Kí Ức Của 1 Người Lính Trinh Sát Sư 307 (Phần 3) - Chương 09 - 10 - 11 - 12
PRẾT - VI - HIA MÙA KHÔ 1979.
Đầu
tháng 4/ 1979, sư đoàn 307 bước vào giai đoạn củng cố lực lượng và xây dựng thế
phòng thủ chiến lược. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ phối thuộc cùng f309 giải
phóng và truy quét tàn quân địch ở Mundunkiri, trung đoàn 94 về lại đội hình sư
đoàn 307, sư đoàn 309 bằng đường không và đường bộ đã lật cánh sang MT479 cùng
với e726 của Đắc Lắk (hay Gia Lai?), thay thế khu vực này là sư đoàn 2 chủ lực
quân khu 5, đơn vị có truyền thống “cho thuê” chi viện cho các mặt trận ngoài
Quân khu 5, vừa nghi binh rút khỏi đội hình Quân đoàn 4, về nước bằng đường
không lẫn đường bộ, sau đó vòng lại truy quét chiến trường Đông bắc, qua ngõ Quốc
lộ 13 Tây Ninh – Stungtreng – Vonsai – Konhek (đơn vị của các bác Hungnt E1F2,
Vutrieuduong E1F2) đồng thời với việc tăng cường lực lượng từ hậu phương sang
như sư đoàn 315 (đơn vị của bác dongminhkh) được bố trí đến bờ sông Mê Kông,
trung đoàn 20 CANDVT tăng cường cho tỉnh Preah Vihear, các đoàn chuyên gia được
thành lập từ đoàn 5501 đến đoàn 5504. Đoàn 5504 phụ trách địa bàn tỉnh Preah
Vihear, căn cứ đoàn bộ ở thị xã Kulen và Phnom Thbeng, chịu trách nhiệm từ
Rovieng giáp với lực lượng của QK7 (tỉnh Congpong Thom) và đến núi Hồng của
f302 QK7. Bản đồ tác chiến của mặt trận 579 ở Phòng Tham mưu f307, chằng chịt
các kí hiệu di chuyển và bố trí quân, tình hình chiến trường lúc đó yêu cầu
tính khẩn trương cao độ của toàn MT579.
Tiểu
đoàn 210 (e20 CANDVT) được đưa vào thay thế cho d1 e95, trấn thủ chùa Preah
Vihear, đội hình d1 e95 được chuyển về địa bàn Phum Kamtuot (c1 ở hướng đông,
c2 do quân số còn ít tăng cường thêm c4 bố trí tại Phum Char, c3 bố trí ở ngầm
Saem là giao lộ của đường 69 và 120, khối d bộ bố trí trong Phum Kamtuot). Có sự
thay đổi lớn về nhân sự trong thời gian này, Thiếu tá Ma Thanh Toàn e trưởng
e95 (sau này là Tư lệnh QK2) cùng một số cán bộ cấp trung đoàn, tiểu đoàn về nước
đi học và chuyển vùng, đội ngũ cán bộ cấp b,c cũng về Hòa Cầm - Đà Nẵng học trường
quân chính của Quân khu 5, đội ngũ này cuối năm 1979 đầu năm 1980 trở lại đơn vị,
thay thế các vị trí do sự thuyên chuyển. Trung đoàn 95 thành lập thêm d10 để bảo
vệ khu vực e bộ (d trưởng đầu tiên là Trịnh Minh Hổ sau này là Chỉ huy trưởng
BCHQS tỉnh Bình Định). Lực lượng trinh sát Sư đoàn lúc này mới thực sự tập
trung, chốt ở phía bắc f bộ f307 tại giao lộ 120 và 69 (ngầm Saem), suốt cả
hành trình chiến dịch bị chia năm xẻ bảy, anh em trong toàn đơn vị bây giờ mới
tập trung, chăm lo củng cố xây dựng đơn vị, trong sư đoàn chỉ có C trinh sát là
không có ai thuyên chuyển, vì quân số còn ít, cơ bản sử dụng cán bộ tại chỗ,
anh em hầu hết là lính mới nhập ngũ các năm 1977, 1978. BCH đến tháng 9/ 1979 mới
bổ sung hoàn chỉnh đủ bốn người, từ các đơn vị của d32 trinh sát QK đi học chuyển
về.
