
tiếc. Họ chỉ cho các ông mười lăm ngày để nghỉ ngơi rồi lại ra đi. Sáng sớm hôm
nay tôi vừa ra xem chiếc thuyền của các ông, nó quá nhỏ bé và mong manh đối với
cuộc viễn hành đang chờ đợi các ông. Ta hãy hy vọng rằng các ông sẽ đến được
một đất nước có tinh thần mến khách hơn xứ sở chúng tôi và cũng hiểu biết người
hơn. Tất cả các đảo thuộc Anh đều hành động giống nhau trong những trường hợp
tương tự. Nếu trong chuyến đi sắp tới ông phải khổ sở nhiều, tôi xin ông đừng
oán giận những người dân ở trên các đảo đó; người dân không phải là người chịu
trách nhiệm về cách quan niệm này. Đây là những mệnh lệnh xuất phát từ nước
Anh, do những người không hiểu biết gì về các ông ban hành. Địa chỉ của
ba tôi là một lẻ một Queen Street, Port of Spain, Trinidad. Tôi xin ông, nếu
sau này Chúa muốn rằng ông có điều kiện làm như vậy, tôi xin ông viết cho chúng
tôi vài dòng để chúng tôi được biết số phận của các ông.

Tôi cảm động đến nỗi không còn
biết trả lời ra sao nữa. Bà Bowen đến cạnh chúng tôi. Đó là một người đàn bà
đẹp trạc bốn mươi tuổi, tóc màu hạt dẻ vàng, mắt màu xanh ngọc thạch. Bà mặc
một chiếc áo dài trắng rất giản dị, thắt một cái giải trắng, chân đi một đôi
dép màu lá mạ.

- Thưa ông, chồng tôi đến năm giờ
mới về. Ông ấy đang vận động các ông có thể đi xe của nhà chúng tôi lên thủ đô
mà không có cảnh sát đi kèm. Nhà tôi cũng muốn làm thế nào để các ông khỏi ngủ
qua đêm đầu tiên ở Sở Cảnh sát Port of Spain. Người bạn bị thương của ông sẽ
đến thẳng bệnh viện tư của một bác sĩ bạn nhà tôi, còn ông và cậu em ít tuổi
kia sẽ đến Khách sạn của Đạo quân Cứu thế.

Maturette đi đâu về, ra vườn gặp
chúng tôi, cậu ấy kể là vừa ra chỗ để thuyền: có một đám người hiếu kỳ đang
đứng quanh. Mọi vật trên thuyền đều y nguyên, không có ai động đến. Trong khi
xem xét chiếc thuyền, mấy người hiếu kỳ tìm thấy một viên đạn giắt vào đít
thuyền, ở phía dưới bánh lái. Một người trong bọn họp xin phép Maturette giữ
viên đạn làm kỷ niệm. Cậu ta trả lời:

- Captain, captain.

Người thổ dân hiểu rằng muốn thế
phải xin ông thuyền trưởng, anh ta nói:

- Sao không thả mấy con rùa ra?

- Các ông có rùa à? - Cô con gái
hỏi. - Thế thì ra xem đi.

Chúng tôi cùng ra chỗ để thuyền.
Giữa đường, một cô bé thổ dân xinh đẹp cầm lấy tay tôi một cách hết sức tự
nhiên.

- Good afternoon! - đám người
nhiều màu sắc ấy cùng nói một lượt.

Tôi bắt hai con rùa ra rồi hỏi cô
con gái chủ nhà:

- Bây giờ thế nào nhỉ? Ném xuống
biển nhé? Hay là cô đem về để trong vườn ấy, cô có thích không?

- Cái bể ở cuối vườn đựng nước
biển. Ta sẽ nuôi chúng nó trong cái bể ấy, như vậy tôi sẽ có được chút kỷ niệm
của các ông.

- Phải đấy.

Tôi đem tất cả những vật để trong
thuyền ra phân phát cho những người dân đảo có mặt ở đấy, trừ cái địa bàn, mớ
thuốc lá, con dao, cái rựa, cây rìu, mấy tấm chăn và khẩu súng lục mà tôi gói
kín trong chăn: không ai trông thấy nó.

Đến năm giờ chiều Master Bowen
về.

- Thưa các ông, mọi việc đều đã
dàn xếp xong xuôi. Chính tôi sẽ đưa các ông đến thủ đô. Ta sẽ đưa ông bạn bị
thương vào bệnh viện trước, rồi sau đó ta sẽ ra khách sạn.

Chúng tôi xếp cho Clousiot nằm ở
ghế sau của chiếc xe. Tôi đang cảm ơn cô con gái thì bà mẹ đến, tay xách một
chiếc va-li. Bà nói:

- Xin ông nhận cho mấy bộ quần áo
của nhà tôi, chúng tôi xin biếu ông với tất cả tấm lòng thành.

Tôi còn biết nói gì trước một
lòng nhân hậu đầy tình người như thế!

- Cảm ơn ông bà, cảm ơn vô cùng.