Tháng
9/ 1979 sau đợt bổ sung quân số tháng 7/ 1979 bao gồm anh em các tỉnh QK5 (đa số
là Khánh Hòa) toàn Sư đoàn bước vào đợt truy quét đầu tiên sau chiến dịch. Được
e20 CANDVT hỗ trợ phía sau của địa bàn, mỗi e có một d thực hiện nhiệm vụ này.
Vốn gắn bó với e95 ngay từ chiến dịch, tôi được điều về trung đoàn “anh cả” này
cùng hơn mười anh em khác. Khó khăn lớn nhất lúc đó của anh em ta là quân
trang, hầu như không ai còn bộ quần áo nào lành lặn, nhiều anh em bộ binh phải
dùng cả dây kẽm mìn KP2, khâu những đường chỉ đã bị bung, giày vải đã hư toàn bộ,
nhìn anh em CANDVT được trang bị giày bata thấp cổ ai cũng thích. Nhìn đoàn chiến
sĩ ra đi trong trang bị như vậy, cả Tư lệnh Phạm Bân và Chính ủy Lê Lung không
khỏi chạnh lòng, chính Tư lệnh cũng vào kiểm tra công tác chuẩn bị của d1 e95 với
đôi giày đã không còn nguyên vẹn.
Cánh
quân thứ hai của đợt truy quét là d7 e29 thực hiện nhiệm vụ tại khu vực Cầu Cháy
(giáp với địa bàn của đoàn 5504) về hướng Anlongveng, để có thể hỗ trợ cánh
quân của d1e95 từ phía sau, nếu có tình huống không thuận lợi. Để bảo đảm cho bộ
đội cơ động nhanh và hiệu quả, vì địa hình truy quét khá khó khăn, phải vượt
qua nhiều suối lớn, ta chỉ dùng hỏa lực cá nhân là chính, hạn chế dùng hỏa lực
mang vác nặng, đội hình truy quét hướng e29 được hỗ trợ pháo binh của e572 QK5
tại Kulen, và e95, e94 vẫn giới hạn trong tầm pháo chi viện của sư đoàn.
Cánh
thứ ba là d4 e94 do mới về lại đội hình sư đoàn, nên nhiệm vụ truy quét có phần
hạn chế hơn, đảm bảo địa hình khu vực núi Cụt về đến Choamkhsan cùng với e576
pháo binh của f.
Sau
lễ Quốc Khánh 2 – 9 đội hình truy quét của các hướng trong toàn sư đoàn 307 lên
đường, giữa những cơn mưa lớn, triền miên của vùng cực bắc Campuchia.
Một
nhiệm vụ mới bắt đầu, với muôn vàn khó khăn vất vả ở phía trước.
HÀNH TRÌNH KAMTUOT – NÔNG TRƯỜNG
ANLONGVENG. (2)
Ca
làm việc của thông tin đã hết, phải chờ đến sáng mới liên lạc ở nhà được. Anh Bửu
e95 bàn với tôi về tình huống này, và cuối cùng quyết định bám theo địch, không
bỏ lỡ cơ hội tìm hiểu xem chúng làm gì. Xác định trên bản đồ, chúng tôi đặt
tình huống là nếu chúng đi thẳng, thì đội hình chúng không cắt ngang qua d1,
cách đội hình d1 đang phục gần 2 km, còn nếu chúng vào Phum thì sẽ đụng phải
quân ta.
Bí
mật bám theo chúng trong đêm, luôn xác định và theo dõi trên bản đồ xem chúng
có chuyển hướng vào đội hình d1 không, ban ngày đi đã khó, ban đêm càng khó
hơn, chúng tôi buộc phải bám theo và cách chúng không quá 50 m, có những đoạn
do địa hình chỉ còn vài chục mét. Căn cứ vào đội hình địch, chúng tôi phán đoán
khoảng hơn một trăm tên nhưng không rõ chúng làm gì, chúng bám theo con đường
mòn mà chúng đã đi nhẵn nên chúng đi nhanh hơn ta. Suốt một đêm theo dõi và lúc
này chúng tôi thở phào nhẹ nhõm là không đi đúng vào đội hình d1.
Đến
giờ mở máy liên lạc buổi sáng, thì chúng dừng lại nghỉ bên một bãi tráng cách
d1 chừng 4 km (cả đêm chỉ đi gần 10 km), lúc này chúng tôi mới biết là chúng
đang vận chuyển nhưng không hiểu là hàng hóa hay vũ khí. Chúng tôi báo cáo tình
hình về d1 và nhận được lệnh phải bám theo địch và liên tục báo cáo về hướng di
chuyển của chúng.
Chúng
tôi vừa bám theo địch vừa cố gắng bắt liên lạc với d1, đang trên đường hành
quân tiếp cận với đội hình địch. Sau giờ giải lao, địch lại lên đường và theo
hướng về Choamkhsan.
Hai
giờ sau, xác định được hướng hành quân của d1, chúng tôi bắt liên lạc được với đội
hình d1, nghiên cứu và cân nhắc tình hình, tương quan lực lượng cũng như vũ
khí, lường trước những tình huống xấu có thể xảy ra, nhất là tình huống đây chỉ
là lực lượng đi đầu, còn một lực lượng lớn phía sau. Phương án tác chiến được
thông qua:
1.
Đội hình địch khoảng gần một trăm tên, trang bị bằng AK và vài khẩu AT, không
thấy trang bị vũ khí khác.
2.
C2 hỗn hợp + khẩu DKZ nhanh chóng cơ động về phía con suối trước đội hình khoảng
hơn một kilômét, đưa đội hình vượt suối, phục kích phía bên kia bờ, vì địch sẽ
dừng lại để vượt suối, lưu ý khả năng có một lực lượng địch đón nhận hàng phía
bên kia suối.
3.
Lực lượng còn lại c1, c3 và hỏa lực 12.7 sẽ bám theo địch hai bên sườn và chờ
thời cơ nổ súng.
4.
Một bộ phận trinh sát và bộ binh nằm lại vị trí theo dõi phía sau địch.
Chẳng
hiểu vì lí do gì mà địch dừng lại lâu thế, chắc hơn một giờ đồng hồ, cả bộ phận
d1 đều nóng ruột, thủ trưởng Nam nhắc nhở bộ phận trinh sát phía sau cảnh giác,
vì có thể chúng chờ đội hình lớn phía sau (nhưng tình huống này cuối cùng không
xảy ra).
Khi
đội hình địch bắt đầu xuất phát, bộ phận tiền trạm phía trước của c2 hỗn hợp
báo về là đã vượt suối xong, không thấy lực lượng nào của địch ở vị trí bên kia
suối, ta triển khai đội hình bám theo địch, và có lệnh là bất cứ cánh quân nào
bị lộ là nổ súng. Đội hình chúng đi rất co cụm và luôn nói chuyện không ngớt.
Khi
đến bờ suối, chúng dừng lại và chuẩn bị vượt suối, nhưng khó khăn là vị trí vượt
của chúng cách vị trí c2 phục gần 500 m, nên c2 buộc phải di chuyển theo vị trí
đội hình chúng. Nơi chúng vượt là nơi lòng suối hẹp hơn các đoạn khác chỉ chừng
vài chục mét, nước chảy rất xiết, chúng đổ một cây dầu đỏ đường kính hơn 1 m, vắt
ngang qua suối và chúng dùng rìu đẽo gọt mặt trên của cây, bề mặt tiếp xúc với
bàn chân khoảng 50 – 60 cm, có làm dây rừng để vịn tay khi qua suối, sau trận
đánh kiểm tra cây dầu đỏ này thì chúng đã đốn chừng vài tháng, vết dầu chảy ra
đã cứng lại từng mảng, chúng tỏ chúng đã dùng con đường này vận chuyển nhiều
chuyến vào sâu trong nội địa.