Chúng tôi lên xe ra đi. Đó là một
chiếc xe hơi tay lái đặt bên phải. Đến sáu giờ kém mười lăm chúng tôi đã đến
bệnh viện. Nó được gọi là bệnh viện Saint-George. Mấy người y tá đặt Clousiot
lên cáng và đưa vào một gian phòng có một người thổ dân đang ngồi trên giường.
Bác sĩ đến. Ông bắt tay Bowen, rồi bắt tay chúng tôi. Ông không nói được tiếng
Pháp, nên nhờ ông luật sư nói lại với chúng tôi rằng Clousiot sẽ được chăm sóc
chu đáo, và chúng tôi có thể đến thăm anh bao nhiêu cũng được. Chúng tôi lại
lên xe ông Bowen đi qua thành phố. Chúng tôi đều trầm trồ trước quang cảnh những
dãy phố sáng trưng dưới ánh điện, xe hơi và xe đạp qua lại tấp nập. Những người
da trắng, da đen, da vàng, Ấn Độ, thổ dân, chen vai thích cảnh trên các vỉa hè
của cái thành phố Port of Spain xây dựng toàn bằng gỗ. Đến khách sạn của Đạo
quân Cứu thế, một tòa nhà chỉ có tầng dưới xây bằng đá còn các tầng trên đều
bằng gỗ, được đặt ở một vị trí khá đẹp trên một quảng đường sáng trưng mà ở lối
vào tôi có thể đọc thấy mấy chữ Fish Market (Chợ cá), ông thống lĩnh Đạo quân
Cứu thế tiếp chúng tôi cùng với toàn bộ Ban tham mưu của ông gồm có những hội
viên cả nam lẫn nữ. Ông có biết một ít tiếng Pháp, còn thì mọi người đều nói
với chúng tôi bằng tiếng Anh. Chúng tôi không hiểu được bao nhiêu, nhưng gương
mặt họ tươi cười ánh mắt họ niềm nở đến nỗi chúng tôi đều biết chắc đó là những
lời lẽ đầy tình thân ái.

Người ta đưa chúng tôi lên một
căn phòng ở tầng thứ ba, có ba cái giường - cái thứ ba dành sẵn cho Clousiot -
ăn thông với một căn buồng tắm có để sẵn xà phòng và khăn mặt cho chúng tôi
dùng. Sau khi đưa chúng tôi về phòng, ông thống lĩnh nói:

- Nếu các ông muốn dùng bữa, đến
bảy giờ, tức nửa tiếng nữa, các ông có thể dự bữa ăn tối chung của khách sạn.

- Thôi ạ, chúng tôi không đói.

- Nếu các ông muốn đi dạo phố,
xin các ông cầm lấy hai đồng dollars tiền Antilles này để uống chén cà phê hay
chén trà. Nhất là xin các ông đừng đi lạc. Khi nào muốn về khách sạn, xin các
ông hỏi đường bằng mấy chữ đơn giản: “Salvation Army, please.”

Mười phút sau chúng tôi đã ra
phố. Chúng tôi đi trên vỉa hè, chen vai thích cánh với khách qua đường. Chẳng
ai nhìn ngó chúng tôi, chẳng ai để ý đến chúng tôi. Chúng tôi thở thật sâu, bồi
hồi thưởng thức những bước đi tự do đầu tiên trong một thành phố. Sự tin cậy
thường xuyên đã khiến người ta để cho chúng tôi đi tự do trong một thành phố
khá lớn như thế này làm cho chúng tôi hởi lòng, và không những đem lại cho
chúng tôi lòng tự tin, mà còn soi sáng thêm cho chúng tôi hoàn toàn ý thức được
rằng không đời nào mình lại có thể phụ lòng tin ấy. Maturette và tôi đi chầm
chậm giữa đám đông. Chúng tôi thấy cần chen vai thích cánh với họ, được họ chen
lấn xô đẩy, được họ đồng hóa thành một bộ phận của họ. Chúng tôi vào một quán
bao gọi hai cốc bia.

- Two beers, please! - mấy tiếng
đó có gì lạ đâu? Phải, nó nghe tự nhiên hoàn toàn. Ấy thế mà chúng tôi vẫn thấy
có cái gì hoang đường, huyễn hoặc khi một người con gái Anh điêng đeo cái vỏ ốc
vàng trong mũi nói với chúng tôi sau khi dọn bia ra:

- Half a dollar, sir.

Nụ cười của cô gái với hàm răng
như chuỗi ngọc trai, đôi mắt to màu đen tím hơi xếch ở bên khóe, mái tóc huyền
xõa ngang vai, chiếc yếm hơi hở ở chỗ đôi vú bắt đầu, đủ cho người ta đoán được
vẻ đẹp tuyệt vời của đôi vú ấy, những thứ vặt vãnh và toàn hoàn tự nhiên đối
với mọi người ấy đối với chúng tôi lại là những chuyện thần tiên huyền ảo. Ơ
kìa, Papi, không phải đâu, không thể như thế được, chẳng lẽ đang là một xác
chết còn sống, mà một tên tù khổ sai chung thân, mà bỗng dưng đùng một cái đã
hóa thành một người tự do sao?

Vừa rồi là Maturette trả tiền bia, cậu ta chỉ còn nửa dollar. Bia mát rượi
uống đã lắm. Maturette bàn:

- Uống thêm cốc nữa nhé?

Cái việc uống liền một lúc hai chầu bia tôi thấy là không nên:

- Kìa, Maturette, cậu mới được thực sự tự do có chưa đầy một tiếng đồng hồ
mà đã muốn say sưa be bét rồi?

- Ồ! Em xin anh, Papi, anh đừng nói quá lời! Uống hai cốc bia mà anh
gọi là say sưa be bét?

- Có thể cậu có lý, nhưng tôi cho
rằng nếu đứng đắn thì không nên vồ lấy những lạc thú trước mắt. Theo tôi nên
nhấm nháp từng tí một thì hơn là nhai ngấu nhai nghiến. Vả lại tiền có phải của
mình đâu.

- Vâng, đúng thế thật, anh có lý.
Ta sẽ học sống tự do theo kiểu nhỏ giọt, như thế xứng đáng hơn.

Chúng tôi rời khách sạn đi ra dãy
phố lớn chạy suốt từ đầu đến cuối thành phố - gọi là Watters Street. Và chúng
tôi hân hoan với những chuyến tàu điện qua lại, với những con lừa kéo xe, những
chiếc xe hơi, những ánh đèn điện quảng cáo ở các rạp chiếu bóng và các quán
rượu ban đêm, với những đôi mắt của các thiếu nữ da đen hay Ấn Độ vừa nhìn
chúng tôi vừa cười, đến nỗi chúng tôi không hề có chủ đích mà cũng đã ra đến
cảng từ bao giờ không biết. Trước mặt chúng tôi là những chiếc tàu thủy đèn
thắp sáng trưng, những chiếc thuyền du lịch với những tên gọi diệu huyền:
Panama, Los Aggeles, Boston, Québec; những chiếc tàu chở hàng: Hamburg,
Amsterdam, London, và chạy dài dọc bờ xây, xế hàng san sát vào nhau, là những
quán ăn, quán rượu, quán bar đầy những khách nam nữ đang ăn, uống, nói, cười,
lớn tiếng cãi cọ với nhau. Bỗng nhiên một nhu cầu không sao cường nổi giục giã
tôi trà trộn vào đám đông này, chen vai thích cánh với những con người có lẽ
cũng phàm tục, nhưng lại đầy sức sống.

Ở sân hiên một quán bar có những
dãy thùng nước đáp ướp nào sò, nào nhím biển, nào tôm càng, nào “dao biển”, nào
trai, nào vẹm, cả một cuộc trưng bày những món ăn hải sản ngon lành cám dỗ
người qua đường. Những chiếc bàn tải khăn ca-rô trắng chen đỏ, phần nhiều đều
có khách ngồi, như đang chào mời chúng tôi. Những cô gái da nâu nhạt, nét mặt
thanh tú, loại con gái lai da đen nhưng không còn giữ lại một nét nào của chủng
tộc negroid, thân hình bó chặt trong những bộ coóc-xê đủ màu cổ hở rất rộng,
đang đứng chào hàng, lại càng khiến cho người ta muốn thưởng thức các thứ đó
hơn nữa. Tôi đến cạnh một cô gái, nói:

- French money good? (Tiền Pháp
tốt không?) - vừa nói vừa đưa ra một tờ giấy bạc một ngàn francs.

- Yes, I change for you. (Tốt,
tôi đổi giúp ông).

Cô ta cầm lấy tờ giấy bạc rồi mất
hút trong căn phòng chật ních những người. Một lát sau cô ta trở lại, nói:

- Come here (đến đây) - rồi dẫn
tôi đến chỗ quầy tính tiền. Có một người Tàu đang ngồi đấy.

- Ông là người Pháp?

- Vâng.

- Đổi một ngàn francs à?

- Vâng.

- Đổi hết ra dollars Artilles à?

- Vâng.

- Hộ chiếu đâu?

- Không có.

- Thẻ thủy thủ?

- Không có.

- Giấy nhập cảnh?

- Không có.

- Được.

Người tàu nói mấy tiếng với cô gái, cô ta nhìn căn phòng một thoáng rồi đến
cạnh một người dáng dấp như một thủy thủ, đội một cái mũ cát-kết giống như cái
của tôi, có một vành lon kim tuyến và một cái mỏ neo, rồi dẫn hắn đến cạnh quầy
tính tiền. Người tàu nói:

- Giấy căn cước anh đâu?

- Đây.

Thế là người Tàu thản nhiên như không làm một tờ phiếu đổi một ngàn francs
mang tên người lạ mặt, bảo hắn ký vào, xong đâu đấy cô gái cầm cánh tay hắn lôi
đi. Chắc chắn là người kia không sao biết được việc gì đang xảy ra. Còn tôi thì
nhận hai trăm năm mươi dollars Antilles trong đó có năm mươi dollars bằng giấy
ăn một và ăn hai dollars. Tôi đưa cho cô gái một dollar, chúng tôi đi ra ngoài
và ngồi vào bàn gọi đủ các thứ món hải vị và mấy chai rượu vang trắng loại
mạnh, chén một bữa ngon tuyệt trần.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3