Phương
án tác chiến lúc ban đầu là chờ lúc chúng đã qua suối khoảng một phần ba lực lượng,
thì c2 nổ súng, đồng thời phía hai bên sườn c1,c3 cũng đồng loạt nổ súng theo. Khi
quan sát thấy địch co cụm, chủ quan dễ bị tiêu diệt, Thủ trưởng Nam đổi ý định
lúc ban đầu: dùng lực lượng c1 và c3 đánh thốc từ phía sau dồn chúng ra bờ suối,
c2 chỉ dùng lực lượng nhỏ rải dọc theo bờ suối dùng cách bắn tỉa tiêu diệt, vì
khi rớt xuống suối nước đang chảy xiết như thế, khả năng còn sống rất thấp dù
biết bơi giỏi, lực lượng còn lại của c2 không động tĩnh để giữ bí mật, chuẩn bị
tình huống đoán đánh lực lượng nhận hàng của địch, khi nghe nổ súng chi viện
cho bộ phận chuyển hàng.
D
trưởng d1 Thủ trưởng Vệ sử dụng khẩu B40 của một chiến sĩ c3 bắn đầu tiên, phát
lệnh nổ súng (cự li tiếp cận địch của c3 gần hơn c1), sau đó đồng loạt các loại
hỏa lực B bắn vào đội hình để uy hiếp địch và sát thương hiệu quả hơn, sau đó
là các loại trung liên và tiểu liên cá nhân. Lực lượng địch bị bất ngờ chỉ bắn
về phía ta một trái AT duy nhất và những loạt đạn AK kéo dài chỉ được vài phút (sau
này nghe anh em c2 phía bên kia suối kể lại, thì ngay loạt đạn đầu tiên địch đã
bị tiêu diệt nhiều, lực lượng nằm lại bờ suối bắn lại ta khoảng vài chục tên,
nhưng phản ứng cũng không kịp vì bị c2 bắn tỉa, cùng với một số hoảng quá nhảy
xuống suối bị nước cuốn đi).
Một
nhóm địch bảy tên (có hai nữ) thấy ta tấn công mạnh quá, co lại gần một ụ mối, khi
c1 tiếp cận bờ suối thì chúng nổi lên khóc và ôm chặt vào nhau.
Kiểm
tra hàng của địch thì nhiều nhất là mìn KP2 và đạn B40, khổ sở cho anh em ta lại
phải vận chuyển ra đường 69 cả mấy tấn vũ khí, để chờ bộ phận phía sau lên giải
quyết chiến lợi phẩm, cùng với tù binh địch. Đội hình d1 phải dừng cuộc truy
quét lại vì công việc này phải mất vài ngày vì còn phải thông đường về gấn đến Phum
Char.
Bộ
phận trinh sát tiếp tục lên đường hướng về phía tây để vào khu vực nông trường
Anlongveng, chuẩn bị địa hình cho d1 truy quét.
ĐƯỜNG VÀO ANLONGVENG
Từ
vị trí d1 dừng chân đến khu vực Anlongveng không còn xa lắm, chỉ hơn một ngày
đường, nhưng do địa hình quá phức tạp, nên phải mất hai ngày mới tiếp cận với
khu vực Anlongveng. Mưa như trút nước suốt cả ngày lẫn đêm, quân trang thiếu thốn,
không ai còn đủ hai bộ quần áo cho lành lặn, do lực lượng quá mỏng trên dưới hai
mươi người nên không dám đốt lửa nấu cơm cũng như hong khô quần áo, giày, bít tất.
Ban đêm ngủ mặc bộ quần áo khô, phơi bộ quần áo ướt, sáng hôm sau lại mặc quần
áo ướt vào, cất bộ khô, ai bị hiện tượng nấm chân ban đêm ngứa không tài nào ngủ
được, chưa kể đến anh em bị hắc lào gặp thời tiết và quần áo ẩm ướt ban đêm nằm
trên võng đều dạo khúc đầu hòa tấu bài “tiếng đàn Ta lư”…
Anlongveng
là một khu vực bằng phẳng, chiều dài khoảng vài chục cây số, từ bìa rừng trong
nội địa đến chân dãy Dangrek cũng vài cây số có hơn, khi bộ phận trinh sát tiếp
cận cách Phum chính trên dưới 5 km thì gặp một bãi mía ngút ngàn cao quá đầu
người, leo lên cây bằng lăng cao để quan sát thấy cả một khu vườn với các loại
cây ăn trái, có cả rừng dừa mấy trăm cây trĩu quả. Không vào Phum chính vì lí
do lực lượng ít, lỡ gặp địch khó có thể hoàn thành nhiệm vụ, nên suốt ba ngày
liền thay phiên nhau quan sát, ban đêm bò vào Phum nắm tình hình có địch hay
không. (Lúc này phải dùng máy thông tin 71 (2 W) mới liên lạc được với SCH e95
và Sư đoàn).
Do
tình hình thay đổi so với dự kiến trước đây, bộ phận truy quét được tăng cường
thêm lương thực, cũng như trang bị thêm cối 82 để có thể tác chiến dài ngày (lúc
đầu là mười ngày cả đi lẫn về). Ngày thứ chín đội hình d1 bắt liên lạc với
trinh sát và tiến vào Phum chính. Là một Phum gần biên giới nhưng có thể là một
Phum quan trọng nên nhà cửa ở đây đông đúc, không có dấu hiệu của sự hoang tàn,
chiều dài của Phum dài hơn 2 km (nghe dân nói đây là một nông trường lớn của Pốt).
Sau
khi d1 bố trí đội hình phòng thủ trong Phum hoàn chỉnh, bộ phận trinh sát được
nghỉ hai ngày để lấy lại sức sau mấy ngày “cô đơn, độc mã giữa rừng gươm,” anh
em ở chung với khối d bộ d1 nên cũng thoải mái đôi chút, tất cả mọi thứ đều do
d1 đảm nhiệm từ tuần tra cho đến gác đêm (cái sướng nhất của đời lính).
Kiểm
tra dấu vết trong Phum thì vẫn có sự hoạt động của địch, nhiều dấu vết vẫn còn
mới, có khả năng địch vẫn lui tới khu vực này. Đài kĩ thuật của f luôn thông
báo là có sự di chuyển của địch trong khu vực, và qua trận đánh trước ta bắt tù
binh nên cũng khai thác được đôi chút về tình hình của địch.
Đội
hình d1 được chia thành hai mũi truy quét do trinh sát e95 đảm nhận, mỗi mũi là
C tăng cường, còn một C bảo vệ Phum. Bộ phận trinh sát f không tham gia truy
quét cùng với d1 mà có nhiệm vụ tuần tra sát biên giới, nắm tình hình và báo
cáo về SCH f.
Một
lực lượng gần hai mươi người, trang bị máy 71 (2 W), lương khô mười ngày, trang
bị y tế thuốc men đầy đủ, chúng tôi lại lên đường theo yêu cầu của nhiệm vụ,
cách xa d1 hàng chục kilômét, bám theo sườn núi phát hiện dấu vết của địch.
HÀNH TRÌNH TRUY QUÉT. (1)
(Từ
địa bàn giáp Siemreap đến thượng nguồn suối hai mùa Stoeng Sreng).
Từ
Anlongveng cắt về hướng Tây bắc một ngày đường, chúng tôi đến địa phận giáp với
tỉnh Siemreap của QK7. Theo nhiệm vụ được giao, chúng tôi bắt liên lạc với bộ
phận trinh sát của mặt trận 479, nhưng chờ cả ngày trong phạm vi hơn 2 km2
mà không gặp anh em 479, đành phải quay ngược về hướng đông, bám theo dọc biên
giới, men theo rìa các bình độ thấp dưới chân dãy Dangrek (sau này được biết là
trinh sát ta gặp địch, thương vong nhiều nên không thực hiện được kế hoạch). Dù
cuối mùa mưa nhưng khu vực này quả là nhiều suối, nước từ đất Thái chảy về như
thác, nên cũng rất khó khăn để vượt qua các con suối, chỉ có một chiến sĩ quê ở
Cam Đức, Cam Ranh - Khánh Hòa không biết bơi, chúng tôi phải đi ngược lên bình
độ cao hơn cả mấy giờ liền tìm vị trí thuận lợi để vượt (sau này khi đơn vị
trinh sát nhận tân binh phải yêu cầu biết bơi).
Giữa
ngày thứ tư của cuộc tuần biên, chúng tôi gặp một kho của địch với nhiều căn
nhà tranh, mỗi căn dài gần chục mét nhưng không có vách. Lui lại vài trăm mét,
chiếm các vị trí có lợi, bố trí lực lượng chiến đấu và tổ chức bám địch. Suốt cả
buổi chiều, năm anh em bám sát mục tiêu nhưng không phát hiện địch, ban đêm
tranh thủ trời mưa to ta tiếp cận dãy kho này.
Đây
là trạm trung chuyển vũ khí của chúng, hàng trong kho này toàn đựng trong thùng
gỗ các loại, một số chúng tôi xác định được như thùng đạn B40, ống thiếc đạn
DKZ. Báo cáo về SCH f thì nhận được chỉ thị tiếp tục quan sát xung quanh và chờ
lực lượng d1 tới (thông tin được liên lạc 24/ 24).
Khoảng
xế chiều ngày thứ sáu, chúng tôi bất ngờ phát hiện hai con voi to trên lưng chở
đầy hàng, thấy những thùng gỗ có con số 800 màu trắng, sau đó là một toán Pốt
hơn chục tên, quần áo đen có vẻ nhếch nhác, nhiều tên không thấy mang súng, số
còn lại chỉ mang AK báng xếp đi vào khu vực kho.
Đến
nơi, chúng cho voi dừng lại… dỡ hàng xuống… khiêng, vác đem chất vào kho. Gần tối,
có lẽ cũng biết là ta mới đánh chúng cách mấy ngày, nên cũng cảnh giác phần
nào, có tám tên mang súng đi vòng quanh kho kiểm tra, có hai thằng chỉ cách anh
Hoàng (quê Tư Nghĩa – Quảng Ngãi chỉ hơn chục mét). Không thấy gì, chúng về kho
và có mấy thằng mắc võng ở đầu nhà kho. Ban đêm chỉ nghe chúng nói chuyện rôm rả
và cười chứ không đốt lửa.
Qua
liên lạc, đội hình d1 chỉ có lực lượng c2 là gần chúng tôi nhất, nên vào lúc đó
c2 cách chúng tôi hơn 10 km, như vậy phải mất gần một ngày nữa thì c2 mới tiếp
cận được mục tiêu.
Lệnh
của SCH e95 như sau:
Nếu
sáng mai trên đường đi, c2 gặp địch nổ súng không thể đến nơi được. Bộ phận
trinh sát được phép tấn công địch nếu thấy thuận lợi, không chờ lực lượng bộ
binh. Lưu ý trong trận đánh bằng mọi giá giải quyết tốt chính sách thương binh
liệt sĩ, tù binh, hàng binh. Nếu vì điều kiện không thể nổ súng được, cũng cố gắng
bám địch, chờ hướng giải quyết của cấp trên. Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của
Thủ trưởng d1 trong tác chiến. (Câu cuối này hơi bị thừa) Hết.

